Những vấn đề liên quan đến tuổi nghỉ hưu và góp ý hoàn thiện dự thảo sửa đổi bộ luật lao động

Góp ý về phương án tăng tuổi nghỉ hưu trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLLĐ năm 2012 đang được cơ quan chủ trì soạn thảo đưa ra lấy ý kiến là việc làm rất cần thiết và đã nhận được nhiều ý kiến phản hồi của dư luận, nhất là về hai phương án tuổi nghỉ hưu. Điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay và trong vài thập niên tới cho phép chúng ta có thể và cần phải theo xu thế chung của thế giới quy định về tuổi nghỉ hưu được kéo dài, nhưng không tăng đồng loạt cho tất cả các loại lao động làm việc ở mọi lĩnh vực, ngành, nghề mà chỉ cho một số loại lao động như lao động trình độ cao và một số lĩnh vực (khu vực hành chính nhà nước, khu vực sự nghiệp công, khu vực sản xuất áp dụng công nghệ cao ) và phải có lộ trình hợp lý phù hợp với trình độ phát triển của đất nước giai đoạn đến 2030, tầm nhìn đến 2050 và xa hơn nữa. Đối với lao động nữ, nếu theo lộ trình đến 2030, tầm nhìn đến 2050 và không tăng đồng loạt, chỉ tăng cho một số loại lao động như góp ý ở điểm trên thì có thể tăng tuổi nghỉ hưu của lao động nữ lên 60 để đảm bảo BĐG. Tuy nhiên, cần xác định thật rõ và cụ thể loại lao động nữ nào áp dụng tăng tuổi nghỉ hưu lên 60 với tiêu chí thật rõ ràng. Về lộ trình, theo Dự thảo, bắt đầu từ ngày 1/1/2021 mỗi năm tăng thêm 06 tháng thì chỉ cần 4 năm thực hiện - đến năm 2024, chúng ta sẽ hoàn thành việc tăng tuổi nghỉ hưu đối với nam từ 60 lên 62 và cần 10 năm - đến năm 2030 sẽ hoàn thành việc tăng tuổi nghỉ hưu đối với nữ, từ 55 lên 60. Lộ trình thời gian thực hiện như vậy là nhanh. Với lộ trình này, việc tăng tuổi nghỉ hưu nhanh sẽ tạo sức ép cho xã hội về việc làm và các vấn đề khác nên rất khó tạo ra sự đồng thuận. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, cần áp dụng lộ trình mỗi năm chỉ tăng 2 tháng hoặc 3 tháng để làm chậm quá trình tăng tuổi nghỉ hưu, nhằm giảm bớt sức ép về mặt xã hội

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 219 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những vấn đề liên quan đến tuổi nghỉ hưu và góp ý hoàn thiện dự thảo sửa đổi bộ luật lao động, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHÖÕNG VAÁN ÑEÀ LIEÂN QUAN ÑEÁN TUOÅI NGHÆ HÖU VAØ GOÙP YÙ HOAØN THIEÄN DÖÏ THAÛO SÖÛA ÑOÅI BOÄ LUAÄT LAO ÑOÄNG Nguyễn Hữu Dũng* Tóm tắt: Bài viết phân tích một số vấn đề liên quan đến tuổi nghỉ hưu và góp ý hoàn thiện Dự thảo Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động. Abstract: This article provides analysis of a number issues related to the retirement age and recommendations for improvements of the Bill on Labor (amended). Thông tin bài viết: Từ khóa: Bộ luật Lao động, tuổi nghỉ hưu, già hoá dân số. Lịch sử bài viết: Nhận bài: 24/04/2017 Biên tập: 17/06/2017 Duyệt bài: 22/06/2017 Article Infomation: Keywords: Labor Code, retirement age, citizen aging. Article History: Received: 24 Apr. 2017 Edited: 17 Jun 2017 Appproved: 22 Jun 2017 * TS, Viện trưởng Viện Nghiên cứu an sinh xã hội và phát triển hoà nhập (INSPID). 1. Các yếu tố liên quan đến tuổi nghỉ hưu Quy định tuổi nghỉ hưu hợp lý là vấn đề rất lớn liên quan đến quyền và lợi ích của hàng triệu người lao động. Tăng tuổi về hưu hiện cũng đang là xu thế chung của thế giới và Việt Nam không phải là ngoại lệ. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (Bộ LĐ-TB- XH) đã đề xuất tăng tuổi hưu cho một số loại lao động và có lộ trình hợp lý là phù hợp với xu thế đó. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động (BLLĐ) đưa ra các phương án tăng tuổi nghỉ hưu để lấy ý kiến rộng rãi là điều cần thiết và đã được báo chí, dư luận xã hội quan tâm. Đây cũng là một hoạt động có tính tích cực để các nhà hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật xem xét Dự thảo một cách cẩn trọng, dựa trên cơ sở những luận chứng khoa học chắc chắn, sự đồng thuận xã hội cao để có quyết sách đúng. Về mặt lý thuyết, việc quy định tăng, giảm tuổi nghỉ hưu liên quan đến nhiều yếu tố kinh tế - xã hội. Trong đó đặc biệt là các yếu tố tăng trưởng kinh tế với bài toán về việc làm và thất nghiệp; sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực; trình độ kỹ thuật và công nghệ áp dụng vào sản xuất; số lượng, chất lượng và cơ cấu dân số; bình đẳng giới; cân đối quỹ bảo hiểm xã hội (BHXH) trong dài hạn Việc quy định tuổi nghỉ hưu ở độ tuổi nào, tăng giảm tuổi nghỉ hưu ra sao cần phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước và các nhà hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật phải có sự phân tích, lập luận BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 20 Số 12(340) T6/2017 thuyết phục, đánh giá tác động của tất cả các yếu tố này đến tuổi nghỉ hưu (cả thuận chiều và không thuận chiều) để lựa chọn phương án tối ưu nhất. Về nguyên lý, có thể phân tích tác động của các yếu tố đến quy định tuổi nghỉ hưu như sau: -Yếu tố tăng trưởng kinh tế với bài toán về việc làm và thất nghiệp: Yếu tố này tác động đến tuổi nghỉ hưu trên cả hai góc độ: giả định các yếu tố khác liên quan đến tăng trưởng kinh tế là không đổi, thì tăng tuổi nghỉ hưu sẽ góp phần tăng trưởng kinh tế nhờ tăng khối lượng hay thời gian lao động. Tuy nhiên, nếu tăng trưởng kinh tế mà chưa tạo ra tốc độ tăng trưởng việc làm cao hơn tốc độ tăng lực lượng lao động (LLLĐ) hàng năm, thì việc tăng tuổi nghỉ hưu sẽ dẫn đến tình trạng một bộ phận lao động sẽ mất cơ hội việc làm hoặc rơi vào tình trạng thất nghiệp, nhất là nhóm LLLĐ trẻ. - Yếu tố sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực: Tăng tuổi nghỉ hưu sẽ góp phần sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực (NNL) trình độ cao, nhất là trong một số ngành nghề, lĩnh vực cần sử dụng loại lao động trình độ cao. NNL có trình độ cao thì kể cả ở độ tuổi 60 – 70 họ vẫn có thể phát huy năng lực của mình. Song yếu tố này chỉ có ý nghĩa đáng kể đối với khu vực hành chính nhà nước và sự nghiệp công lập khi không bị thiếu hụt NNL trình độ cao, còn ở khu vực kinh tế thị trường, sự tác động sẽ không nhiều do sau khi nghỉ hưu, họ vẫn có thể tiếp tục làm việc theo hợp đồng. - Trình độ kỹ thuật và công nghệ áp dụng vào sản xuất: Theo nguyên tắc, khi một đất nước có nền kinh tế phát triển, nhất là dựa trên cơ sở nền kinh tế tri thức - ở đó việc áp dụng vào sản xuất kỹ thuật và công nghệ đạt trình độ cao, thì điều kiện lao động được cải thiện tốt hơn, việc làm nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm đã được máy móc, thiết bị công nghệ, tự động hoá cao thay thế con người nên có khả năng kéo dài tuổi nghỉ hưu cho mọi người lao động làm việc trong các lĩnh vực, ngành nghề và cho cả lao động nam cũng như lao động nữ. Song, nếu nền kinh tế phát triển đang ở trình độ thấp thì không thể kéo dài tuổi nghỉ hưu đồng loạt cho mọi người lao động làm việc ở tất cả các lĩnh vực và theo sự phân công lao động khác nhau về ngành nghề, nam và nữ Lao động làm việc trong những lĩnh vực, ngành nghề nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm sẽ khó kéo dài tuổi nghỉ hưu, thậm chí còn cần phải rút ngắn tuổi nghỉ hưu. - Yếu tố số lượng, chất lượng và cơ cấu dân số: Trong trường hợp dân số có xu hướng già hoá, nhất là già hoá nhanh, cộng với tuổi thọ trung bình của người dân được nâng lên, tình trạng thiếu hụt LLLĐ sẽ ngày càng tăng và do đó, tăng tuổi nghỉ hưu là xu hướng cần thiết, khách quan để bù đắp LLLĐ thiếu hụt, đồng thời tránh lãng phí lao động, nhất là lao động trình độ cao. Tuy nhiên, cũng cần phải phân tích về chất lượng dân số, nhất là về độ khoẻ mạnh của dân số, vì nếu không đảm bảo chất lượng dân số thì cũng khó có thể tăng tuổi nghỉ hưu. - Yếu tố bình đẳng giới: Bình đẳng về tuổi nghỉ hưu giữa lao động nam và lao động nữ là một trong những chỉ tiêu quan trọng của bình đẳng giới (BĐG). Việc rút ngắn khoảng chênh lệch và tiến tới sự ngang bằng nhau về tuổi nghỉ hưu giữa lao động nam và lao động nữ sẽ là một bước tiến quan trọng để thực hiện BĐG trong lĩnh vực lao động và việc làm. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra không chỉ là bình đẳng về tuổi nghỉ hưu mà còn phải tính đến việc giảm nhẹ gánh nặng cho phụ nữ trong chức phận sinh nở, chăm sóc con cái, giải phóng phụ nữ khỏi công việc nội trợ - Yếu tố cân đối quỹ BHXH trong dài hạn: Yếu tố này còn phụ thuộc vào mô hình BHXH. Với mô hình BHXH tọa thu - tọa chi, tức là thu BHXH của người đang đi làm để chi cho người đã nghỉ hưu (pay as you go) thì vấn đề cân đối quỹ BHXH trong dài hạn, nhất là bảo hiểm hưu trí, phụ thuộc vào các tham số đóng xác định (defined contribution - DC) và tham số hưởng xác định (defined benefit – DB) thông qua công thức tính lương hưu. Trong đó, tuổi nghỉ hưu chỉ là một tham số. Tăng tuổi nghỉ hưu cũng góp phần cân đối quỹ hưu trí nhưng chưa đủ, mà còn phải tính đến các tham số quan trọng khác nữa. BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 21Số 12(340) T6/2017 Theo kinh nghiệm quốc tế, trên cơ sở đánh giá tác động của các yếu tố trên đối với tuổi nghỉ hưu, mỗi nước đều có sự lựa chọn khác nhau để quy định tuổi nghỉ hưu, tựu trung có thể chia ra ba nhóm nước: Các nước phát triển có dân số già, tốc độ tăng trưởng việc làm hàng năm cao hơn tốc độ tăng LLLĐ, dẫn đến thiếu lao động, nên thường quy định tuổi nghỉ hưu nam nữ như nhau và kéo dài tuổi nghỉ hưu đến 65 tuổi thậm chí là đến 67 tuổi. Các nước đang phát triển ở trình độ cao, đang bước vào thời kỳ già hoá dân số, tốc độ tăng trưởng việc làm đảm bảo thu hút lao động tăng thêm hàng năm thì có xu hướng kéo dài tuổi nghỉ hưu lên từ 63 - 65 tuổi, nam nữ như nhau hoặc chỉ chênh lệch nhau 1 - 2 tuổi. Các nước đang phát triển ở trình độ thấp hoặc kém phát triển, tăng trưởng kinh tế chưa đảm bảo tạo đủ việc làm để thu hút hết LLLĐ vào làm việc, cơ bản vẫn là nước dư thừa lao động nên thường quy định tuổi nghỉ hưu nam là 60 tuổi, nữ 55 tuổi và cũng đang có xu hướng kéo dài lên 62 - 63 tuổi, nhưng phải có lộ trình hợp lý. 2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quy định tuổi nghỉ hưu trong Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động Trong Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLLĐ (Bản Dự thảo ngày 10/4/2017) và Dự thảo Tờ trình Chính phủ về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLLĐ đăng trên Website để lấy ý kiến nhân dân đã đưa ra hai phương án (Điều 148. Tuổi nghỉ hưu) và sáu lý do (yếu tố) phải tăng tuổi nghỉ hưu (xem hộp dưới đây). Hai phương án: Điều 148. Tuổi nghỉ hưu Phương án 1 (hiện hành): Tuổi nghỉ hưu của người lao động bình thường làm việc trong điều kiện lao động bình thường là: nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi. Phương án 2 (tăng tuổi nghỉ hưu kể từ 01/1/2021 và theo lộ trình): Tuổi nghỉ hưu của người lao động bình thường làm việc trong điều kiện lao động bình thường là: nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi. Từ 01/01/2021 cứ mỗi năm tăng thêm 06 tháng cho đến khi nam đủ 62 tuổi, nữ đủ 60 tuổi. 2. Người lao động bị suy giảm khả năng lao động; làm công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm công việc, nghề nghiệp đặc thù có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn so với quy định tại khoản 1 Điều này. 3. Người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, người lao động làm công tác quản lý và một số trường hợp đặc biệt khác có thể nghỉ hưu ở tuổi cao hơn nhưng không quá 05 năm so với quy định tại khoản 1 Điều này. Chính phủ quy định chi tiết khoản 1, khoản 2 và khoản 3 Điều này. Sáu lý do (yếu tố) tăng tuổi nghỉ hưu (Theo tờ trình Chính phủ đăng trên Website): (1) Tuổi thọ bình quân của người Việt Nam những năm gần đây đã tăng nhiều so với giai đoạn trước đây và khoảng cách giữa tuổi thọ bình quân với tuổi nghỉ hưu bình quân là rất dài nên thực tế, nhiều người nghỉ hưu vẫn tiếp tục tham gia lao động, có nhu cầu làm việc thêm, và họ vẫn có đủ sức khỏe tham gia lao động tiếp; (2) Dân số nước ta đang chuyển từ thời kỳ dân số vàng sang giai đoạn già hóa dân số, trong tương lai lực lượng lao động trẻ sẽ thiếu hụt; (3) Nếu cứ giữ tuổi nghỉ hưu như hiện tại thì quỹ hưu trí, tử tuất không đảm bảo trong dài hạn; (4) Bảo đảm sự không phân biệt đối xử về tuổi nghỉ hưu giữa lao động nam và lao động nữ để phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế như Công ước Cedaw, Công ước của ILO...; (5) Tận dụng được nguồn nhân lực có trình độ, kỹ thuật cao và có kinh nghiệm; (6) Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã và đang điều chỉnh tăng tuổi hưu, có nước lên tới 67 tuổi. BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 22 Số 12(340) T6/2017 Có thể thấy rằng, các lý do tăng tuổi nghỉ hưu mà Tờ trình Chính phủ đưa ra là thực tế và có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, cần phân tích những tác động không thuận chiều khi tăng tuổi nghỉ hưu: - Việt Nam là nước đang đang phát triển có thu nhập trung bình thấp và đang đối mặt với những thách thức lớn phải vượt qua để không rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”. Thời gian qua, Việt Nam vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao (giai đoạn 2007 - 2016: bình quân 6,29%), nhưng chất lượng tăng trưởng còn thấp, do đầu tư chưa hiệu quả, hệ số ICOR rất cao (giai đoạn 2011 - 2015 là 6,91), tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn (trên 50%), hệ số co giãn việc làm thấp (chỉ khoảng 0,25 - 0,33) nên tốc độ tăng trưởng việc làm luôn thấp hơn tốc độ tăng LLLĐ (giai đoạn 2011 - 2015: dưới 1% so với 1,65%). Về cơ bản, Việt Nam vẫn là nước dư thừa lao động cả trong hiện tại và trong tương lai. Hàng năm có khoảng trên 1,1 triệu người thất nghiệp, trong đó thanh niên chiếm tỷ trọng cao (trên 53%). Theo Bộ LĐ-TB-XH và Tổng cục Thống kê, tỷ lệ thất nghiệp thanh niên cả nước khoảng gần 7%, cao gấp hơn 3 lần tỷ lệ thất nghiệp chung của cả nước. Đặc biệt, lao động có trình độ đại học trở lên thất nghiệp hàng năm khá lớn, đến quý 4 năm 2016 khoảng 218,8 nghìn người. Nếu tăng tuổi nghỉ hưu chắc chắn tác động đến cơ hội việc làm của thanh niên1. Điều này là thực tế trong ngắn hạn, còn trong dài hạn, nếu tăng trưởng kinh tế tốt, đảm bảo tốc độ tăng trưởng việc làm hàng năm bằng hoặc cao hơn tốc tộ tăng trưởng LLLĐ thì sức ép về việc làm, thất nghiệp của thanh niên sẽ giảm đi, nhưng đó là một quá trình diễn ra trong nhiều năm. 1 Bản tin cập nhật Thông tin thị trường lao động, số 12 quý 4 năm 2016, tuc/2571-hoi-thao-ban-tin-cap-nhat-thi-truong-lao-dong-viet-nam-so-12-quy-42016 2 Ứng phó với thực trạng già hóa dân số: Việt Nam đang “già” rất nhanh. Xem: chuyen-nghanh/1275/%E1%BB%A9ng-pho-v%E1%BB%9Bi-th%E1%BB%B1c-tr%E1%BA%A1ng-gia-hoa-dan- s%E1%BB%91-vi%E1%BB%87t-nam-dang-gia-r%E1%BA%A5t-nhanh/ truy cập 22/6/2017. - Việt Nam đang ở thời kỳ đỉnh cao của dân số vàng nhưng bắt đầu bước vào quá trình già hoá dân số từ năm 2017 khi tỷ lệ người cao tuổi chiếm 10% dân số và rất nhanh chóng trở thành một nước có dân số già. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam đang bắt đầu trở thành một trong những quốc gia có tốc độ già hóa nhanh nhất thế giới. Già hoá dân số, nhất là tuổi thọ trung bình của người Việt Nam tăng (đến năm 2016 đạt 75,6 tuổi) là yếu tố tác động thuận chiều đối với tăng tuổi nghỉ hưu. Tuy nhiên, chất lượng dân số của Việt Nam còn rất thấp. Theo một đánh giá từ năm 2012, số năm bình quân ốm đau, bệnh tật của dân số Việt Nam rất cao (khoảng 12 năm); tuổi bình quân khoẻ mạnh thấp (chỉ đạt 60,2 tuổi, xếp thứ 116/174 nước)2. Do đó, sức khoẻ đủ đảm bảo để duy trì khả năng lao động khi tăng tuổi nghỉ hưu là không mấy khả quan. Phương án tăng tuổi nghỉ hưu lên 62 theo lộ trình bắt đầu từ 1/1/2021 liệu có khả thi, khi tuổi bình quân khoẻ mạnh của dân số Việt Nam thấp hơn 62 tuổi? - Yếu tố trình độ áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ, nhất là công nghệ cao vào sản xuất tác động rất lớn đến khả năng tăng tuổi nghỉ hưu do điều kiện làm việc được cải thiện. Tuy nhiên, trên thực tế, trình độ phát triển của nền sản xuất nước ta còn rất hạn chế so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt, trình độ công nghệ áp dụng vào sản xuất còn thấp, chỉ có một số nhà máy áp dụng công nghệ cao nên điều kiện lao động được cải thiện hơn. Còn lại, trong những lĩnh vực lao động nặng nhọc, độc hại, những lĩnh vực công việc đòi hỏi sự khéo léo, tinh mắt, nhanh tay như: giày da, dệt may, lắp ráp điện tử... không có khả năng kéo dài tuổi nghỉ hưu. Hiện nay, BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 23Số 12(340) T6/2017 nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang có xu hướng thay đổi cơ cấu lao động để trẻ hoá, nên thường sa thải lao động đã đến tuổi 35, khiến nhiều lao động mất việc làm, phải chuyển đổi nghề nghiệp hoặc bị thất nghiệp. Trình độ tiến bộ của kỹ thuật và công nghệ áp dụng vào sản xuất nếu chưa được cải thiện thì sẽ tác động xấu đến sức khoẻ người lao động ngay từ khi rất trẻ, dẫn đến tình trạng mất sức lao động sớm (năm 2012, tuổi bình quân về hưu là 54,2 so với quy định cả nam và nữ là 57,5). Đây là bài toán kinh tế - xã hội rất lớn cần phải tính đến khi tăng tuổi nghỉ hưu. Không thể đồng loạt tăng tuổi nghỉ hưu cho tất cả lao động làm việc trong những lĩnh vực, ngành nghề, công việc với điều kiện lao động chưa được cải thiện. - Tăng tuổi nghỉ hưu để góp phần đảm bảo cân đối quỹ BHXH, nhất là quỹ bảo hiểm hưu trí, trong dài hạn cũng là giải pháp cần thiết, song không phải là lý do cơ bản nhất. Theo kết quả dự báo của ILO, với nền chính sách hiện hành thì quỹ hưu trí và tử tuất đến năm 2021 thu trong năm đủ chi trong năm, từ 2022 trở đi, để đảm bảo khả năng chi trả của quỹ phải lấy từ nguồn kết dư của quỹ. Đến năm 2034, quỹ hưu trí hoàn toàn cạn kiệt, mất khả năng chi trả3. Tình trạng này là do mô hình BXHH tọa thu - tọa chi đã bộc lộ những bất cập, khiếm khuyết rất cơ bản cả trong thiết kế chính sách và tổ chức thực hiện. Đó là mô hình với các tham số về mức hưởng lợi được xác định (DB) không tương thích với mức đóng góp được xác định (DC); đối tượng tham gia BHXH còn rất nhỏ bé (BHXH bắt buộc mới chiếm 24,1% LLLĐ và BHXH tự nguyện mới chiếm 0,25% LLLĐ, vẫn còn 20% đối tượng trong diện tham gia BHXH nhưng chưa tham gia), hàng 3 “ILO khuyến nghị Việt Nam cải cách chế độ hưu trí”. Xem: dex. htm; truy cập 22/6/2017. 4 “Đóng ít mà hưởng cao thì quỹ nào chịu được”. Xem: nao-chiu-duoc-1408471181.htm, truy cập 22/6/2017. năm có khoảng 500 nghìn lao động ra khỏi hệ thống BHXH thông qua hưởng trợ cấp một lần; hiện tượng trốn, hoặc nợ đọng đóng BHXH còn lớn (đến 31/12/2015 là 9.920 tỷ đồng, chiếm 4,88% tổng phải thu năm 2015, trong đó nợ đóng BHXH bắt buộc là 7.061 tỷ chiếm 71,4%)4 Nếu coi tăng tuổi nghỉ hưu là lý do duy nhất và cơ bản để đảm bảo cân đối bền vững quỹ BHXH thì chưa có tính thuyết phục. 3. Góp ý về phương án tăng tuổi nghỉ hưu trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLLĐ năm 2012 đang được cơ quan chủ trì soạn thảo đưa ra lấy ý kiến là việc làm rất cần thiết và đã nhận được nhiều ý kiến phản hồi của dư luận, nhất là về hai phương án tuổi nghỉ hưu. Điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay và trong vài thập niên tới cho phép chúng ta có thể và cần phải theo xu thế chung của thế giới quy định về tuổi nghỉ hưu được kéo dài, nhưng không tăng đồng loạt cho tất cả các loại lao động làm việc ở mọi lĩnh vực, ngành, nghề mà chỉ cho một số loại lao động như lao động trình độ cao và một số lĩnh vực (khu vực hành chính nhà nước, khu vực sự nghiệp công, khu vực sản xuất áp dụng công nghệ cao) và phải có lộ trình hợp lý phù hợp với trình độ phát triển của đất nước giai đoạn đến 2030, tầm nhìn đến 2050 và xa hơn nữa. Đối với lao động nữ, nếu theo lộ trình đến 2030, tầm nhìn đến 2050 và không tăng đồng loạt, chỉ tăng cho một số loại lao động như góp ý ở điểm trên thì có thể tăng tuổi nghỉ hưu của lao động nữ lên 60 để đảm bảo BĐG. Tuy nhiên, cần xác định thật rõ và cụ BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 24 Số 12(340) T6/2017 thể loại lao động nữ nào áp dụng tăng tuổi nghỉ hưu lên 60 với tiêu chí thật rõ ràng. Về lộ trình, theo Dự thảo, bắt đầu từ ngày 1/1/2021 mỗi năm tăng thêm 06 tháng thì chỉ cần 4 năm thực hiện - đến năm 2024, chúng ta sẽ hoàn thành việc tăng tuổi nghỉ hưu đối với nam từ 60 lên 62 và cần 10 năm - đến năm 2030 sẽ hoàn thành việc tăng tuổi nghỉ hưu đối với nữ, từ 55 lên 60. Lộ trình thời gian thực hiện như vậy là nhanh. Với lộ trình này, việc tăng tuổi nghỉ hưu nhanh sẽ tạo sức ép cho xã hội về việc làm và các vấn đề khác nên rất khó tạo ra sự đồng thuận. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, cần áp dụng lộ trình mỗi năm chỉ tăng 2 tháng hoặc 3 tháng để làm chậm quá trình tăng tuổi nghỉ hưu, nhằm giảm bớt sức ép về mặt xã hội thực hiện các quy định về phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh. - Trong các quyền về văn hóa và khoa học mà người nước ngoài được thụ hưởng từ Hiến pháp năm 2013 có “quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó”5, “quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa”6 và “Nhà nước tạo điều kiện để mọi người tham gia và được thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động khoa học và công nghệ”7. Với việc trao cho người nước ngoài quyền trong lĩnh vực khoa học công nghệ và văn hóa như đã đề cập ở trên, Hiến pháp năm 2013 đáp ứng nhu cầu chính đáng trong việc thụ hưởng các giá trị văn hóa, tinh thần lành mạnh không chỉ đối với công dân mà cả đối tượng người nước ngoài. Không chỉ vậy, nhận thức đầy đủ hơn 5 Điều 40 Hiến pháp năm 2013. 6 Điều 41 Hiến pháp năm 2013. 7 Điều 62 Hiến pháp năm 2013. về sự phát triển của khoa học công nghệ và văn hóa luôn đi kèm với vấn đề sở hữu trí tuệ, khoản 2 Điều 62 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao, ứng dụng có hiệu quả thành tựu khoa học và công nghệ; bảo đảm quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ”. Quyền và nghĩa vụ của người nước ngoài ở mỗi nước phụ thuộc nhiều vào trình độ phát triển và chính sách của nước đó. Hiến pháp năm 2013 ra đời trong bối cảnh đất nước đã và đang có những bước phát triển và dần khẳng định được vị thế trên trường quốc tế cũng như trong bối cảnh quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới và khu vực. Trên cở sở lĩnh hội, tiếp thu và thực hiện các cam kết quốc tế, quyền và nghĩa vụ của người nước ngoài theo Hiến pháp năm 2013 đã được mở rộng góp phần tạo điều kiện thúc đẩy cho sự phát triển của đất nước (Tiếp theo trang 19) QUYEÀN, NGHÓA VUÏ CUÛA NGÖÔØI ... BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT 25Số 12(340) T6/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhung_van_de_lien_quan_den_tuoi_nghi_huu_va_gop_y_hoan_thien.pdf
Tài liệu liên quan