Vị trí xuất huyết hầu như không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh giữa 2
nhóm hậu quả xấu và hậu quả tốt. Điều này không phù hợp với kết quả một số nghiên cứu
khác, như nghiên cứu của J. Claude Hemphill và cs(6) cho rằng tiên lượng hậu quả tốt
thường gặp hơn ở nhóm XHN trong nhu mô não đơn thuần so với nhóm có xuất huyết vào
não thất. Có thể do lượng xuất huyết vào não thất gây tắc nghẽn não thất IV dẫn đến tràn
ngập não thất, làm trầm trọng thêm tình trạng của người bệnh và gây khó khăn cho việc
phục hồi chức năng sau này. Kết quả nghiên cứu của Juvela và cs(7) cũng ghi nhận kết quả
tương tự. Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác thì mối tương quan giữa lượng xuất huyết và
tiên lượng xấu cũng chưa được tìm thấy(3,5,8).
Nghiên cứu của chúng tôi phát hiện được sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mối
tương quan giữa yếu tố có hiệu ứng khối trong phân tích đơn biến (p=0,002) với tiên
lượng hậu quả chức năng sau 3 tháng. Điều này có thể lý giải là khi lượng xuất huyết
não càng lớn thì khả năng gây lệch đường giữa càng nhiều và hiệu ứng khối càng dễ xảy
ra. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Castillo và cs(2) khi tác giả chứng minh có
hiệu ứng khối là yếu tố có tương quan độc lập với tiên lượng hậu quả xấu trên bệnh
nhân XHN (p=0,007). Khi đưa vào phân tích đa biến, vai trò tiên lượng của yếu tố này
vẫn được giữ lại trong mô hình (p=0,046; OR=6,442; KTC 95%=1,03-40,04).
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 293 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những yếu tố tiên lượng hậu quả tử vong và chức năng trên các bệnh nhân xuất huyết não điều trị tại bệnh viện nhân dân gia định từ tháng 10/2007 đến tháng 4/2008, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
59
NHỮNG YẾU TỐ TIÊN LƯỢNG HẬU QUẢ TỬ VONG VÀ CHỨC NĂNG
TRÊN CÁC BỆNH NHÂN XUẤT HUYẾT NÃO ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN
NHÂN DÂN GIA ĐỊNH TỪ THÁNG 10/2007 ĐẾN THÁNG 4/2008
Nguyễn Cảnh Nam*, Lê Tự Phương Thảo*, Trần Đồng Minh Ngọc Thiên Kim**,
Huỳnh Thị Xuân Hiền**, Nguyễn Thanh Hiệp**
TÓM TẮT
Mục đích: nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định các yếu tố tiên lượng hậu quả trên bệnh nhân
xuất huyết não (XHN) sau 3 tháng.
Phương pháp: từ tháng 10/2007 đến tháng 4/2008, một nghiên cứu đoàn hệ được thực hiện trên 83 bệnh
nhân XHN nhập viện tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định. Thang điểm Rankin có hiệu chỉnh (mRS) được sử
dụng để đánh giá tình trạng bệnh nhân sau 3 tháng. Các yếu tố tiên lượng được xác định qua phân tích đơn biến
và phân tích đa biến.
Kết quả: Kết quả sau 3 tháng có 49 bệnh nhân (59%) có tiên lượng xấu (điểm mRS ≥ 3). Qua phân tích,
những yếu tố có khả năng ảnh hưởng lên tiên lượng của bệnh nhân là điểm Glasgow lúc nhập viện (p=0,000),
đường huyết lúc nhập viện (p=0,001), thể tích khối xuất huyết (p=0,001) và có hiệu ứng khối (p=0,002).
Kết luận: ở những bệnh nhân XHN, sự xuất hiện của khối xuất huyết lớn ≥30 ml, có hiệu ứng khối hay
sự gia tăng đường huyết lúc nhập viện ≥7 mmol/l là yếu tố tiên lượng độc lập cho hậu quả xấu của bệnh
nhân. Việc phát hiện sớm những yếu tố này nhằm đưa ra hướng xử trí thích hợp có thể đem lại tiên lượng
tốt hơn cho bệnh nhân.
Từ khóa: Xuất huyết não, đái thóa đường, thuốc lá.
ABSTRACT
PREDIRTOR OF DEATH AND FUNCTIONAL OUTCOME ON PATIENT
WITH INTRACEREBRD HEMORRHAGE)
Nguyen Canh Nam, Le Tu Phuong Thao, Tran Dong Minh Ngoc Thien Kim, Huynh Thi Xuan Hien,
Nguyen Thanh Hiep * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 6 - 2009: 59 - 63
Objective: the prospective study was designed to identify factors related to a favourable functional outcome
after three months in patients suffering from spontaneous intracerebral haemorrhage (ICH).
Methods: from October 2007 to April 2008, the cohort study was carried out in 83 ICH patients admitted to
Gia Dinh people hospital.Modified Rankin score was used to evaluate the outcome of patients after three months.
We used the Spearman correlation and logistic regression analysis to identify the factors associated with a poor
outcome.
Results: we have 49 patients (59%) suffered from the poor outcome (mRS ≥ 3). Four significant prognostic
variables were identified: Glasgow coma score at admitted (p=0.000), plasma glucose at admitted (p=0.001),
hematoma volume (p=0.001) and mass effect (p=0.002).
Conclusions: the present study identified three independent predicting the poor outcome of ICH patients:
the hematoma volume ≥ 30ml, mass effect and high plasma glucose admitted ≥ 7 mmol/l. The early detection of
these factors to give a appropriate treatment to the patients.
Key words: Hemorrahage, diabetis, smoke.
* Khoa Nội Thần kinh Bệnh Viện Nhân Dân Gia Định ** Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
Địa chỉ liên lạc: TS Lê Tự Phương Thảo ĐT: 0908.227.845 Email: letuphuongthao@gmail.com
60
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tại Việt Nam, xuất huyết não chiếm 77% tỷ lệ tử vong trong nhóm tai biến mạch máu não(11).
Tuy nhiên, hiện nay lại có rất ít nghiên cứu về XHN, nhất là nhằm xác định các yếu tố tiên lượng.
Các yếu tố này giữ vai trò quan trọng trong việc định hướng điều trị, duy trì điều trị nội khoa hay
can thiệp phẫu thuật sớm. Các yếu tố đã được khảo sát bao gồm: tuổi, mức độ tri giác, thể tích
khối máu tụ, thay đổi trị số huyết áp, hình ảnh tổn thương sớm trên chụp cắt lớp điện toán
(CCLĐT) sọ não Tại Việt Nam, năm 1999, lần đầu tiên một nghiên cứu về tiên lượng XHN trên
lều của Trần Công Thắng, Lê Văn Thành(12) đã đưa ra hai công thức tiên lượng bao gồm các yếu tố:
thể tích XHN, vị trí XHN, đánh giá tri giác theo hôn mê tầng, đánh giá tri giác theo thang điểm
Glasgow. Tuy nhiên, kết luận về các yếu tố tiên lượng độc lập cho hậu quả tử vong và tàn tật của
các nghiên cứu vẫn còn nhiều mâu thuẫn. Trong đó chỉ có tuổi, thể tích xuất huyết và vị trí XHN
thường thấy là yếu tố tiên lượng của mất chức năng. Và đến thời điểm hiện tại, Việt Nam vẫn còn
ít các nghiên cứu kết hợp lâm sàng và cận lâm sàng để đưa ra tiên lượng trên bệnh nhân đột quỵ
do XHN. Vì những lý do trên, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm tìm ra các yếu tố tiên
lượng khả năng hồi phục sau 3 tháng của bệnh nhân XHN, nhất là các yếu tố dễ đánh giá hay tiếp
cận. Chúng tôi hy vọng một mô hình tiên lượng chính xác sẽ mang lại những ích lợi như: giúp
hướng xử trí bệnh nhân (tiếp tục duy trì điều trị nội khoa hay can thiệp phẫu thuật sớm); tiên
lượng mức độ hồi phục cho bệnh nhân; giúp chủ động trong việc chuẩn bị kế hoạch tập phục hồi
chức năng và làm cơ sở cho các thử nghiệm lâm sàng về hiệu quả điều trị của thuốc trong XHN.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu tiền cứu
Từ tháng 10/2007 đến tháng 4/2008, có 83 bệnh nhân XHN nhập viện tại Bệnh viện Nhân
Dân Gia Định được đưa vào nghiên cứu. Các bệnh nhân được chẩn đoán bằng lâm sàng và
CT Scan não. Các XHN do chấn thương, u não, các bệnh lý về máu, vỡ dị dạng mạch máu
não, đang dùng thuốc kháng đông hoặc có tiền sử tai biến mạch máu não hoặc bệnh nhân
tử vong vì nguyên nhân khác không phải thần kinh: viêm phổi, suy thận, nhồi máu cơ
tim đều bị loại khỏi nghiên cứu. Các dữ liệu được thu thập ngay lúc BN nhập viện, bao
gồm: tuổi, giới,các yếu tố nguy cơ, tri giác, thể tích XHN, và vị trí XHN. Tình trạng tri giác
được đánh giá bằng thang điểm Glasgow. Trên CTScan, thể tích XHN được tính theo công
thức V= a.b.n/2 (với a và b là đường kính lớn nhất của ổ XHN trên một lát cắt, n là số lát cắt
dày 10mm). Vị trí xuất huyết não (thùy não, xuất huyết bao trong, thân não, tiểu não, não
thất). Tất cả bệnh nhân được theo dõi điều trị và đánh giá sau 3 tháng bằng thang điểm
Rankin có hiệu chỉnh (mRS). Phương pháp thống kê
Tất cả bệnh nhân nhận vào nghiên cứu đều được mô tả theo từng biến nghiên cứu.Tỷ lệ phần trăm
được ghi nhận trong những biến định tính.Số trung bình, độ lệch chuẩn, khoảng tin cậy được sử dụng
đối với những biến định lượng. Tìm mối liên quan giữa các yếu tố tiên lượng và tình trạng chức năng
của bệnh nhân sau 3 tháng bằng mô hình phân tích đơn biến. Đối với biến định tính: so sánh bằng test
÷2 hay test Fisher.Đối với biến định lượng: so sánh bằng test t. Phân tích đơn biến sẽ tìm ra những biến
có khả năng ảnh hưởng lên tiên lượng của bệnh nhân. Sau đó chúng tôi đưa vào mô hình phân tích đa
biến những biến có p<0,25 qua phân tích đơn biến. Phân tích đa biến được thực thực hiện bằng
61
phương pháp hồi quy đa biến nhằm xác định các yếu tố tiên lượng độc lập tình trạng chức năng của
bệnh nhân sau 3 tháng.
KẾT QUẢ
Mẫu nghiên cứu gồm 83 bệnh nhân với tuổi trung bình là 63 tuổi ± 13,7 năm, nam chiếm 65%.
Phần lớn các trường hợp nhập viện trong 6 giờ đầu từ lúc bắt đầu có triệu chứng. Sau 3 tháng, 59%
bệnh nhân có hậu quả xấu (điểm mRS ≥ 3),13 trường hợp tử vong chiếm 15,7%. Bảng 1 dưới đây mô tả
các đặc điểm chính của mẫu nghiên cứu:
Bảng 1: Mối tương quan giữa các yếu tố nguy cơ, đặc điểm lâm sàng, đặc điểm hình ảnh học và các giá trị
sinh hóa với tiên lượng hậu quả bệnh nhân XHN sau 3 tháng
Yếu tố Hậu quả xấu
(n=49)
Hậu quả tốt
(n=34)
p
Tuổi 62,69 (13,12) 63,38 (14,68) 0,823
Nam 28 (57,2%) 21 (61,77%) 0,600 Giới
tính Nữ 21 (42,8%) 13 (38,23%)
Thời gian khởi phát
(giờ)
3,39 (5,18) 5,07 (8,06) 0,326
Yếu tố nguy cơ mạch máu
Tăng huyết áp 35(71,43%) 24(70,59%) 0,394
Đái tháo đường 4(8,16%) 2(5,88%) 0,693
Rối loạn mỡ máu 1(2,04%) 0(0%) 0,402
Uống rượu 10(20,4%) 7(20,59%) 0,984
Hút thuốc lá 7(14,28%) 3(8,82%) 0,452
Đặc điểm lâm sàng
Thang điểm Glasgow 8,67(4,03) 13(2,85) 0,000
Nôn mửa 10(20,4%) 3(8,82%) 0,153
Nhức đầu 8(16,32%) 6(17,64%) 0,874
Co giật 7(14,28%) 2(5,88%) 0,226
Mạch(lần/phút) 88,59(16,36) 90,50(17,61) 0,614
Huyết áp tâm
thu(mmHg)
176,33(33,21) 168,24(27,02) 0,243
Huyết áp tâm
trương(mmHg)
100,82(17,18) 95,88(18,27) 0,214
Nhiệt độ(0C) 37,26(0,66) 37,16(0,42) 0,424
Sinh hóa máu
Đường huyết (mmol/l) 8,24(4,16) 5,58(1,72) 0,001
Cholesterol toàn
phần(mmol/l)
5,36(1,37) 5,43(1,21) 0,823
LDLc(mmol/l) 3,40(1,19) 3,67(1,42) 0,441
HDLc(mmol/l) 1,20(0,39) 1,27(0,29) 0,469
Triglyceride(mmol/l) 3,40(1,19) 1,71(0,78) 0,849
Bạch cầu đa
nhân(x103/mm3)
11,05(4,46) 9,40(4,81) 0,121
Tiểu cầu(x105/mm3) 245,70(79,68) 244,24(67,11) 0,932
Đặc điểm CT scan
Lượng xuất huyết 44,19(45,03) 16,63(23,75) 0,001
Vị trí xuất huyết
Thùy não 19(38,77%) 12(35,29%) 0,001
Bao trong 17(34,69%) 14(41,17%) 0,548
Thân não 5(10,2%) 0(0%) 0,055
62
Yếu tố Hậu quả xấu
(n=49)
Hậu quả tốt
(n=34)
p
Tiểu no 0(0%) 1(2,94%) 0,227
No thất 18(36,73%) 7(20,58%) 0,115
Hiệu ứng khối 19(38,77%) 3(8,82%) 0,002
Vùng giảm đậm độ 9(18,36%) 3(8,82%) 0,224
Có 11 biến khi xét tương quan với hậu quả sau 3 tháng có ngưỡng ý nghĩa p < 0,25; tần số quan sát
không quá thấp được đưa vào lựa chọn. Các biến số này được đưa vào phân tích hồi quy đa biến
logistic. Kết quả bảng 2:
Bảng 2 Những yếu tố có giá trị tiên lượng độc lập hậu quả tử vong và chức năng sau 3 tháng trên các bệnh nhân
XHN
Tên biến ORthô KTC 95% P ORhc KTC95% p
Đường huyết
(so với <
7mmol/l)
6,440 2,09-19,82 0,001 8,730
2,16-
35,25 0,020
Lượng xuất
huyết (so với
< 30ml)
9,158 3,02-27,77 0,000 12,52
3,03-
51,66 0,000
Hiệu ứng
khối
(có/không)
6,544 1,75-24,42 0,002 6,442
1,03-
40,04
0,046
BÀN LUẬN
Qua phân tích mối liên quan giữa các yếu tố được khảo sát với tiên lượng hậu quả bệnh nhân
sau 3 tháng bằng mô hình phân tích đơn biến, chúng tôi kết luận được mối tương quan của thang
điểm Glasgow, đường huyết, lượng xuất huyết và hiệu ứng khối với hậu quả xấu. Với điểm
Glasgow, chúng tôi dựa vô một số nghiên cứu(1) để chọn điểm cắt l 8 và kết quả tỷ số chênh thô
giữa nhóm GCS ≥ 8 và nhóm GCS <8 l OR=12,00 (KTC95% = 2,58-55,78). Điều này có ý nghĩa là
những bệnh nhân nhập viện với thang điểm Glasgow <8 có tiên lượng hậu quả xấu gấp 12 lần so
với nhóm bệnh nhân ngược lại. Tuy nhiên, khi đưa vô phân tích hồi quy đa biến, điểm Glasgow bị
mất đi vai trò tương quan của nó trong mô hình tiên lượng, có lẽ vì sự phối hợp của ba yếu tố
trong mô hình (lượng xuất huyết ³30ml, đường huyết³ 7mmol/l, có hiệu ứng khối) thì đã đủ giá trị
tiên đoán và không cần đến sự có mặt của thang điểm Glasgow. Thang điểm Glasgow có ưu điểm
là đơn giản, dễ sử dụng và khá ổn định khi đưa vào đánh giá. Rõ ràng vai trò của thang điểm
Glasgow là không thể phủ nhận dù trong phân tích đa biến không còn được xem là yếu tố tiên
lượng. Kết quả trong phân tích đơn biến của chúng tôi về sự tương quan giữa thang điểm Glasgow
với hậu quả chức năng xấu là phối hợp với nhiều nghiên cứu. Nghiên cứu của Trần Công Thắng, L
Văn Thnh và cs(12) cũng để thừa nhận vai trò của thang điểm Glasgow trong công thức giúp tiên
lượng hậu quả sau XHN, có thể ứng dụng vô lâm sàng. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu của chúng
tôi chưa phù hợp với kết quả nghiên cứu của Broderick và cs(1). Qua phân tích hồi quy đa biến
logistic, nghiên cứu này đã chứng minh thang điểm đánh giá mức độ hơn mức Glasgow lúc nhập
viện là một yếu tố tiên lượng độc lập với tỷ lệ sống còn 30 ngày sau XHN (p=0,026). Nghiên cứu
này được thực hiện trên 188 trường hợp bệnh nhân XHN nhập viện lần đầu. Các yếu tố khác trong
mô hình phân tích đa biến của nghiên cứu này là
63
lượng XHN, lượng xuất huyết não thất và quyết định can thiệp phẫu thuật. Nghiên
cứu của chúng tôi kết quả chưa phối hợp với nghiên cứu trên có thể vì mức độ tương
quan giữa sự thay đổi của thang điểm Glasgow với hậu quả xấu sau ba tháng chưa đủ
mạnh so với các yếu tố được giữ lại trong mô hình.
Kết quả nghiên cứu cho thấy đường huyết trung bình trong nhóm hậu quả xấu là 8,24
mmol/l cao hơn so với nhóm hậu quả tốt là 5,58 mmol/l và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p=0,001). Điều này cho thấy tăng đường huyết có tương quan với tăng nguy cơ phục hồi
chức năng kém sau XHN. Có nhiều nghiên cứu khác cũng có cùng kết quả tương tự. Mohr
và cs(10) nghiên cứu và thấy rằng có mối liên quan giữa sự tăng đường huyết trong bảy ngày
đầu với tỷ lệ tử vong. Tương tự, Melamed(9) cũng tìm thấy mối tương quan giữa tăng đường
huyết trên bệnh nhân XHN và tiên lượng hậu quả xấu. Tuy nhiên, trong nghiên cứu về tiên
lượng sau XHN của Castillo và cs(2), mức đường huyết trung bình ở hai nhóm tiên lượng tốt
và tiên lượng xấu thì sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Khi đưa yếu tố đường huyết
vào phân tích hồi quy đa biến, điểm cắt 7mmol/l được chọn vì phù hợp với một số nghiên
cứu khác. Như nghiên cứu của R. Fogelholm và cs(4) đã xác định được mức đường huyết lúc
nhập viện ≥7,7mmol/l ở những bệnh nhân XHN lần đầu có thể làm tăng nguy cơ tử vong
lên 1,4 đến 4,9 lần so với những người có mức đường huyết thấp hơn mức này (p=0,004).
Lượng XHN trung bình ở nhóm hậu quả xấu và nhóm hậu quả tốt chênh lệch nhau
nhiều (44,19 ml v 16,63 ml) và khác biệt có ý nghĩa (p=0,001). Và theo y văn thế giới, điểm cắt
30 ml được chọn để khảo sát về sự tương quan giữa lượng XHN và tiên lượng hậu quả chức
năng. Kết quả cho thấy những bệnh nhân trong nhóm hậu quả xấu có lượng XHN ≥ 30ml
(chiếm 61,2%) cao hơn nhiều so với trong nhóm hậu quả tốt (17,6%), và sự khác biệt này có
ý nghĩa thống kê (p<0,000) và cả ý nghĩa lâm sàng (RR=4,163, KTC95%=1,79-9,64). Khi đưa
vào phân tích hồi quy đa biến, lượng XHN ≥ 30ml vẫn được giữ lại trong mô hình (p=0,000,
OR=12,52; KTC 95%=3,03-51,66). Cũng thực hiện nghiên cứu về tương quan giữa lượng
XHN và nguy cơ tử vong, theo JP Broderick và cs(1) thì những bệnh nhân có lượng XH ≥
60ml thì tỷ lệ tử vong sau 30 ngày là 93% cho các trường hợp XH não sâu và 71% cho XH
thùy não, còn khi lượng XH trên 100ml thì hầu như không có trường hợp sống sót. Kết quả
nghiên cứu trên phù hợp với nghiên cứu của J. Claude Hemphill và cs(6) khi tác giả chọn
lượng xuất huyết ≥ 30ml là một trong những yếu tố giúp tiên lượng tăng nguy cơ tử vong
sau 30 ngày cho bệnh nhân sau XHN. Kết quả phân tích đa biến của nghiên cứu vẫn phù
hợp với nghiên cứu chúng tôi trong việc chứng minh lượng xuất huyết ≥ 30ml (p=0,047) là
yếu tố bất lợi trong việc tiên lượng hồi phục chức năng.
Vị trí xuất huyết hầu như không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi so sánh giữa 2
nhóm hậu quả xấu và hậu quả tốt. Điều này không phù hợp với kết quả một số nghiên cứu
khác, như nghiên cứu của J. Claude Hemphill và cs(6) cho rằng tiên lượng hậu quả tốt
thường gặp hơn ở nhóm XHN trong nhu mô não đơn thuần so với nhóm có xuất huyết vào
não thất. Có thể do lượng xuất huyết vào não thất gây tắc nghẽn não thất IV dẫn đến tràn
ngập não thất, làm trầm trọng thêm tình trạng của người bệnh và gây khó khăn cho việc
phục hồi chức năng sau này. Kết quả nghiên cứu của Juvela và cs(7) cũng ghi nhận kết quả
tương tự. Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác thì mối tương quan giữa lượng xuất huyết và
tiên lượng xấu cũng chưa được tìm thấy(3,5,8).
64
Nghiên cứu của chúng tôi phát hiện được sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mối
tương quan giữa yếu tố có hiệu ứng khối trong phân tích đơn biến (p=0,002) với tiên
lượng hậu quả chức năng sau 3 tháng. Điều này có thể lý giải là khi lượng xuất huyết
não càng lớn thì khả năng gây lệch đường giữa càng nhiều và hiệu ứng khối càng dễ xảy
ra. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Castillo và cs(2) khi tác giả chứng minh có
hiệu ứng khối là yếu tố có tương quan độc lập với tiên lượng hậu quả xấu trên bệnh
nhân XHN (p=0,007). Khi đưa vào phân tích đa biến, vai trò tiên lượng của yếu tố này
vẫn được giữ lại trong mô hình (p=0,046; OR=6,442; KTC 95%=1,03-40,04).
KẾT LUẬN
Ba yếu tố làm tăng nguy cơ tiên lượng hậu quả xấu và độc lập với các yếu tố khác tại
thời điểm sau 3 tháng trên bệnh nhân XHN là đường huyết lúc nhập viện ≥ 7mmol/l, lượng
xuất huyết ≥ 30ml và có hiệu ứng khối (lần lượt gấp 8,7 lần, 12,5 lần và 6,4 lần).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Broderick JP, Brott TG, Duldner JE, Tomsick T and Huster G. Volume of intracerebral hemorrhage. A powerful and easy-
to-use predictor of 30-day mortality. Stroke 1993;24;987-993.
2. Castellanos M, Leira R, Tejada J, Gil-Peralta A, Daùvalos A and Castillo J for the Stroke Project, Cerebrovascular Diseases
Group of the Spanish Neurological. Predictors of good outcome in medium to large spontaneous supratentorial
intracerebral haemorrhages. J Neurol Neurosurg Psychiatry. 2005 May; 76(5): 691–695.
3. Daverat P, Castel JP, Dartigues JF and Orgogozo JM. Death and functional outcome after spontaneous intracerebral
hemorrhage. A prospective study of 166 cases using multivariate analysis. Stroke 1991;22:1-6
4. Fogelholm R, Murros K, Rissanen A and Avikainen S. Long term survival after primary intracerebral haemorrhage: a
retrospective population based study. Journal of Neurology, Neurosurgery, and Psychiatry 2005;76: 1534-1538.
5. Gebel JM, Jauch EC, Brott TG, et al. Relative edema volume is a predictor of outcome in patients with hyperacute
spontaneous intracerebral hemorrhage. Stroke 2002; 33: 2636–41.
6. Hemphill JC III, Bonovich DC., Besmertis L, Manley GT, Johnston SC and Tuhrim S. The ICH Score: A Simple, Reliable
Grading Scale for Intracerebral Hemorrhage Editorial Comment: A Simple, Reliable Grading Scale for Intracerebral
Hemorrhage.Stroke 2001;32:891-897
7. Juvela S. Risk factors for impaired outcome after spontaneous intracerebral hemorrhage. Arch Neurol 1995;52:1193–200.
8. Lisk DR, Pasteur W, Rhoades H, et al. Early presentation of hemispheric intracerebral hemorrhage: prediction of outcome
and guidelines for treatment allocation. Neurology 1994; 44: 133–9.
9. Melamed E: Reactive hyperglycemia in patients with acute stroke. Sci 1976;29:267-275.
10. Mohr JP, Rubenstein LV, Tatemichi TK, Nichols FT, Caplan LR, HierDB, KaseCS, Price TR, Wolf PA: Blood sugar and
acute stroke: The NINCDS Pilot Stroke Data Bank (abstract). Stroke 1985;16:143.
11. Phạm Mạnh Ý, Tạ Mạnh Sơn. Khảo sát các trường hợp tử vong tại khoa nội thần kinh bệnh viện Chợ Rẫy từ 01/12/2002
đến 31/01/2003. Chuyên đề Thần kinh học. Y Học TP Hồ Chí Minh. Tập 7. Phụ bản của Số 4.2003. Nghiên cứu Y học.Trang
38-44.
12. Trần Công Thắng, Lê văn Thành (1999). Sử dụng các dữ liệu lâm sàng và CTScan não lúc nhập viện để tiên lượng xuất
huyết não trên lều. Y Học TP HCM, Chuyên đề Thần kinh học số 2, 1-6.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_yeu_to_tien_luong_hau_qua_tu_vong_va_chuc_nang_tren_ca.pdf