Kết luận
Kiến thứcvề sử dụng BCS: có 28.8% biết mỗi lần
giao hợp sử dụng BCS mới, biết phải mang từ đầu là
20.2%, biết kiểm tra hạn dùng 15.4%, biết cách tháo
đúng BCS sau khi QHTD là 14.4%, biết dùng thuốc
tránh thai khẩn cấp khi BCS bị thủng rách 13.5%.
Kiến thức vềsử dụng thuốc ngừa thai phối hợp:
biết uống viên thuốc ngừa thai phối hợp đầu tiên
vào ngày thứ nhất đến ngày thứ 5 của chu kỳ kinh là
21.1%; biết uống mỗi ngày một viên và vào giờ nhất
định cho đến khi hết vỉ thuốc là 26.9%; biết quên một
viên uống ngay khi nhớ ra và tiếp tục uống đúng giờ
viên thuốc ngày hôm đó là 12.5%; biết quên hai viên
uống ngay hai viên khi nhớ ra, ngày hôm sau uống
thêm hai viên, rồi tiếp tục mỗi ngày một viên như
thường lệ là 1%; biết quên 3 viên, ngừng uống và
dùng một BPTT khác là 1%; biết uống viên đầu tiên
của vỉ 21 viên kế tiếp là 1%; biết uống viên đầu tiên
của vỉ 28 viên kế tiếp là 1.9%.
Kiến thức về sử dụng thuốc TTKC: có 58.7% nữ
vị thành niên biết uống thuốc tránh thai khẩn cấp
có thể gây rối loạn kinh nguyệt; 52.1% biết uống
thuốc đúng theo hướng dẫn sử dụng thuốc; chỉ có
7.7% trả lời đúng dùng thuốc tránh thai khẩn cấp
tối đa 2 lần/tháng. Có đến 72.1% nữ vị thành niên
không biết cách sử dụng thuốc TTKC trong thời
điểm hiện nay.
Những rào cản nhiều nhất mà nghiên cứu này ghi
nhận là:Thành kiến của xã hội về vấn đề sức khỏe sinh
sản VTN, thiếu kiến thức về các BPNT, BPTT.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 6 trang
6 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 223 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Những yếu tố ảnh hưởng đến thai ngoài ý muốn của nữ vị thành niên tại khoa kế hoạch gia đình - bệnh viện Từ Dũ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tập 13, số 02
Tháng 05-2015
Tạp chí PHỤ SẢN 
69
TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 13(02-PHỤ BẢN), 69-74, 2015
Tác giả liên hệ (Corresponding author): Nguyễn Thị Tuyết Hằng, email: tuyethang.bvtd@gmail.com 
Ngày nhận bài (received): 20/03/2015. Ngày phản biện đánh giá bài báo (revised): 15/04/2015. Ngày bài báo được chấp nhận đăng (accepted): 25/04/2015
1. Đặt vấn đề
Hiện nay tình trạng có thai ngoài ý muốn dẫn đến 
nạo phá thai tại Việt Nam ngày càng tăng, đặc biệt 
là tình trạng phá thai ở tuổi vị thành niên cao nhất 
Đông Nam Á và đứng thứ 5 trên thế giới. Tính trung 
bình mỗi năm cả nước có khoảng 300.000 trường 
hợp phá thai ở tuổi vị thành niên, chiếm 22% số ca 
nạo phá thai và đang trong xu hướng tăng, nhiều 
vị thành niên nạo phá thai nhiều lần. Đây chỉ là con 
số được thống kê từ các cơ sở y tế nhà nước, con số 
Nguyễn Thị Tuyết Hằng(1), Đỗ Văn Dũng(2), Susan Norwood(3)
(1) Bệnh viện Từ Dũ, (2) Đại học Y Dược TP.HCM, (3) Friendship Bridge Group- Gonzala University- USA
NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THAI
NGOÀI Ý MUỐN CỦA NỮ VỊ THÀNH NIÊN
TẠI KHOA KẾ HOẠCH GIA ĐÌNH - BỆNH VIỆN TỪ DŨ
Tóm tắt
Mục tiêu: Khảo sát tỷ lệ kiến thức đúng về các BPTT 
và những trở ngại đến có thai ngoài ý muốncủa nữ VTN 
tại khoa KHHGĐ - BV Từ Dũ. Phương pháp: Nghiên 
cứu mô tả cắt ngang được thực hiện tại khoa KHHGĐ 
– BVTừ Dũ với sự đồng ý tham gia của 104 VTN từ 13- 
19 tuổi và gia đình đến sử dụng dịch vụ tại khoa. Kết 
quả:Tỉ lệ hiểu biết chung về các BPNT 69,2%. Tỉ lệ không 
sử dụng BPNT của nữ VTN 46,2%. Tỉ lệ VTN nhận được 
thông tin về các BPTTtừ các nguồn: sách báo 28.8%, 
internet 24.0%, nhân viên y tế 13.5%, trường học 1%. 
Các trở ngại khi sử dụng BPTT: ngại đi mua, không hiểu 
biếtvề BPTT, bạn trai không đồng ý, sợ người khác biết 
do chưa kết hôn, ngại đến CSYT. Trình độ học vấn, nghề 
nghiệp, nơi ở liên quan có ý nghĩa thống kê với kiến thức 
của VTN. Kết luận: Nâng cao sự hiểu biết về kiến thức 
ngừa thai sẽ làm giảm tỉ lệ phá thai, phá thai tái phát, 
tránh được các biến chứng có thể ảnh hưởng đến SKSS 
của VTN trong tương lai. Vì vậy, tăng cường thông tin, 
giáo dục, truyền thông các BPTT từ trường học, gia đình, 
CSYT và tránh những định kiến của xã hội là việc hết sức 
cần thiết. Từ khóa: Vị thành niên, biện pháp tránh thai, 
thai ngoài ý muốn.
Abstract 
FACTORS RELATED TO UNWANTED PREGNANCIES AMONG 
ADOLESCENTS AT THE FAMILY PLANNING DEPARTMENT OF 
TU DU HOSPITAL
Objective: To survey the proportion of people having 
the right knowledge about contraceptive methods 
and obstacles of unwanted pregnancy of female-
adolescences at the Family Planning Department of Tu Du 
Hospital. Method: Study and analysis are performed at 
the Family Planning Department of Tu Du Hospital along 
with the agreements of 104 adolescences with the age 
ranging from 13 to 19 years old as well as family using the 
department’s services. Result: The percentage of people 
having general knowledge about contraceptive methods 
accounted for 69.2%. Besides, 46.2% is the percentage 
of female-adolescences not using contraceptive 
methods. Also, the proportion of adolescences received 
information-sources about contraceptive methods, in 
which: newspaper: 28.8%, internet: 24.0%, medical-
personnel: 13.5%; school: 1%. The obstacles of using 
contraceptive methods: hesitancy of buying and 
coming to the hospital, lack of knowledge, boy-friend’s 
disagreement, worry of releasing the secret of unmarried. 
Study-level, career, accommodation are meaningful 
factors for the statistics of adolescences’ knowledge. 
Conclusion: The improvement of knowledge relating 
to contraceptive methods will decrease the number 
of abortive cases, re-abortive cases; prevent possible 
complications that may affect the reproductive health 
of adolescences in the future. Therefore, it’s necessary to 
promote information, education, communication about 
contraceptive methods in schools, families, hospitals; 
avoid the social prejudice. Key words: Adolescence, 
contraceptive methods, unwanted pregnancy.
thật sự lớn hơn vì chưa thống kê được từ các cơ sở y 
tế tư nhân[11] .
Tại bệnh viện Từ Dũ, một bệnh viện chuyên sản 
phụ khoa đầu ngành phía Nam - Việt Nam, năm 2009 
có khoảng 8000 vị thành niên đến phá thai tại bệnh 
viện, chiếm 40% tổng số người đến phá thai[1] .
Việc nạo phá thai nhiều lần ở lứa tuổi vị thành niên 
được coi là gánh nặng của xã hội được nhiều người 
quan tâm, vì lứa tuổi vị thành niên là thế hệ tương lai 
của đất nước, nhưng bản thân họ lại chưa được trang 
NGUYỄN THỊ TUYẾT HẰNG, ĐỖ VĂN DŨNG, SUSAN NORWOODPHỤ KHOA
Tập 13, số 02
Tháng 05-2015
Tạp chí PHỤ SẢN 
70
bị đầy đủ kiến thức về sinh lý, giới tính, tình dục an 
toàn và các biện pháp tránh thai. Việc nạo phá thai 
ở tuổi vị thành niên cho thấy nguy cơ tiềm ẩn của tai 
biến nạo phá thai như: chảy máu, viêm nhiễm, thủng 
tử cung ..., các tai biến khác có thể dẫn đến vô sinh, 
thậm chí tử vong ở lứa tuổi có khả năng sinh sản cao. 
Vô sinh đối với tuổi vị thành niên là một nỗi ám ảnh 
bất hạnh suốt cuộc đời. Chưa kể đến sự thiếu hiểu 
biết về quan hệ tình dục an toàn còn là nguyên nhân 
dẫn tới các bệnh lây truyền qua tình dục, đặc biệt là 
suy giảm miễn dịch mắc phải (HIV/AIDS). 
Một trong những nguyên nhân có thai ngoài ý 
muốn dẫn đến tỷ lệ nạo phá thai cao là do vị thành 
niên sử dụng không đúng, không sử dụng hoặc sử 
dụng không thường xuyên các biện pháp tránh thai, 
khảo sát tại các nước như Mỹ Latinh và Caribbean vị 
thành niên có sử dụng biện pháp tránh thai là 4 % ở 
lần giao hợp đầu tiên, ở Jamaica là 43%, ở Mexico là 
14% đến 31%. Tỷ lệ vị thành niên sử dụng các biện 
pháp tránh thai ở các nước Châu Á như Ấn Độ vào 
năm 1993 là 3%, Indonesia vào năm 1994 là 32%, ở 
Pakistan năm 1991 là 1%, ở Thailand năm 1987 là 39% 
[13]. Vấn đề không sử dụng các biện pháp tránh thai 
của vị thành niên ở Việt Nam cũng thường gặp như 
ở một số nước trong khu vực Châu Á và thế giới, vào 
năm 1998 chỉ có 5% các em nữ sinh trung học tại các 
thành phố lớn của Việt Nam sử dụng các biện pháp 
tránh thai[8,2] . 
Mặc dù ngành y tế và chính quyền các cấp đã cố 
gắng cải thiện, tạo nhiều phương án, điều kiện để 
các bạn trẻ nói chung và vị thành niên nói riêng tiếp 
cận nhiều với các thông tin về dịch vụ chăm sóc sức 
khỏe sinh sản, nhất là các biện pháp tránh thai hiện 
đại, cố gắng hạn chế tỷ lệ sinh con, phá thai và phá 
thai tái phát ở tuổi vị thành niên, nhưng thực tế chưa 
được như mong muốn. Nguyên do chính là nội dung 
của các chương trình giáo dục sức khỏe chưa phù hợp 
với từng đối tượng và chưa được sự đồng thuận của xã 
hội. Giải pháp cho vấn đề này cần có những chương 
trình giáo dục sức khỏe riêng cho những nhóm nguy 
cơ cao có thai ngoài ý muốn ở tuổi vị thành niên. Vì vậy, 
các chương trình giáo dục sức khỏe cần có những nội 
dung phù hợp hơn cho nữ vị thành niên. Để góp phần 
giải quyết vấn đề khó khăn này, người nghiên cứu tiến 
hành thực hiện đề tài “Các yếu tố ảnh hưởng đến có 
thai ngoài ý muốn của nữ vị thành niên tại khoa Kế 
hoạch hóa gia đình - Bệnh viện Từ Dũ”. Nghiên cứu này 
giúp cho điều dưỡng- hộ sinh xây dựng chương trình 
giáo dục sức khỏe cho đối tượng nữ vị thành niên đến 
phá thai hoặc đã phá thai một cách phù hợp và hiệu 
quả hơn, tránh tình trạng phá thai tái phát trong tương 
lai. Bên cạnh đó, các yếu tố ảnh hưởng đến việc có thai 
ngoài ý muốn cũng giúp cho các cơ quan chức năng 
tìm ra các giải pháp, nhằm hạn chế tỷ lệ nạo phá thai 
ngày càng cao của vị thành niên, giảm gánh nặng của 
xã hội, cải thiện sức khỏe sinh sản vị thành niên trong 
bối cảnh hiện nay tại Việt Nam.
Trong nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu muốn 
tìm hiểu thêm tỷ lệ kiến thức đúng của nữ vị thành 
niên có thai ngoài ý muốn về các biện pháp ngừa thai 
và tránh thai là bao nhiêu?Những rào cản nào đã ảnh 
hưởng đến tình trạng có thai ngoài ý muốn của nữ vị 
thành niên?
2. Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. 
 Đối tượng nghiên cứu: Nữ vị thành niên đến phá 
thai tại khoa Kế hoạch hoá gia đình - Bệnh viện Từ Dũ, 
đồng ý tham gia nghiên cứu.
Cở mẫu nghiên cứu: 104
Thời gian thực hiện: từ tháng 4/2013 đến tháng 
6/2013
Phương pháp phân tích và xử lý số liệu: sử dụng 
phần mềm thống kê STADA 10.0
3. Kết quả
Khi khảo sát kiến thức BCS ngăn ngừa bệnh LTQĐTD 
chỉ có 93 nữ vị thành niên trả lời câu hỏi này, và đa số 
trả lời “có” chiếm tỉ lệ 93.5%, trả lời “không”chiếm 6.5%. 
Đặc điểm N %
BCS ngừa LTQĐTD 93
Có 87 93.5%
Không 6 6.5%
Kiểm tra hạn dùng 104
Không 88 84.6%
Có 16 15.4%
Dùng BCS mới 104
Không 74 71.2%
Có 30 28.8%
Mang từ đầu 104
Không 83 79.8%
Có 21 20.2%
Tháo BCS 104
Không 89 85.6%
Có 15 14.4%
Dùng thuốc khẩn cấp 104
Không 90 86.5%
Có 14 13.5%
Không biết 104
Không 100 96.2%
Có 4 3.8%
Bảng 1. Tần số và tỉ lệ kiến thức của nữ vị thành niên về BCS
Tập 13, số 02
Tháng 05-2015
Tạp chí PHỤ SẢN 
71
TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 13(02-PHỤ BẢN), 69-74, 2015
kế tiếp là 1%; biết uống viên đầu tiên của vỉ 28 viên 
kế tiếp là 1.9%.
Có 58.7% nữ vị thành niên biết uống thuốc 
tránh thai khẩn cấp có thể gây rối loạn kinh nguyệt, 
52.1% biết uống thuốc đúng theo hướng dẫn sử 
dụng thuốc, chỉ có 7.7% trả lời đúng dùng thuốc 
tránh thai khẩn cấp tối đa 2 lần/ tháng. Tuy nhiên, 
có đến 72.1% nữ vị thành niên không biết cách sử 
dụng thuốc TTKC trong thời điểm hiện nay.
Trong 104 nữ vị thành niên có 28.8% biết mỗi lần giao 
hợp sử dụng BCS mới, biết phải mang từ đầu là 20.2%, 
biết kiểm tra hạn dùng 15.4%, biết cách tháo đúng 
BCS sau khi QHTD là 14.4%, biết dùng thuốc tránh thai 
khẩn cấp khi BCS bị thủng rách 13.5%.
Tỉ lệ nữ vị thành niên biết uống viên thuốc ngừa 
thai phối hợp đầu tiên vào ngày thứ nhất đến ngày 
thứ 5 của chu kỳ kinh là 21.1%; biết uống mỗi ngày 
một viên và vào giờ nhất định cho đến khi hết vỉ 
thuốc là 26.9%; biết quên một viên uống ngay khi 
nhớ ra và tiếp tục uống đúng giờ viên thuốc ngày 
hôm đó là 12.5%; biết quên hai viên uống ngay hai 
viên khi nhớ ra, ngày hôm sau uống thêm hai viên, 
rồi tiếp tục mỗi ngày một viên như thường lệ là 1%; 
biết quên 3 viên, ngừng uống và dùng một BPTT 
khác là 1%; biết uống viên đầu tiên của vỉ 21 viên 
Đặc điểm N(=104) %
Uống viên đầu tiên
Không 81 77.9%
Có 23 22.1%
Uống mỗi ngày
Không 76 73.1%
Có 28 26.9%
Quên 1 viên
Không 91 87.5%
Có 13 12.5%
Quên 2 viên
Không 103 99%
Có 1 1%
Quên 3 viên
Không 104 100%
Thời gian uống tiếp vỉ mới, ngay có kinh (21V)
Không 103 99%
Có 1 1%
Thời gian uống tiếp vỉ mới ngay hôm sau (28 V)
Không 102 98.1%
Có 2 1.9%
Bảng 2. Tần số và tỉ lệ kiến thức của VTN về thuốc ngừa thai phối hợp
Đặc điểm N=104 %
Bao cao su
Tôn giáo
Không 104 100%
Có 0 0%
Không đủ tiền
Không 104 100%
Có 0 0%
Ngại mua
Không 74 71.2%
Có 30 28.8%
Ngại đến CSYT
Không 96 92.3%
Có 8 7.7%
Chưa kết hôn
Không 87 83.7%
Có 17 16.3%
Tác dụng phụ
Không 88 84.6%
Có 16 15.4%
Không hiểu biết BCS
Không 86 82.7%
Có 18 17.3%
Không biết cách sử dụng
Không 89 85.6%
Có 15 14.4%
Bạn trai không đồng ý
Không 87 83.7%
Có 17 16.3%
Lý do khác
102 98.1%
Không dùng 1 1.0%
Mùi hôi BCS 1 1.0%
Thuốc ngừa thai phối hợp
Tôn giáo
Không 104 100%
Có 0 0%
Không đủ tiền
Không 104 100%
Có 0 0%
Ngại mua
Không 79 76%
Có 25 24%
Ngại đến CSYT
Không 95 91.3%
Có 9 8.7%
Bảng 4. Tần số và tỉ lệ các trở ngại khi sử dụng BPNT, BPTT ở VTN
Đặc điểm N %
Gây RLKN 104
Có 61 58.7%
Không 43 41.3%
Cách uống viên TTKC 73
1 viên 33 45.2%
2 viên 3 2.7%
Uống cách nhau 38 52.1%
Số lần uống/tháng 104
1 lần 9 8.7%
2 lần 8 7.7%
3lần 5 4.8%
Không giới hạn 7 6.7%
Không biết 75 72.1%
Bảng 3. Tần số và tỉ lệ kiến thức của nữ vị thành niên về thuốc TTKC
NGUYỄN THỊ TUYẾT HẰNG, ĐỖ VĂN DŨNG, SUSAN NORWOODPHỤ KHOA
Tập 13, số 02
Tháng 05-2015
Tạp chí PHỤ SẢN 
72
Chưa kết hôn
Không 91 87.5%
Có 13 12.5%
Tác dụng phụ
Không 80 76.9%
Có 24 23.1%
Không hiểu biết
Không 70 67.3%
Có 34 32.7%
Không biết cách sử dụng
Không 92 88.5%
Có 12 11.5%
Bạn trai không đồng ý
Không 98 94.2%
Có 6 5.8%
Khác
103 99%
Không dùng 1 1%
Thuốc TTKC
Tôn giáo
Không 103 99%
Có 1 1%
Không đủ tiền
Không 104 100%
Có 0 0%
Ngại mua
Không 59 56.7%
Có 45 43.3%
Ngại đến CSYT
Không 92 88.5%
Có 12 11.5%
Chưa kết hôn
Không 96 92.3%
Có 8 7.7%
Tác dụng phụ
Không 85 81.7%
Có 19 18.3%
Không hiểu biết 
Không 78 75%
Có 26 25%
Không biết cách sử dụng
Không 96 92.3%
Có 8 7.7%
Bạn trai không đồng ý
Không 102 98.1%
Có 2 1.9%
Khác
102 98.1%
Không dùng 1 1.0%
Quên sử dụng 1 1.0%
Nhìn chung trong 3 biện pháp, lý do tôn giáo và 
không đủ tiền mua hầu như không ảnh hưởng đến 
việc VTN muốn sử dụng chúng.
Về các lý do gây trở ngại đến việc muốn sử dụng 
bao cao su:
Tỉ lệ VTN ngại đi mua BCS chiếm tỉ lệ cao nhất: 
28.8%. Tỉ lệ này liên quan đến thành kiến của xã hội. 
Không hiểu biết về BCS chiếm tỉ lệ: 17.3%
Bạn trai không đồng ý sử dụng chiếm tỉ lệ: 16.3%. 
Tỉ lệ này cũng phù hợp vì nam giới thường không 
thích sử dụng BCS vì họ cho rằng làm giảm khoái cảm 
khi giao hợp.
Sợ người khác biết do chưa kết hôn: 16.3%. Tỉ lệ này 
một lần nữa nhấn mạnh đến các định kiến của xã hội 
đối với nữ vị thành niên, những người chưa kết hôn.
Ngại đến CSYT chiếm tỉ lệ thấp: 7.7%
Về các lý do gây trở ngại đến việc muốn sử dụng 
thuốc ngừa thai phối hợp:
Tỉ lệ VTN không hiểu biết về thuốc ngừa thai dạng 
phối hợp chiếm tỉ lệ cao nhất: 32.7%. Tỉ lệ này phù 
hợp với kiến thức của đối tượng nghiên cứu mà đối 
tượng này phần lớn là học sinh.
Tỉ lệ VTN ngại đi mua thuốc ngừa thai phối hợp 
chiếm tỉ lệ: 24%.
Sợ tác dụng phụ: 23.1% 
Sợ người khác biết do chưa kết hôn: 12.5%
Không biết cách sử dụng: 11.5%
Ngại đến CSYT chiếm tỉ lệ thấp: 8.7%
Về các lý do gây trở ngại đến việc muốn sử dụng 
thuốc TTKC:
Tỉ lệ VTN ngại đi mua thuốc TTKC chiếm tỉ lệ cao 
nhất: 43.3%.
Tỉ lệ VTN không hiểu biết về thuốc ngừa thai dạng 
phối hợp chiếm tỉ lệ cao nhất: 25%. 
Sợ tác dụng phụ: 18.3% 
Ngại đến CSYT chiếm tỉ lệ thấp: 11.5%
4. Bàn luận
Trong nghiên cứu này nữ VTN biết về BPNT, BPTT 
chiếm tỉ lệ 69,2% và có 30,8% không biết BPNT nào. 
So với nghiên cứu đối tượng là nữ sinh trung học tại 
thành phố Hồ Chí Minh năm 2003 kiến thức chung 
về BPNT, BPTT chỉ chiếm 33,75%[12] . Tại Ecuador 
vào năm 2007 chỉ có 50,4% VTN biết về BPNT[32] 
. Bên cạnh hơn nửa số lượng VTN biết về BPNT thì 
số VTN chưa biết BPNT nào cũng khá lớn, đa số đối 
tượng này tập trung vào lứa tuổi dưới 16, ở nhà thuê, 
không theo đạo và có trình độ văn hóa thấp dưới 
cấp 3. Tuy nghèo nàn về kiến thức KHHGĐ nhưng 
các em đã bắt đầu hoạt động tình dục, do đó khả 
năng có thai ngoài ý muốn tái phát cao, đối tượng 
này rất cần sự quan tâm đặc biệt. Theo nghiên cứu ở 
Timor, một tỉ lệ lớn VTN không thể kể tên bất kỳ một 
BPNT hiện đại nào[6] . 
Nữ VTN trong nghiên cứu biết về các BPNT truyền 
thống như tính vòng kinh 6,7%; xuất tinh ngoài âm 
Tập 13, số 02
Tháng 05-2015
Tạp chí PHỤ SẢN 
73
TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 13(02-PHỤ BẢN), 69-74, 2015
đạo 20,2% tuy nhiên những biện pháp này hiệu quả 
không cao dễ dẫn đến tình trạng thai ngoài ý muốn. 
Nữ VTN biết về BPNT hiện đại như BCS 65,4%; 
vòng tránh thai 13,5%; thuốc ngừa thai 47,1%; triệt 
sản 1,9%; tránh thai khẩn cấp 16,3%, thuốc tiêm 
1,9%. Điều này đúng như phần mở đầu có nhắc đến 
vì BCS, thuốc ngừa thai phối hợp và thuốc TTKC là 3 
biện pháp phù hợp không có chống chỉ định với tuổi 
VTN[3] , được VTN thường chọn sử dụng nhất.
Nữ VTN không sử dụng bất kỳ BPNT nào chiếm tỉ 
lệ cao nhất 46, 2% kết quả này thật sự phù hợp với đối 
tượng nữ VTN đến phá thai, chứng tỏ phần lớn nữ VTN 
chưa ý thức được khả năng mang thai ngoài ý muốn có 
thể xảy ra bất kỳ lúc nào khi giao hợp không sử dụng 
BPNT. Đây cũng là vấn đề đặt ra cho chúng ta, bên cạnh 
giáo dục kiến thức về các BPNT cũng cần lưu ý nhận thức 
của các em về tác hại của các phương pháp phá thai, 
các tai biến mà các em có thể gặp khi phá thai và phá 
thai nhiều lần, cảnh báo những hậu quả có thể gánh 
chịu trong tương lai.So với nghiên cứu năm 1998, chỉ có 
5% các em nữ sinh trung học tại các thành phố lớn của 
Việt Nam đã quan hệ tình dục có sử dụng các biện pháp 
tránh thai, nghĩa là 95% có QHTD không sử dụng BPNT 
[8]. Qua kết quả so sánh trên cho thấy rằng hiệu quả việc 
tuyên truyền thông tin về các BPNT trong đối tượng VTN 
có sự cải thiện trong 15 năm qua, tuy còn chưa được như 
mong muốn.
Bao cao su là BPNT được VTN chọn sử dụng 
nhiều nhất chiếm tỉ lệ 28,8%, kết quả này phù hợp 
với nghiên cứu của Mosher WD ở Hoa Kỳ năm 2010 
cho thấy rằng 23% nữ VTN chọn BCS là BPNT chính 
của họ[7] . Điều này cũng hết sức phù hợp với độ tuổi 
VTN, đây còn là một biện pháp không có tác dụng 
phụ, rất ít nữ VTN bị dị ứng với BCS. 
Thuốc ngừa thai phối hợp: theo khảo sát này chỉ có 
5,8% nữ VTN đã có sử dụng thuốc ngừa thai phối hợp, 
tỉ lệ này thật sự ít bởi vì có lẻ thuốc ngừa thai phối hợp 
phải nhớ uống thuốc hàng ngày và phải biết cách xử 
trí khi quên thuốc, có không ít tác dụng phụ có thể xảy 
ra trong khi kiến thức của các em còn rất nhiều hạn 
chế. Mặt khác có một lý do còn quan trọng hơn khi sử 
dụng thuốc phối hợp là dễ bị cha mẹ và người khác 
phát hiện khi sử dụng hàng ngày. Do đó việc lựa chọn 
thuốc ngừa thai phối hợp là một trong BPNT thấp nhất 
trong ba biện pháp khảo sát. Khi so sánh với nghiên 
cứu khác ở Hoa kỳ có đến 44% nữ VTN sử dụng thuốc 
ngừa thai phối hợp[4] . Số liệu này nói lên rằng việc sử 
dụng thuốc ngừa thai phối hợp cần được tăng cường 
tư vấn nhiều hơn nữa, bởi vì đây là một loại thuốc 
ngừa thai chủ động, có hiệu quả cao nhất trong ba 
biện pháp phổ biến của VTN. Nếu VTN sử dụng phối 
hợp với BCS thì tỉ lệ ngừa thai cao vừa phòng được các 
bệnh LTQĐTD, đây là BPNT phối hợp lý tưởng nhất cho 
nữ VTN nếu sử dụng đúng cách.
Thuốc tránh thai khẩn cấp: có 14,4% nữ VTN đã sử 
dụng khi khảo sát, tỉ lệ sử dụng thuốc này tương đối 
cao có lẻ do thuốc dễ dàng mua tại các hiệu thuốc, dễ 
nhớ cách sử dụng hơn thuốc ngừa thai phối hợp. So 
sánh với nghiên cứu của tác giả Triệu Thị Ngọc Thu, 
có 62,8% thanh thiếu niên 15-24 tuổi ở TP. HCM đã sử 
dụng thuốc TTKC tuy nhiên họ không nhớ được tên 
thuốc đã sử dụng[13] , tỉ lệ này cao hơn nghiên cứu 
của chúng tôi. Điều này cũng là một cảnh báo cho 
các ngành chức năng do thiếu sự tư vấn về thuốc nói 
chung và các loại thuốc nội tiết nói riêng. Cần lắm vai 
trò của người dược sĩ bán thuốc, bác sĩ sản phụ khoa, 
điều dưỡng- hộ sinh trong việc tư vấn hướng dẫn sử 
dụng thuốc nhất là lứa tuổi VTN.
Theo khảo sát này, người quyết định sử dụng 
các BPNT chủ yếu chính là bản thân nữ VTN chiếm 
81,7% và bạn trai là 14,4% một số ít là do người thân 
như mẹ hoặc chị em gái quyết định 3,8%. Điều này 
chứng tỏ ngày nay nữ VTN muốn tự quyết định cho 
bản thân mình các BPNT, mặt khác cũng có thể do 
chưa kết hôn các em không dám bàn bạc, tham khảo 
ý kiến của những người khác, sợ sự kỳ thị, định kiến 
của xã hội. Nghiên cứu của tác giả Triệu Thị Ngọc Thu 
có tỉ lệ nữ thanh thiếu niên tự quyết định BPNT ít hơn 
khoảng 60,7% và bạn trai quyết định là 39,3%.[13] 
Bao cao su, Thuốc TTKC: trở ngại lớn nhất của nữ 
VTN là ngại đi mua, ngại người khác biết có QHTD 
khi chưa kết hôn. Đây là vấn đề thành kiến của xã hội 
và người Việt Nam cho đến nay vẫn chưa chấp nhận 
việc QHTD trước hôn nhân, nếp suy nghĩ này cũng rất 
khó thay đổi. Do đó cần sự quan tâm của các tổ chức 
đoàn thể, tuyên truyền vận động xóa dần những định 
kiến khắt khe. Tỉ lệ bạn trai không đồng ý sử dụng bao 
cao su chiếm 16.3% và tỉ lệ này cũng phù hợp bởi vì 
theo những nghiên cứu trước có thể BCS làm giảm 
khoái cảm khi giao hợp nên người nam ít khi muốn sử 
dụng[9] , đây là nhược điểm của phương phápnàynên 
khó khắc phục. Điều này cũng có thể khuyến cáo rằng 
chúng ta phải giáo dục cho nữ VTN kỹ năng từ chối với 
sự không an toàn trong QHTD, chính vì thiếu những kỹ 
năng này mà hiện nay tỉ lệ nhiễm HIV/AIDS ngày càng 
tăng cao trong giới trẻ, nhất là đối tượng VTN. Có 17.3% 
nữ VTN không hiểu biết và 14.4% không biết cách sử 
dụngBCS. Hiện nay BCS được giới trẻ chọn làm BPNT 
phổ biến, nhưng trong nghiên cứu này có khá nhiều 
VTN không hiểu biết, không biết cách sử dụng. Nghiên 
NGUYỄN THỊ TUYẾT HẰNG, ĐỖ VĂN DŨNG, SUSAN NORWOODPHỤ KHOA
Tập 13, số 02
Tháng 05-2015
Tạp chí PHỤ SẢN 
74
cứu này làm chúng tôi nhớ lại một nghiên cứu về các 
nữ sinh trung học năm 2003, có nhiều em không biết 
BCS chỉ sử dụng 1 lần[12] . Mười năm đã qua, tình hình 
cải thiện kiến thức sinh sản vị thành niên vẫn còn rất 
chậm, chúng ta cần phải có những giải pháp nhanh và 
mạnh hơn nữa trong vấn đề này.
 Thuốc ngừa thai phối hợp:một trở ngại lớn là 
không hiểu biết về thuốc ngừa thai phối hợp chiếm tỉ 
lệ cao khi khảo sát 32.7%, tiếp đến là sợ tác dụng phụ 
đây là những lý do chưa thật sự rõ ràng, có thể VTN 
chưa sử dụng lần nào chỉ nghe bạn bè truyền miệng, 
để khắc phục lý do này cần tuyên truyền thông tin 
rộng rãi về thuận lợi, khó khăn, tác dụng phụ và cách 
xử trí tác dụng phụ (nếu có) của thuốc ngừa thai để 
nữ VTN có thể tự lựa chọn BPNT phù hợp.
Tất cả các lý do trên đều phù hợp với nghiên cứu 
định tính của tác giả Trần Thị Lợi năm 2009[10] 
5. Kết luận
Kiến thứcvề sử dụng BCS: có 28.8% biết mỗi lần 
giao hợp sử dụng BCS mới, biết phải mang từ đầu là 
20.2%, biết kiểm tra hạn dùng 15.4%, biết cách tháo 
đúng BCS sau khi QHTD là 14.4%, biết dùng thuốc 
tránh thai khẩn cấp khi BCS bị thủng rách 13.5%.
Kiến thức vềsử dụng thuốc ngừa thai phối hợp: 
biết uống viên thuốc ngừa thai phối hợp đầu tiên 
vào ngày thứ nhất đến ngày thứ 5 của chu kỳ kinh là 
21.1%; biết uống mỗi ngày một viên và vào giờ nhất 
định cho đến khi hết vỉ thuốc là 26.9%; biết quên một 
viên uống ngay khi nhớ ra và tiếp tục uống đúng giờ 
viên thuốc ngày hôm đó là 12.5%; biết quên hai viên 
uống ngay hai viên khi nhớ ra, ngày hôm sau uống 
thêm hai viên, rồi tiếp tục mỗi ngày một viên như 
thường lệ là 1%; biết quên 3 viên, ngừng uống và 
dùng một BPTT khác là 1%; biết uống viên đầu tiên 
của vỉ 21 viên kế tiếp là 1%; biết uống viên đầu tiên 
của vỉ 28 viên kế tiếp là 1.9%.
Kiến thức về sử dụng thuốc TTKC: có 58.7% nữ 
vị thành niên biết uống thuốc tránh thai khẩn cấp 
có thể gây rối loạn kinh nguyệt; 52.1% biết uống 
thuốc đúng theo hướng dẫn sử dụng thuốc; chỉ có 
7.7% trả lời đúng dùng thuốc tránh thai khẩn cấp 
tối đa 2 lần/tháng. Có đến 72.1% nữ vị thành niên 
không biết cách sử dụng thuốc TTKC trong thời 
điểm hiện nay.
Những rào cản nhiều nhất mà nghiên cứu này ghi 
nhận là:Thành kiến của xã hội về vấn đề sức khỏe sinh 
sản VTN, thiếu kiến thức về các BPNT, BPTT.
Tài liệu tham khảo
1. Bệnh viện Từ Dũ (2009) Báo cáo năm 2009.
2. Bộ Y tế (2007), Giáo dục và nâng cao sức khỏe, Nhà xuất 
bản y học, Hà Nội, tr 37- 40.
3. Bộ y tế (2007) Hướng dẫn chuẩn quốc gia về các dịch vụ 
chăm sóc sức khỏe sinh sản, tr. 525-563.
4. Camelia Davtyan (2000), "Contraceptive for 
adolescents", West J Med., 172 (3), pp.166-171.
5. Chedraui P, Van Ardenne R, Wendte J.F, Quintero 
J.C, Hidalgo L (2007), "Knowledge and practice of family 
planning and HIV-prevention behaviour among just 
deliveredadolescents in Ecuador: the problem of adolescent 
pregnancies", Archives of Gynecology and Obstetrics, 276 
(2), pp.139- 144.
6. Elissa Kennedy, Natalie Gray, Peter Azzopardi, Mick 
Creati (2011), "Adolescent fertility and family planning 
in East Asia and the Pacific: a review of DHS reports", 
Reproductive Health, 8 (1), pp.11.
7. Mosher WD, Jones J (2010), "Contraceptive use in the 
United States:1982-2008", Vital and health statistics, 23(29).
8. Nguyễn Hữu Dũng (1998) Giáo dục giới tính, Nhà xuất 
bản giáo dục.
9. Nguyễn Hoàng Lam (2009), Kiến thức và thực hành về 
các biện pháp tránh thai hiện đại của nữ công nhân Quận 
9- thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sỹ Y học, Đại học 
y dược TP. HCM.
10. Trần Thị Lợi, Phùng Khánh Lâm (2010) "Khảo sát lý 
do không sử dụng biện pháp tránh thai hiện đại và nhu cầu 
chăm sóc sức khỏe sinh sản ở nữ vị thành niên phá thai tại 
bệnh viện Từ Dũ tháng 5-6/2009". Tạp chí y học thành phố Hồ 
Chí Minh, tập 14(1), tr.290- 295.
11. Hội Kế hoạch hóa gia đình Việt Nam (2011), Báo cáo 
năm 2011.
12. Lê Nhất Nguyên (2003), Kiến thức, thái độ, hành vi về 
có thai và các biện pháp tránh thai của nữ sinh trung học 
thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ y học, Đại học y 
dược TP.HCM, tr. 48.
13. Triệu Thị Ngọc Thu, Nguyễn Thị Bảo Hiếu (2010), 
"Kiến thức, kinh nghiệm và ý kiến của thanh niên sử dụng 
thuốc tránh thai khẩn cấp", Tạp chi y học, Đại học y dược 
TP.Hồ Chí Minh, tập14(4), tr.51-56.
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 nhung_yeu_to_anh_huong_den_thai_ngoai_y_muon_cua_nu_vi_thanh.pdf nhung_yeu_to_anh_huong_den_thai_ngoai_y_muon_cua_nu_vi_thanh.pdf