MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 0
NỘI DUNG 1
1. Vài nét về lịch sử Việt Nam giai đoạn 1771-1802 1
2. Đông cung Hoàng tử Cảnh 3
2.1. Cuộc đời và thân thế hoàng tử 3
2.2. Sự nghiệp của Đông cung Hoàng tử Cảnh 4
KẾT LUẬN 7
PHỤ LỤC 9
LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử Việt Nam qua suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước đã trải nhiều triều đại phong kiến. Mỗi triều đại đều mang dấu ấn riêng nhưng gặp nhau ở điểm chung là luôn lập ngôi Thái tử là người kế vị vương quyền khi vua cha qua đời hoặc nhường ngôi. Quan niệm thế tục được duy trì từ đời này qua đời khác theo kiểu cha truyền con nối. Các vị hoàng đế thường chọn trong số các con trai của mình một người có đủ tài trí lập lên làm thái tử, sau khi vua cha nhường ngôi sẽ lên làm vua, tiếp tục cai trị đất nước, duy trì vương quyền của dòng họ.
Đông cung Cảnh là một trong số những hoàng tử có những nét khác biệt so với các hoàng tử khác. Hoàng tử đã qua đời khi chưa một ngày lên ngai vàng. Cuộc đời hoàng tử không dài, và vì chưa lên ngôi vua nên sử sách ghi lại về hoàng tử cũng rất hạn chế. Vấn đề đặt ra ở đây gây khá nhiều tranh cãi: cuộc đời và di nghiệp của ông như thế nào? Bản thân tôi là thế hệ hậu thế, quan tâm đến vấn đề cha ông, muốn góp phần nhỏ sức mình vào dòng chảy chung tìm về nguồn cội.
Sử sách ghi lại diễn biến thời kỳ này khá đầy đủ, do nhà Nguyễn sau khi giành chính quyền đã quan tâm đến việc chép lại sử cha ông. Một cơ quan chuyên về việc này được thành lập, biên soạn cuốn Đại Nam Thực Lục-bộ sử của Quốc sử quán triều Nguyễn, mục đích là ghi lại chân thực về lịch sử triều đại nhà Nguyễn từ thời chúa Nguyễn Hoàng di dân khai hoang vùng Thuận Quảng đến năm Gia Long thứ 18, 1819.
Với niềm đam mê tìm hiểu về nhà Nguyễn cùng sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô, các bạn, đặc biệt là, đã giúp tôi thực hiện đề tài: Đông cung hoàng tử Cảnh qua Đại Nam Thực Lục. Do khuôn khổ của một bài niên luận và lượng kiến thức của cá nhân chưa thật đầy đủ, bài viết chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý và trao đổi của mọi người để bài viết hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1699 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Niên luận Đông cung hoàng tử Cảnh qua Đại Nam Thực Lục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử Việt Nam qua suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước đã trải nhiều triều đại phong kiến. Mỗi triều đại đều mang dấu ấn riêng nhưng gặp nhau ở điểm chung là luôn lập ngôi Thái tử là người kế vị vương quyền khi vua cha qua đời hoặc nhường ngôi. Quan niệm thế tục được duy trì từ đời này qua đời khác theo kiểu cha truyền con nối. Các vị hoàng đế thường chọn trong số các con trai của mình một người có đủ tài trí lập lên làm thái tử, sau khi vua cha nhường ngôi sẽ lên làm vua, tiếp tục cai trị đất nước, duy trì vương quyền của dòng họ.
Đông cung Cảnh là một trong số những hoàng tử có những nét khác biệt so với các hoàng tử khác. Hoàng tử đã qua đời khi chưa một ngày lên ngai vàng. Cuộc đời hoàng tử không dài, và vì chưa lên ngôi vua nên sử sách ghi lại về hoàng tử cũng rất hạn chế. Vấn đề đặt ra ở đây gây khá nhiều tranh cãi: cuộc đời và di nghiệp của ông như thế nào? Bản thân tôi là thế hệ hậu thế, quan tâm đến vấn đề cha ông, muốn góp phần nhỏ sức mình vào dòng chảy chung tìm về nguồn cội.
Sử sách ghi lại diễn biến thời kỳ này khá đầy đủ, do nhà Nguyễn sau khi giành chính quyền đã quan tâm đến việc chép lại sử cha ông. Một cơ quan chuyên về việc này được thành lập, biên soạn cuốn Đại Nam Thực Lục-bộ sử của Quốc sử quán triều Nguyễn, mục đích là ghi lại chân thực về lịch sử triều đại nhà Nguyễn từ thời chúa Nguyễn Hoàng di dân khai hoang vùng Thuận Quảng đến năm Gia Long thứ 18, 1819.
Với niềm đam mê tìm hiểu về nhà Nguyễn cùng sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô, các bạn, đặc biệt là, đã giúp tôi thực hiện đề tài: Đông cung hoàng tử Cảnh qua Đại Nam Thực Lục. Do khuôn khổ của một bài niên luận và lượng kiến thức của cá nhân chưa thật đầy đủ, bài viết chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý và trao đổi của mọi người để bài viết hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
1. Vài nét về lịch sử Việt Nam giai đoạn 1771-1802
Trong lịch sử Việt Nam, thế kỷ XVIII được mệnh danh là"Thế kỷ chiến tranh nông dân". Cuộc khủng hoảng trầm trọng bắt đầu từ Đàng Ngoài. Chính quyền Lê Trịnh tỏ ra hoàn toàn bất lực trước các vấn đề kinh tế xã hội. Triều chính mục nát suy đồi. Sự bất bình của mọi tầng lớp nhân dân cuối cùng đã tụ hội lại dưới ngọn cờ khởi nghĩa của anh em nhà Tây Sơn. Phong trào Tây Sơn đã đạt tới một tầm cao mới, trở thành lực lượng đại diện cho lợi ích của dân tộc. Đất nước đang phát triển đi lên trong một tư thế mới thì Quang Trung đột ngột qua đời vào năm 1792, khi mới 39 tuổi, bỏ lại cả một sự nghiệp lớn còn dang dở. Người kế vị ông là Quang Toản đã không đủ sức gánh vác trọng trách được giao phó.
Trước đó, ngay từ năm 1788, lợi dụng sự bất hoà trong anh em Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã bí mật đưa lực lượng trở lại Gia Định. Thất vọng trước sự bất lực của quân Xiêm, Nguyễn Ánh tăng cường tìm kiếm sự giúp đỡ của người Pháp.
Ý đồ cầu viện Pháp xuất hiện từ 1777. Trong khi lẩn trốn sự truy đuổi của quân Tây Sơn Nguyễn Ánh gặp gỡ và được sự che chở của cha cố Georges Pigneau de Behaine (trong sử thường gọi là Bá Đa Lộc). Năm 1784, trong khi còn đang cầu cạnh vua Xiêm, Nguyễn Ánh đã nhờ Bá Đa Lộc mang thư cùng người con trai 4 tuổi của mình là hoàng tử Cảnh làm con tin sang cầu cứu nước Pháp. Đựợc sự uỷ nhiệm của Nguyễn Ánh, Bá Đa Lộc đã ký với triều đình Pháp một bản hiệp ước vào năm 1787. Theo đó vua Pháp cam kết giúp Nguyễn Ánh về quân sự để khôi phục lại đất đai, đổi lại họ được quyền lợi ở cảng Hội An và đảo Côn Lôn.
Dựa vào sự giúp đỡ của Pháp và các thế lực đại địa chủ Gia Định, lực lượng của Nguyễn Ánh ngày càng mạnh. Lợi dụng mâu thuẫn nội bộ ngày càng nặng nề của quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã dần chiếm được vương quyền. Tháng 6 năm 1801, Nguyễn Ánh chiếm được thành phú Xuân, quân Tây Sơn tan vỡ, quang Toản phải bỏ chạy ra Thăng Long. Tháng 7, thành Thăng Long rơi vào tay quân Nguyễn Ánh. Triều đại Tây Sơn chấm dứt.
Nguyễn Ánh lên ngôi, lấy niên hiệu là Gia Long, tiếp tục thời kỳ trị vì bị đứt quãng của các chúa Nguyễn trước đây. Đóng góp vào sự nghiệp chung ấy phải kể đến công lao của rất nhiều vị danh tướng, sự viện trợ của phương Tây trong đó nổi lên vai trò của Bá Đa Lộc. Dưới danh nghĩa truyền giáo, Bá Đa Lộc như là "sứ giả của hai nước". Cho nên khi phong trào giao thương Âu-Á vẫn tiếp tục mà nhà Tây Sơn bị ném sang bên lề một phần nào thì Gia Định thay mặt Đại Việt nhận lãnh tất cả những ưu thế được đưa đến. Tất nhiên họ đến và mang theo cả văn hoá của họ. Bá-đa-lộc mang hoàng tử Cảnh đi cầu viện, đem về Gia Định không phải chỉ một hiệp ước tuy không thi hành nhưng cũng kêu gọi người tới mà còn một ông hoàng trừ nhị biết đọc kinh và quả quyết hứa rằng sứ mệnh của ông là'làm cho dân chúng tôi trở lại đạo". Đặt trong bối cảnh chung của lịch sử lúc này, cuộc đời Hoàng tử Cảnh đã có những biến động, nhất là từ khi ông theo Bá-đa-lộc. Tuy mất sớm nhưng những năm tháng tuổi trẻ ông cũng đã đóng góp rất nhiều trong quá trình giành lại vương triều Nguyễn. Cùng lật lại sách sử cũ, mà chính yếu ở đây là qua Đại Nam Thực Lục chúng ta sẽ có cái nhìn toàn diện hơn.
2. Đông cung Hoàng tử Cảnh
2. 1. Cuộc đời và thân thế hoàng tử
Đại Nam Thực Lục có chép về hoàn cảnh ra đời của hoàng tử Cảnh khá rõ nét: "Năm Canh Tý, lại năm thứ 1 [1780] (Lê - Cảnh Hưng năm thứ 41, Thanh -Càn Long năm thứ 45, năm ấy vua mới lên ngôi nên lại chép năm thứ 1) mùa xuân, tháng Giêng, ngày Quý Mão, vua lên ngôi vương. Tháng 3, ngày Tân Tỵ, hoàng tử cả Cảnh (tức là Anh Duệ Hoàng thái tử) sinh, do nguyên phi Tống thị (tức là Thừa thiên Cao hoàng hậu ;phi là con gái ngoại tả chưởng dinh Tống Phước Khuông, tổ tiên là người Bùi Xá, huyện Tống Sơn, buổi đầu theo Thái tổ vào Nam trấn, ở tại An Quán dinh Quảng Nam. Khi Duệ Tông vào Nam, phi theo Phước Khuông vào Gia Định. Năm Mậu tuất vua sửa lễ cưới, tấn phong làm nguyên phi). " Đại Nam Thực Lục, tập 1, phần 5, trang 208.
Đại Nam Thực Lục đã trích dẫn "Bá Đa Lộc là người Phú Lãng Sa, thường qua lại khoảng Chân Lạp và Gia Định, nhân đến yết kiến vua và xin giúp sức. Vua lấy lễ khách mà đãi. Đến đây vua mời đến, dụ rằng : “Hiện nay giặc Tây Sơn chưa dẹp được, bốn mặt kinh đô còn nhiều đồn lũy mà đảo Thổ Châu và đảo Phú Quốc không chỗ nào ở yên được, vận nước ta gặp bước gian truân, khanh đã rõ rồi. Khanh có thể vì ta đi sứ sang Đại Tây, nhờ đem quân sang giúp ta được không ?”. Bá Đa Lộc xin đi. Hỏi lấy gì làm tin. Vua nói : “Đời xưa các nước giao ước cùng nhau, lấy con làm tin. Ta lấy con là Cảnh làm tin. Cảnh 4 tuổi, mới lìa lòng mẹ, ta đem ủy thác cho khanh, mong khanh khéo bảo hộ. Non sông cách trở, đường sá gian nan, nếu có biến cố thì khanh nên giữ Cảnh mà tránh” Đại Nam Thực Lục, tập 1, phần 5, trang 216-218
. Như vậy, hoàng tử Cảnh đi theo cha cố Bá-đa-lộc từ khi còn là một đứa trẻ 4 tuổi. Tiếp xúc với văn minh nước ngoài và đạo Thiên Chúa mà các vua nhà Nguyễn sau này vẫn dùng với chữ "tả đạo"- hoàng tử chắc chắn có sự ảnh hưởng mạnh nếu không muốn nói là đã tiếp thu.
Sau khi trở về quê hương, hoàng tử được chính thức sắc phong làm Đông cung hoàng tử. Vua sắc rằng : “Cha có con như trời có nguyên khí. Nguyên khí lớn lên, thì đạo trời mới thịnh. Họ có ngành như sông có nhánh, nhánh trên mà sâu, thì dòng sông càng xa. Cho nên thánh đế minh vương, đương lúc thái bình, còn nghĩ lập ngôi thái tử; huống nay đánh đông đánh tây, đương lúc dẹp loạn, há quên dựng người nối ngôi ! Nguyễn Phúc Cảnh là con cả của nhà, là vua sau của nước. Học thì lo cầu văn chương lễ nhạc, gần theo những bực hiền lương; đạo thì lo tìm tâm pháp thánh hiền, nhờ cậy các quan sư phó. Tuy trạc tuổi hãy còn non trẻ, việc nên chăng chẳng khác mọi người; nhưng gian hiểm đã từng trải quan, lịch số trời tất ở con đó. Nay lập làm Đông cung Cảnh quận công, để thống nhất lòng dân, hợp lời nghị luận. Phải làm cho tâm đức xứng ánh sáng của Tiền tinh1, 2. Tiền tinh là sao trước; Tiểu hải là biển nhỏ, đều chỉ ngôi Thái tử.
; khiến cho người đời thấm ơn sâu của Tiểu hải(2). Mưu hay để cho con cháu, hoa vàng rõ như nhật nguyệt sáng thêm; điềm lành vun đắp cơ đồ, lịch ngọc dài như càn khôn muôn thuở”.
Rõ ràng việc Hoàng tử Cảnh được sắc phong làm hoàng tử là mong muốn của Nguyễn Ánh dựa trên thực tế con người và tài năng ,cả những thăng trầm đã có trong cuộc đời của ông. Việc để ông làm con tin đi cùng Bá-đa-lộc sang cầu cứu vua Pháp cũng chứng tỏ tầm quan trọng của ông trong con mắt vua Nguyễn Ánh, là người được chọn sẽ nối nghiệp cơ đồ sau này.
2.2. Sự nghiệp của Đông cung Hoàng tử Cảnh
Những năm tháng sống trên đất khách quê người, tiếp xúc với một nền văn hoá hoàn toàn xa lạ so với khuôn phép đạo lý của vương triều, Hoàng tử Cảnh đã tiếp thu đạo giáo-thứ đạo bị coi là"tả đạo" ở xứ An Nam này, mà biểu hiện rõ nhất, gây bàng hoàng cho cả vương triều Nguyễn Ánh là việc ông nhất định không chịu quỳ lạy trước tổ tiên. Chính vì vậy việc quan trọng nhất lúc này là làm sao kéo hoàng tử trở về với nguồn cội bản gốc cha ông và ngăn cách bớt sự gần gũi với các cha cố, cha đạo (ở đây người có ảnh hưởng lớn nhất đến hoàng tử chính là Bá-đa-lộc). Sau những nỗ lực nhất định, ông cũng đã quay trở lại đúng với bản chất của một ông hoàng Đông phương, học kinh thư lễ nghĩa và có 3 vợ - thay vì tuyên bố theo đạo và sẽ đưa đất nước này theo đạo như ban đầu mới trở về.
Hoàng tử dần được vua cha ban cho quyền lực và tham gia trực tiếp vào các trận đánh với quân Tây Sơn như trận đánh Chiêm Dinh,La Qua thu nhiều thắng lợi. Ông được giao trấn giữ thành Diên Khánh, là nơi hiểm yếu mà trước khi đi vua đã căn dặn “ Đất Diên Khánh bốn mặt đều là chiến trường, dân chúng lầm than lắm rồi. Ta ngày đêm vất vả, nếm đủ đắng cay mới giành được miếng đất ấy. Con nên chuyên tâm, trong giữ yên dân, ngoài lo chống giặc, để đáp tấm lòng mong mỏi của dân và khiến quân giặc phải sợ. Con phải gắng làm như chính ta trông thấy”. Như thế đã thấy phần nào vị trí của hoàng tử trong vua.Việc chăm lo để Đông cung xa rời dần đạo, quay về với nếp cũ gia phong cũng được coi trọng .Vua lại nói : “Đế vương từ xưa chưa ai là không học. Thế cho nên Thái Giáp làm được cháu hiền của Vua Thang, Thành Vương làm được vua giỏi của nhà Chu, cũng đều nhờ học mà nên đức. Khi việc binh rỗi con nên vâng theo sư phó, chăm đọc kinh sách, khiến cho sự học được sáng tỏ, nghiệp đức được tiến lên. Đến như đối với xung quanh thì nên gần người ngay thẳng, xa kẻ gian tà, thế mới gọi là sáng suốt biết người". Đại Nam Thực Lục.Tập 1, phần 7, trang 303
Hoàng tử còn tham gia viết sách Hiển trung chư thần liệt truyện nhằm khích lệ lòng binh sĩ, hay dâng tấu lên vua những việc không phải và cũng có thể coi là người khá quan tâm đến đời sống nhân dân.
Đại Nam Thực Lục trích dẫn: "Hà Tiên đói, Mạc Tử Thiêm sai dân đong thóc ở Kiên Giang, viên quản thủ không cho. Tử Thiêm xin ở Gia Định. Đông cung Cảnh nói: “Buôn thóc ra ngoài biển thì có lệnh cấm. Nhưng dân ở Hà Tiên cũng là con đỏ của triều đình, sao nỡ thấy đói kém mà không cứu?”. Bèn hạ lệnh cho đạo Long Xuyên bán cho 10 xe thóc. Gia Định được mùa, trong cõi yên ổn. Đông cung Cảnh dâng sớ tâu và nói: “Nhân nay mùa rỗi, xin bắt 10. 000 dân phu và số người đồn điền lấy ba phần mười, ủy cho Công bộ Trần Văn Thái đem đi Quang Hóa lấy gỗ ván chở về, đóng thêm 50 chiếc thuyền đi biển, để sẵn cho quân dùng”.Đại Nam Thực Lục, tập 1, quyển 10, trang 417
"Đông cung Cảnh cho quân đi đánh giặc ở La Qua, giết được voi giặc, giặc vỡ chạy. Báo tin thắng trận"Đại Nam Thực Lục, tập 1, quyển 8, trang 353-354
Bộ binh của Đông cung từ thượng đạo đánh úp phá được ba bảo Hà Nha, Thị Dã và Chủ Sơn, bắt được hơn 2. 000 quân giặc.Đại Nam Thực Lục, tập 1, quyển 7, trang 309-310
Sau vua truyền ông về trấn Gia Định. Cuộc đời ông chỉ kéo dài được đến năm 22 tuổi thì mất, truy đặt thụy là Anh duệ hoàng thái tử (năm Gia Long thứ 4).
KẾT LUẬN
Có thể thấy cuộc đời hoàng tử Cảnh không dài so với một đời người nhưng ông cũng đã trải qua nhiều thăng trầm, tham gia trực tiếp vào cuộc chiến giữa triều Tây Sơn và Nguyễn Ánh, được sắc phong làm Đông cung hoàng tử chờ ngày lên ngôi kế vị ngai vàng.
Những tưởng Hoàng tử Cảnh qua 4 năm tuổi thơ sống bên Bá-đa-lộc (đồng thời cũng là một cố vấn trực tiếp mang đến cho Nguyễn Ánh những thành tựu của phương Tây), cũng như bao đứa trẻ khác đã theo khuynh hướng tự nhiên mà hướng về Thiên Chúa giáo. Nhưng cuối cùng ông vẫn trở về đúng nghĩa một ông hoàng Đông phương. Điều này hoàn toàn có thể lý giải được, theo như lời bà Thái hậu: "Có gì lạ đâu, thằng bé vừa mới về chưa nhận được chút giáo dục phong tục của ta, chỉ thấy toàn những điều trái lại thì làm sao nó làm theo lời ta bảo được. Để yên rồi lâu ý tưởng nó sẽ giống như của chúng ta." Tạ Chí Đại Trường, Lịch sử nội chiến (1771-1802), trang 338
Đóng góp của ông vào cuộc chiến của quân Nguyễn Ánh cũng không phải là nhỏ. Ông cũng được vua cha giao phó rất nhiều trọng trách và giao cho trấn giữ những vị trí hiểm yếu như thành Diên Khánh, đất Gia Định. Bên cạnh việc chỉ đạo Đông cung việc quân cơ,vua còn chú ý dạy ông cách cai quản tướng lĩnh,khuyên dạy cách tu thân thành tài.
Hoàng tử có thể coi là người đầu tiên trong số các hoàng tử triều đại phong kiến ra nước ngoài,mà ra đi từ rất sớm - năm 4 tuổi. Với thân phận của mình, tuổi thơ ông sống trong sự dạy bảo, chở che của một vị cha cố đạo Thiên chúa thay vì vòng tay cha mẹ -hay vua và hoàng hậu. Đây là điều kiện khách quan để hoàng tử tiếp xúc sớm với phương tây và đi theo Đạo thay vì các lễ nghi phong kiến. Để rồi chính việc ông theo Đạo đã kéo theo hàng loạt các sự kiện triều chính, mà tiêu biểu là vụ viên đại thần Tống Phúc Đạm trước vốn là người sùng Nho mà nay xin theo được theo đạo Thiên chúa. Tạ Chí Đại Trường,Lịch sử nội chiến(1771-1802), trang 345
Rõ ràng chúng ta không thể phủ nhận vai trò của các nhà truyền giáo vào Việt Nam, đặc biệt là thời gian này. Thiên chúa giáo đã có chỗ đứng khá vững chắc trong dân chúng. Nó xâm nhập vào chính những vị hoàng thân quốc thích, và từ đó lan rộng ra theo mô hình dây truyền, người này truyền người kia. Hoàng tử Cảnh chính là một trong những vị hoàng thân quốc thích ấy,nếu không muốn nói là người chủ đất nước của nhà Nguyễn trong tương lai.Những đặc tính của đạo đe doạ đến quyền hành tối cao của vua nên việc để hoàng tử Cảnh tiếp tục theo đạo là điều không tưởng, mà dần đưa ông về với phong tục tập quán cha ông là điều cấp thiết.Để trả ơn công lớn của Bá-đa-lộc, vua vẫn để ông ta bên cạnh hoàng tử nhưng cũng dần tách ông,tách khỏi ảnh hưởng của đạo với đông cung Cảnh.Điều đó lỳ giải vì sao traong thời gian đầu ông ta luôn cận kề hoàng tử, về sau lại ít xuất hiện hoặc tìm cớ thoái thác đi theo Đông cung Cảnh hành quân chinh chiến. Có thể nói cuối cùng thì truyền thống vẫn chiến thắng sự du nhập mới,hoàng tử vẫn trở về theo Nho gia.
PHỤ LỤC
Hoàng tổ ta là Thánh tổ Nhân hoàng đế, ngửa trông công trước, tỏ rõ phép đời, năm Minh Mệnh thứ 2 mở đặt Sử quán, sai quan soạn sách Liệt thánh thực lục, chia ra từng kỷ, từ Thái tổ Gia dụ hoàng đế đến Hiếu định hoàng đế làm Tiền biên, tỏ rõ nguyên ủy của đức nhà ; từ Thế tổ Cao hoàng đế trung hưng về sau làm Chính biên, để nêu lớn cái nghĩa nhất thống. Cân nhắc thể lệ, quyết định tự ý trên, thật là cách đúng đắn của nghìn xưa, để làm phép cho muôn đời noi theo vậy.
Hoàng khảo ta là Hiến tổ Chương hoàng đế, xa noi lòng hiếu, lo rạng gương xưa, khi mới lên ngôi, rộng tìm sách cũ, đầu mở Sử cục, sai nho thần vào quán biên chép cho có chuyên trách, các tổng tài đại thần qua lại sửa chữa cho chóng thành công. Mấy lần đã soạn dạng bản dâng trình, và kính vâng sửa định càng được tinh tế.
Thiệu Trị năm thứ 4 [1844], sách Liệt thánh thực lục tiền biên hoàn thành. Sai đem khắc in, đóng thành từng quyển, đã đem chứa vào kho sách Hoàng sử rồi. Duy bộ Thực lục chính biên về Thế tổ Cao hoàng đế đã hai ba lần sắc bảo, gia công cứu xét nhuận chính, để đợi in tiếp. Tính từ năm Minh Mệnh thứ 2 cho đến năm Triệu Trị thứ 7, trải 27 năm, mấy lần soạn chép mới được thành biên, nay đã hoàn bị. Nhận thấy thánh nhân lưu ý việc soạn chép sử sách, thực là thận trọng đến thế ! Nay ta đức mỏng gánh chịu nghiệp to, nghĩ công sách nghiệp đã khó khăn, lo việc thủ thành cũng không dễ. Kính nghĩ, bộ sử này trải từ hoàng tổ và hoàng khảo ta trước sau xét định, đối với bao nhiêu mối lớn phép lớn trong sự sáng nghiệp, bao nhiêu công đức thần thánh rất cao rất dày của Thế tổ Cao hoàng đế ta, thực đã rõ như trăng sao, vang lừng trời đất, cần phải khắc in để rạng rỡ mãi mãi, ngõ hầu thỏa chút lòng hiếu thảo của ta. Gần đây bộ Thực lục về Hoàng tổ Thánh tổ Nhân hoàng đế và Hoàng khảo Hiến tổ Chương hoàng đế biên soạn đã xong, lần lượt kính đem khắc in, để vào kho sách, dùng để sáng tỏ thêm những văn mô võ liệt của nước Đại Nam ta tới muôn muôn đời không cùng.
Nước Việt Nam ta từ Đinh, Lý, Trần, Lê dấy lên, không triều nào là không có sách ghi chép, nhưng tìm được công lao gây dựng ở trước, sự nghiệp rạng rỡ ở sau, để nối dòng chính thống, so sánh thịnh vượng với nhà Thương nhà Chu, thực chưa có triều nào tốt đẹp bằng triều này. Nhà nước ta chịu mệnh trời cho, Thái tổ Gia dụ hoàng đế dựng nghiệp cõi Nam, thần truyền thánh kế hơn 200 năm, chứa đức chồng nhân kể đã lâu lắm. Từ thuở Tây Sơn nổi loạn, nhà Lê mất ngôi, thì trời mở đường cho thánh nhân dấy lên. Kính nghĩ, Thế tổ Cao hoàng đế ta, ứng mệnh trời thuận lòng người, dẹp tắt mối loạn, xoay lại đường chính, khôi phục kinh cũ, thống nhất nước nhà, dư đồ nhất thống, quy mô rộng xa, vừa trung hưng vừa sáng nghiệp, tỏ công trước để về sau, cơ nghiệp lâu dài hàng ức muôn năm của nước Đại Nam ta gây nền từ đó, đẹp tốt biết chừng nào !
DNTL tập 1, phần 5, trang 193-194.
Năm Canh Tý, lại năm thứ 1 [1780] (Lê - Cảnh Hưng năm thứ 41, Thanh -Càn Long năm thứ 45, năm ấy vua mới lên ngôi nên lại chép năm thứ 1) mùa xuân, tháng Giêng, ngày Quý Mão, vua lên ngôi vương.
Tháng 3, ngày Tân Tỵ, hoàng tử cả Cảnh (tức là Anh Duệ Hoàng thái tử) sinh, do nguyên phi Tống thị (tức là Thừa thiên Cao hoàng hậu ;phi là con gái ngoại tả chưởng dinh Tống Phước Khuông, tổ tiên là người Bùi Xá, huyện Tống Sơn, buổi đầu theo Thái tổ vào Nam trấn, ở tại An Quán dinh Quảng Nam. Khi Duệ Tông vào Nam, phi theo Phước Khuông vào Gia Định. Năm Mậu tuất vua sửa lễ cưới, tấn phong làm nguyên phi).
DNTL tập 1, phần 5, trang 208.
Quý Mão, năm thứ 4 [1783] (Lê - Cảnh Hưng năm thứ 44, Thanh - Càn Long năm thứ 48), mùa xuân, tháng Giêng.
Tháng 2, giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Lữ và Nguyễn Văn Huệ vào đánh phá. Thuyền Tây Sơn từ cửa biển Cần Giờ ngược dòng mà lên.
Mùa thu, tháng 7, Nguyễn Văn Huệ nghe tin vua ở đảo Côn Lôn, sai người đảng là phò mã Trương Văn Đa đem hết thủy binh đến vây ba vòng, tình thế rất nguy cấp. Bỗng mưa gió nổi lớn, bốn bề mây mù kín mít, người và thuyền cách nhau gang tấc cũng không thấy nhau. Sóng biển nổi lên dữ dội. Thuyền giặc tan vỡ chìm đắm không xiết kể. Thuyền vua bèn vượt các vòng vây, đến đậu ở hòn Cổ Cốt, rồi lại trở về đảo Phú Quốc. Quân lương thiếu thốn, binh sĩ đến nỗi phải hái cỏ tìm củ mà ăn. Có người đàn bà buôn bán ở Hà Tiên tên là Thị Uyển chở một thuyền gạo đến dâng. Vua khen ngợi hồi lâu. Thuyền vua gặp gió, buồm và cột buồm bị hỏng, lại có thuyền buôn đem lá buồm gồi đến dâng.
Vua nghe tin Bá Đa Lộc ở Chan Bôn.
(đất Xiêm), sai người đến mời. Bá Đa Lộc là người Phú Lãng Sa, thường qua lại khoảng Chân Lạp và Gia Định, nhân đến yết kiến vua và xin giúp sức. Vua lấy lễ khách mà đãi. Đến đây vua mời đến, dụ rằng : “Hiện nay giặc Tây Sơn chưa dẹp được, bốn mặt kinh đô còn nhiều đồn lũy mà đảo Thổ Châu và đảo Phú Quốc không chỗ nào ở yên được, vận nước ta gặp bước gian truân, khanh đã rõ rồi. Khanh có thể vì ta đi sứ sang Đại Tây, nhờ đem quân sang giúp ta được không ?”. Bá Đa Lộc xin đi. Hỏi lấy gì làm tin. Vua nói : “Đời xưa các nước giao ước cùng nhau, lấy con làm tin. Ta lấy con là Cảnh làm tin. Cảnh 4 tuổi, mới lìa lòng mẹ, ta đem ủy thác cho khanh, mong khanh khéo bảo hộ. Non sông cách trở, đường sá gian nan, nếu có biến cố thì khanh nên giữ Cảnh mà tránh”. Bá Đa Lộc lạy xin vâng mệnh. Vua và phi cầm nước mắt đưa con. Sai bọn Phó vệ úy Phạm Văn Nhân và Cai cơ Nguyễn Văn Liêm cùng đi. Cảnh đi rồi, vua bỏ ra một thoi vàng (vàng mười tuổi, 20 lạng) chặt đôi trao cho phi một nửa dặn rằng : “Con ta đi rồi, ta cũng đi đây. Phi ở lại phụng thờ quốc mẫu, chưa biết sau này gặp nhau ở nơi nào, ngày nào, hãy lấy vàng này làm tin” (Năm Minh Mệnh thứ 1, kính khắc và thoi vàng những chữ Thế tổ đế hậu quý mão bá thiên nhật tín vật2. Vật làm tin ngày Thế tổ và Hoàng hậu chia lìa nhau năm Quý mão.
, tôn cất ở điện Phụng Tiên).
DNTL tập 1, phần 5, trang 216-218.
Tháng 12
Phạm Văn Nhân và Nguyễn Văn Liêm cùng Bá Đa Lộc đem hoàng cả Cảnh sang Tây.
Hoàng cả Cảnh sang tới Tiểu Tây Dương1. Thuộc địa Pháp ở Ấn Độ.
, gặp khi trong nước Đại Tây có biến, bèn đỗ ở thành Phong Tỳ Sê Ri2. Pondichéry.
nước Tiểu Tây.
DNTL tập 1, phần 5, trang 223.
Tháng 6
Bá Đa Lộc đem hoàng cả Cảnh sang nước Đại Tây, Phạm Văn Nhân và Nguyễn Văn Liêm cho Hồ Văn Nghị phụng biểu về hành tại ở Vọng Các báo tin, rồi ở lại hầu vua.
DNTL tập 1, phần 5, trang 226
Kỷ Dậu, năm thứ 10 [1789] (năm ấy nhà Lê mất, Thanh - Càn Long năm thứ 54
Tháng 6, hoàng cả Cảnh từ nước Tây Dương về. Đầu là vua sai Cảnh sang Đại Tây cầu việc, trải hai năm mới đến nước ấy. Vua nước ấy đãi theo vương lễ, nhưng cuối cùng không thể giúp được, mới sai thuộc hạ là Nguyễn Văn Thắng và Nguyễn Văn Chấn theo Bá Đa Lộc đưa Cảnh về. Cảnh từ khi vâng mệnh sang Tây, đã được bốn năm, vua để lòng thương nhớ, kịp được tin báo, tức thì sai Tôn Thất Hội đem binh thuyền ra cửa biển Cần Giờ đón về. Về đến nơi, vua vui mừng lắm, Thắng và Chấn đều xin ở lại làm tôi tớ. Vua cho, đều cho chức Cai đội và cho một nghìn quan tiền (Thắng, Chấn đều là tên của vua cho).
DNTL tập 1, phần 6, trang 248.
Quý Sửu, năm thứ 14 [1793] (Thanh - Càn Long năm thứ 58)
Tháng 3, ngày Giáp Dần, lập hoàng tử cả Cảnh làm Đông cung (14 tuổi), ban cho ấn Đông Cung. Sắc rằng : “Cha có con như trời có nguyên khí. Nguyên khí lớn lên, thì đạo trời mới thịnh. Họ có ngành như sông có nhánh, nhánh trên mà sâu, thì dòng sông càng xa. Cho nên thánh đế minh vương, đương lúc thái bình, còn nghĩ lập ngôi thái tử; huống nay đánh đông đánh tây, đương lúc dẹp loạn, há quên dựng người nối ngôi ! Nguyễn Phúc Cảnh là con cả của nhà, là vua sau của nước. Học thì lo cầu văn chương lễ nhạc, gần theo những bực hiền lương; đạo thì lo tìm tâm pháp thánh hiền, nhờ cậy các quan sư phó. Tuy trạc tuổi hãy còn non trẻ, việc nên chăng chẳng khác mọi người; nhưng gian hiểm đã từng trải quan, lịch số trời tất ở con đó. Nay lập làm Đông cung Cảnh quận công, để thống nhất lòng dân, hợp lời nghị luận. Phải làm cho tâm đức xứng ánh sáng của Tiền tinh1, 2. Tiền tinh là sao trước; Tiểu hải là biển nhỏ, đều chỉ ngôi Thái tử.
; khiến cho người đời thấm ơn sâu của Tiểu hải(2). Mưu hay để cho con cháu, hoa vàng rõ như nhật nguyệt sáng thêm; điềm lành vun đắp cơ đồ, lịch ngọc dài như càn khôn muôn thuở. Cho làm nguyên súy lĩnh dinh Tả quân; chỗ ở cho gọi là Súy phủ (sau gọi là Tân phủ); văn thư trao xuống cho gọi là giáo”.
Vua cho rằng Đông cung còn trẻ tuổi, muốn được thái phó thái bảo tốt để giúp, bèn dựng nhà Thái học, đặt một Đông cung phụ đạo, 2 thị giảng, 8 Hàn lâm thị học, 6 Quốc tử giám thị học, mỗi ngày hai buổi họp các quan đốc học ở nhà thái học để giảng bàn kinh sử. Phàm Đông cung nói gì làm gì, thị học phải ghi hết, mỗi tháng một lần tiến lên vua xem, để xem đức nghiệp tiến ích thế nào.
DNTL tập 1, phần 7, trang 291.
Mùa hạ, tháng4
Vua thân đi đánh Quy Nhơn, để Đông cung Cảnh ở lại trấn giữ Gia Định, lấy Phó tướng Tả quân Phạm Văn Nhân và Giám quân Trung dinh Tống Phước Đạm giúp việc.
DNTL, tập 1, phần 7, trang 293.
Tháng 11
Sai Đông cung nguyên soái Cảnh quận công trấn thành Diên Khánh, cho Bá Đa Lộc và bọn thị học đi theo. Khiến Phó tướng Tả quân Phạm Văn Nhân, Giám quân Trung dinh Tống Phước Đạm, Lưu thủ cai cơ quản suất Trấn Định là Mạc Văn Tô, Cai cơ đạo Tân Châu là Nguyễn Đức Thành cùng các tướng sĩ đi theo để điều bát. Khi đi nhà vua dụ Đông cung rằng : “Đất Diên Khánh bốn mặt đều là chiến trường, dân chúng lầm than lắm rồi. Ta ngày đêm vất vả, nếm đủ đắng cay mới giành được miếng đất ấy. Con nên chuyên tâm, trong giữ yên dân, ngoài lo chống giặc, để đáp tấm lòng mong mỏi của dân và khiến quân giặc phải sợ. Con phải gắng làm như chính ta trông thấy”. Lại nói : “Đế vương từ xưa chưa ai là không học. Thế cho nên Thái Giáp làm được cháu hiền của Vua Thang, Thành Vương làm được vua giỏi của nhà Chu, cũng đều nhờ học mà nên đức. Khi việc binh rỗi con nên vâng theo sư phó, chăm đọc kinh sách, khiến cho sự học được sáng tỏ, nghiệp đức được tiến lên. Đến như đối với xung quanh thì nên gần người ngay thẳng, xa kẻ gian tà, thế mới gọi là sáng suốt biết người. Đi ra nên kính nhớ lấy”.
Lại dụ Phạm Văn Nhân và Tống Phước Đạm giúp đỡ Đông cung, định nghiêm tướng lệnh, tự cai cơ trở xuống, không tuân mệnh thì chém.
Triệu Nguyễn Hoàng Đức về, khiến lưu những quân Chân Lạp, Chà Và do Đức cai quản, ở lại Diên Khánh để sung sai bát.
Triệu Tôn Thất Hội về, khiến Vũ Văn Lượng và Nguyễn Long hiệp với Lưu thủ Nguyễn Văn Nhân để cùng giữ Phú Yên.
Đông Cung Cảnh đến Diên Khánh, lại sai Mạc Văn Tô và Nguyễn Đức Thành đi Phú Yên hội đồng với bọn Vũ Văn Lượng trù tính việc quân.
DNTL, tập 1, phần 7, trang 303.
Giáp Dần, năm thứ 15 [1794] (Thanh - Càn Long năm thứ 59). Tháng 3
Vua sai truyền dụ cho Đông cung Cảnh chỉnh đốn tướng sĩ, phòng bị nghiêm cẩn. Đông cung dâng biểu nói : “Quân lấy lương ăn làm đầu, nay lương quân ở Diên Khánh chỉ đủ dùng một tháng, sợ thiếu”.
DNTL, tập 1, quyển 7, trang 307.
Mùa hạ, tháng 4
Tướng giặc là Nguyễn Văn Hưng đem 40. 000 quân bộ xâm phạm Phú Yên. Lưu thủ Nguyễn Văn Nhân chạy báo cho Diên Khánh. Đông cung ra lệnh cố giữ để chờ viện binh. Nhân cho rằng quân ít không chống nổi, cùng với Vũ Văn Lượng, Mạc Văn Tô, Nguyễn Đức Thành đều rút lui. Chợt có tin gián điệp báo rằng quân giặc đi đường núi xuống Ba Ngòi để triệt đường lương của ta. Đông cung bèn sai bọn Nhân thẳng vào Mai Nương để phòng bị. Việc tâu lên, Vua dụ giục Nguyễn Văn Thành đốc các thuyền lương tiến vào Bình Thuận và vẫn quản hai chi Túc Uy và Kiến Võ cứ chở gạo lương đến Diên Khánh. Sai Giám quân Trung dinh Nguyễn Văn Trương thay lĩnh binh thuyền để nghiêm việc phòng bị.
Mùa hạ, tháng 4, đặt hai vệ Túc Võ và Dương Võ quân Thần sách, lấy Phó vệ úy vệ Ban trực tả là Cao Văn Lý làm Vệ úy vệ Túc Võ, Khâm sai thuộc nội cai cơ chi Chấn Võ là Nguyễn Văn Trương làm Vệ úy vệ Dương võ, Khâm sai cai cơ Trần Văn Bảo làm Phó vệ úy.
Lấy Khâm sai tổng binh cai cơ Hữu quân Nguyễn Công Đằng làm Chính vệ vệ Dũng Võ, Khâm sai cai cơ Lê Văn Do làm Phó vệ.
Tướng giặc Trần Quang Diệu đem thủy binh vào cửa biển Nha Trang; bộ binh của Nguyễn Văn Hưng cũng đến Bình Khang; bèn họp quân tiến sát thành Diên Khánh, vây ba mặt. Đông cung triệu Vũ Văn Lượng về thành chống giữ, sai Nguyễn Văn Nhân đóng đồn
Long Cương [Gò Rồng], Mạc Văn Tô và Nguyễn Đức Thành đóng đồn ở Ba Ngòi, Nguyễn Long đóng đồn ở Thượng đạo, để chặn đường không cho giặc thông viện. Quân Nguyễn Văn Thành đến, bèn cùng Nhân tiến đóng ở các xứ Phong Lộc và Cầu Dài [Trường Kiều]. Giặc đánh thành liền mấy ngày, súng trong thành bắn ra quân giặc chết và bị thương rất nhiều.
Vua nghe tin, bèn thân cử đại binh đi đánh, sai chạy dụ cho Đông cung rằng : “Giặc cậy đông mà kiêu, không đáng lo. Con nên cùng các tướng giữ thành cho vững, không bao ngày nữa đại binh sẽ tới. Nếu bỏ thành ấy thì từ Chánh phó tướng trở xuống đều lấy quân pháp trị tội”.
DNTL, tập 1, quyển 7, trang 308.
Tháng 5, thuyền vua tiến đóng ở cửa biển Xuân Đài, sai Võ Tánh đem quân đánh giặc ở chợ Hội An, giặc tan vỡ, bỏ đồn lùi giữ Thị Dã. Bộ binh của Đông cung và bọn Nguyễn Văn Thành vừa đến.
Bộ binh của Đông cung từ thượng đạo đánh úp phá được ba bảo Hà Nha, Thị Dã và Chủ Sơn, bắt được hơn 2. 000 quân giặc. Điểm kiểm giặc là Trần Viết Kết lùi chạy. Nguyễn Văn Thành khinh suất tiến theo, gặp phục binh nên bị thua. Quân ta bèn giữ bảo Hà Nha.
Thủy quân ta chặn ngang cửa biển. Thái úy giặc là Nguyễn Văn Hưng, thống lĩnh là Nguyễn Văn Chân ở trong cửa biển chẹn chỗ hiểm chống giữ. Hộ giá Nguyễn Văn Huấn giữ chợ Vân Sơn và Điểm Kiểm Trấn Viết Kết giữ bảo Hà Nha để chống bộ binh ta. Đông cung dâng biểu xin chia đường tiến đánh
Vua dụ rằng : “Thủy binh giặc đương khốn với ta, tiến lui đều khó. Thủy thua thì bộ cũng thua theo, việc gì mà lo. Con nên ra lệnh cho Nguyễn Văn Thành cùng các tướng tùy địa thế đặt đồn bảo ở khoảng La Thai và Hà Nha, lại đặt thêm trọng binh ở Cù Mông, hễ giặc tiến thì ta lùi, giặc lùi thì ta tiến, làm thế “bạng duật tương trì”, chờ khi ta phá được thủy binh giặc thì bấy giờ sẽ đánh úp lấy thành Quy Nhơn, dễ như trở bàn tay vậy”.
DNTL, tập 1, quyển 7, trang 309-310.
Tháng 6, sai Nguyễn Văn Trương và Nguyễn Văn Nhân đem binh thuyền đánh giặc ở cửa biển An Dụ, cướp được hơn 10 chiếc thuyền lương, thừa thắng tiến thẳng đến cửa biển Đại Cổ Lũy (thuộc tỉnh Quảng Ngãi), đánh kho Phú Đăng. Tiết độ giặc là Nguyễn Văn Giáp thua chạy, [quân ta] vét hết lương thực rồi trở về.
Sai Vệ úy Phan Văn Triệu, Ôlivi1. Olivier.
, Trần Văn Tín, Lê Văn Duyệt
Cao Văn Lý cùng Cai đội quản Xiêm binh Nguyễn Văn Tổn và Cai cơ Trương Văn Phụng, đều đem quân bộ thuộc theo Đông cung điều bát đánh giặc.
Bộ binh của Đông cung từ thượng đạo đánh úp phá được ba bảo Hà Nha, Thị Dã và Chủ Sơn, bắt được hơn 2. 000 quân giặc. Điểm kiểm giặc là Trần Viết Kết lùi chạy. Nguyễn Văn Thành khinh suất tiến theo, gặp phục binh nên bị thua. Quân ta bèn giữ bảo Hà Nha.
Vua thấy thủy binh giặc giữ thế hiểm, chưa đánh phá vội được, mà lại gió to sóng lớn, thuyền ghe khó ở lâu được bèn sai Tôn Thất Hội và Võ Tánh đem hết binh thuyền về đậu ở cửa biển Xuân Đài, mật dụ Đông cung đem quân về bảo Tân Thị [Chợ Mới] để đợi ngự giá. Nguyễn Văn Thành quản các vệ đóng ở La Thai để phòng giặc.
DNTL, tập 1, quyển 7, trang 310.
Tháng 8, vua thấy Đông cung ở lâu chốn biên thành, sai đem tướng sĩ dinh Tả quân về Gia Định trước.
DNTL, tập 1, quyển 7, trang 311.
Tháng 9
Lấy Đặng Trần Thường làm Hữu tham tri Lại bộ. Thường là người Chương Đức xứ Sơn Nam Thượng (nay thuộc tỉnh Hà Nội), đỗ sinh đồ triều Lê, gặp loạn phải ẩn tích, hăng hái có chí lớn. Mùa đông năm ngoái cùng người đồng quận ở Thanh Oai là Nguyễn Bá Xuyến theo Nguyễn Đình Đắc vượt biển đến. Khi qua thành Diên Khánh, vái Đông cung Cảnh mà nói rằng : “Chưa gặp được vua nên không dám lạy” Đông cung hậu đãi. Khi đến Cần Giờ, Đình Đắc trước sai người đem tờ biểu của Thường thảo dâng lên. Ất mão, năm thứ 16 [1795] (Thanh - Càn Long năm thứ 60),
DNTL, tập 1, quyển 7, trang 313.
Tháng 2
Vua thân đem thủy quân cứu viện Diên Khánh, để Đông cung Cảnh ở lại trấn Gia Định.
DNTL, tập 1, quyển 7, trang 319.
Bính Thìn, năm thứ 17 [1796]
Tháng 12
Các đội Tiểu sai Tiểu hầu nhiều kẻ giả được sai xuống làng lừa dối kiếm lợi, Đông cung Cảnh dâng sớ hết sức trình bày tệ ấy, lời rất thiết đáng. Vua khen. Sai cứ theo việc mà giết đi ; ai nghe thấy cũng đều vui sướng. Sau đó có đội Tiểu hầu xuống dinh Phiên Trấn thu tiền chiếu của xã dân, Hậu quân Võ Tánh nghe biết, nói với Đông cung xin đem việc tâu lên. Đông cung nói rằng : “Việc đó có nội chỉ, không phải tự bọn nó làm”. Tánh nói : “Súy phủ là ngôi thái tử của nhà nước, bọn Tánh làm bầy tôi thân của nhà nước, việc gì bất tiện thì phải tâu ngay, nếu cứ dạ dạ vâng vâng thì không thể gọi rằng nhà có con biết can, nước có tôi biết can được. Nếu súy phủ không nói thì Tánh cùng Tiền quân Hội cũng phải nói, quyết không dám bưng miệng nín lặng để phụ nhà nước. Huống chi cái tệ riêng của kẻ sai dịch ngày trước súy phủ đã xin trừ, đã được chúa thượng khen nhận và xuống lệnh cấm hẳn. Nay bọn kia lại đem việc ấy mà cầu xin được chỉ, chẳng hóa ra để người ngoài đồn rằng bọn tiểu sai chống lại súy phủ à?”. Đông cung liền đem việc ấy tâu. Vua lại ra lệnh cấm.
Chuẩn định lệ thuế thuyền buôn người Thanh và người Hồng Mao mua ngà voi, sừng tê, đậu khấu, sa nhân. (Tàu vụ chiếu theo số cân và giá khai của người Minh Hương cứ giá mua 100 quan thì chiết thu 5 quan tiền thuế).
DNTL, tập 1, quyển 8, trang 345.
Đinh Tỵ, năm thứ 18 [1797] (Thanh - Gia Khánh năm thứ 2 Tháng 3
Lấy Tham tán Võ Bá Diên làm Khâm sai tham tán quân cơ Trung dinh, hiệp cùng Phó tướng Phạm Văn Nhân và Nguyễn Công Thái quản suất tướng sĩ dinh Tả quân, theo Đông cung điều bát.
Mùa hạ, tháng 4
Vua thân đem binh thuyền đi đánh Quy Nhơn. Đông cung Cảnh đi theo
DNTL, tập 1, quyển 8, trang 352.
Tháng 5
Sai Đông cung Cảnh đem tướng sĩ dinh Tả quân vào cửa biển Đại Chiêm đánh lấy Chiêm Dinh (tức là dinh Quảng Nam), triệu Võ Tánh ở Phú Yên đem quân đến họp.
Vua dụ rằng : “Giặc nay đem hết quân ra giữ Đà Nẵng, Chiêm Dinh không có phòng bị. Khanh nên kíp tiến cùng Đông cung chiếm đoạt đất ấy, rồi sau đem quân ra mặt sau Đà Nẵng, như thế thì quân giặc sau lưng trước bụng đều bị đánh, lấy dễ như trở bàn tay. Đông cung Cảnh tiến quân lấy chợ Đông An ở Hội An, thẳng tới Chiêm Dinh, chia đặt đồn sở để phòng giặc.
Đông cung Cảnh cho quân đi đánh giặc ở La Qua, giết được voi giặc, giặc vỡ chạy. Báo tin thắng trận, vua thưởng cho 1. 000 quan tiền. Mật dụ Phạm Văn Nhân quản chiến thuyền giữ cửa biển Đại Chiêm, Võ Bá Diên theo Đông cung đóng đồn ở Phú Chiêm, Nguyễn Công Thái đóng đồn ở Tam Thai, chờ có chỉ thì đánh úp sau lưng giặc. (La Qua, Phú Chiêm đều là tên đất, Tam Thai là tên núi).
DNTL, tập 1, quyển 8, trang 353-354.
Mậu Ngọ, năm thứ 19 [1798] (Thanh - Gia Khánh năm thứ 3).
Đông cung Cảnh xin làm sách Hiển trung chư thần liệt truyện để khích lệ lòng người. Vua lấy làm phải.
DNTL, tập 1, quyển 9, trang 366.
Mùa hạ, tháng 4
Sai Lễ bộ Ngô Tòng Chu hiệp cùng nguyên Lễ bộ kiêm Đốc học Nguyễn Thái Nguyên phụ đạo Đông cung. Tòng Chu là người Tân Bình dinh Phiên Trấn, người thanh liêm, học hạnh thuần chính, vua đặc biệt để ý, nên có mệnh này. Tòng Chu từ nói rằng : “Thần tài sơ đức mỏng, lạm dự văn ban còn sợ chưa được xứng chức, trách nhiệm phụ đạo, thần sợ làm không nổi”. Vua nói : “Đông cung là ngôi trừ nhị của nhà nước, kén người sư phó, không phải khanh thì không được, đừng nên chối nữa”. Tòng Chu vâng mệnh, hết lòng uốn nắn, nói thẳng không giấu giếm. Đông cung rất kính trọng.
Lính trốn ở các dinh quân, quan địa phương phần nhiều bắt vợ con đem giam ở quân xá. Đông cung Cảnh thấy thế, nói với vua rằng : “Trai gái có phân biệt, đó là chế độ xưa, người đàn bà bị giam kín một đêm, trọn đời khó lòng biện bạch. Nay vợ con lính trốn bắt giam lẫn lộn, sợ không được phân biệt, xin hạ lệnh cho hữu ty làm chốn giam riêng”. Vua khen lời nói phải.
DNTL, tập 1, quyển 9, trang 367.
Tháng 8
Tục Gia Định hay thờ Phật. Có nhà sư tên là Cao phạm tội, vua muốn giết ngay, có kẻ nói sư là người chân tu, vua nói : “Có chân tu nữa thì ích gì cho nước ?”. Sai các dinh thần xét hết những chùa trong hạt, từ hòa thượng cho đến đạo đồng phải ghi hết số người vào sổ để dâng, rồi sai Lại bộ truyền bảo rằng : Phàm tăng đồ tuổi từ 50 trở lên thì vẫn miễn dao dịch, chưa đến 50 thì phải chịu dao dịch như dân, kẻ nào dám trốn lánh thì bắt tội. Bầy tôi bàn ra nói vào nhiều, vua còn chưa quyết. Lễ bộ Ngô Tòng Chu nói với Đông cung Cảnh rằng : “Nhà vua bài trừ đạo Phật làm việc rất hay, bầy tôi không biết tán thành lại còn rườm lời. Tôi sợ việc này mà nửa chừng bỏ thì kẻ kia lại ngông cuồng hơn trước. Tôi không ghét riêng gì nhà sư. Nhưng mối hại của Phật Lão còn quá hơn Dương Mặc, không thể không nói được”. Đông cung nói : “Phải đấy”. Tòng Chu bèn dâng sớ, chỉ trích cái bậy của nhà sư. Vua bèn quyết ý. Bá Đa Lộc nghe Tòng Chu bài xích tả đạo, trong lòng cũng ghét.
DNTL, tập 1, quyển 9, trang 371.
Mùa đông, tháng 10
Cho Đông cung nguyên súy Cảnh quận Công thống quản tướng sĩ dinh Tả quân và vệ Ban trực tuyển phong tiền quận Thần sách đến trấn giữ Diên Khánh, cho Bá Đa Lộc đi theo, Phó tướng Tống Viết Phước và Nguyễn Công Thái đều lệ theo.
DNTL, tập 1, quyển 9, trang 372.
Tháng 12, ban áo rét cho Đông cung Cảnh và các tướng hiệu theo thú ở Diên Khánh là bọn Cai cơ thượng đạo Mai Tiến Vạn, Nguyễn Văn Quế và Nguyễn Văn Nguyện.
Hoàng tử và các quan văn võ sai người đem tờ khải2. Khải : Nói lên vua gọi là tâu, nói lên thái tử, hoặc lên vua chư hầu thì gọi là khải.
đến Diên Khánh tiến lễ mừng tiết Chạp cho Đông cung. (Trong tờ khải hoàng tử xưng là bọn em, quần thần xưng là văn võ thần).
DNTL, tập 1, quyển 9, trang 374.
Kỷ Mùi, năm thứ 20 [1799] (Thanh - Gia Khánh năm thứ 4) Mùa xuân, tháng giêng, hoàng tử và các quan văn võ sai người đưa tờ khải đến thành Diên Khánh làm lễ mừng tết Nguyên đán cho Đông cung.
Sai trạm đưa những trà quả thượng phương4. Thượng phương : Những phẩm vật vua dùng gọi là thượng phương.
đến Diên Khánh cho Đông cung và các tướng hiệu.
DNTL, tập 1, quyển 9, trang 374.
Triệu phó tướng Tả quân là Tống Viết Phước về. Tính Phước nóng nảy, ở Diên Khánh hễ tì tướng có lỗi là lấy roi đánh làm nhục, nhiều người oán giận, thường khi nhân giận dùng những lời nói hỗn với Bá Đa Lộc. Vua nghe tin xuống chỉ quở mắng, bắt nghỉ việc quân về ngay. Lại dụ Đông cung Cảnh rằng : “Phàm nhân hậu phải có cương quyết mới làm được việc. Ngươi làm nguyên soái trấn giữ Diên Khánh, công việc ngoài khổn đều tự quyết đoán, thế mà Viết Phước trước đã tự tiện làm oai, sau lại vô lễ với sư phó mà ngươi cũng một niềm nín nhịn, há chẳng là quá nhân hậu ư? Từ nay về sau, từ phó tướng trở xuống, kẻ nào không vâng mệnh đều chém để nghiêm tướng lệnh”.
DNTL, tập 1, quyển 9, trang 375.
Tháng 3, hoàng tử và các quan văn võ sai người đem tờ khải đến thành Diên Khánh, tiến lễ mừng khánh đản
(ngày mồng 1 tháng ấy) của Đông cung (20 cân sáp ong).
1. Khánh đản: Lễ sinh nhật.
DNTL, tập 1, quyển 9, trang 377.
Tháng 3
Sai Chưởng Tiền quân Nguyễn Văn Thành điều bát bộ binh các đạo đi trước ra Diên Khánh; sắc cho Đông cung Cảnh nghiêm sức cho các đồn ở ba đèo cẩn thận việc quan phòng, cấm việc đi lại, không được để lộ tăm hơi.
DNTL, tập 1, quyển 9, trang 382.
Mùa hạ, tháng 4,
Lấy Phó thống Trung đồn quân Thần sách là Nguyễn Đình Đắc làm Phó tướng Tả quân, hiệp cùng phó tướng Nguyễn Công Thái quản suất tướng sĩ dinh Tả quân, cho theo Đông cung Cảnh điều bát để hộ giá đi đánh giặc; lưu tướng quân thượng đạo Nguyễn Long ở trấn giữ Diên Khánh, Lưu thủ Bình Khang là Nguyễn Xuyền giữ kho tạm Cù Huân, trưng gọi hương binh hai phủ Bình Khang và Diên Khánh chia nhau phòng thủ.
DNTL, tập 1, quyển 9, trang 383.
Ngự giá đến Châu Dã, các tướng tề tập ở hành tại lạy mừng. Bèn sai Nguyễn Hoàng Đức đóng ở Thạch Tân [Bến Đá], Nguyễn Văn Thành đóng ở Hôn Cốc, [Hang tối], Nguyễn Văn Tánh đóng ở Sa Lung, Nguyễn Đức Xuyên đem quân và voi theo Đông cung Cảnh đi giữ Châu Dã. Rồi vua trở về, đóng ở thành Bình Định.
DNTL, tập 1, quyển 9, trang 388.
Tháng 9
Trấn Biên có lụt lớn, lúa ruộng ngập hết, nhà dân trôi mất hơn nghìn nóc, có người bị chết đuối. Dinh thần báo lên. Vua sai phát gạo kho để chẩn cấp.
Sai quản năm đồn quân Thần sách là Phạm Văn Nhân, quản dinh Trung thủy là Võ Di Nguy và Công bộ Trần Văn Thái thống lãnh các hạng thuyền ghe, theo Đông cung Cảnh về Gia Định trước: Đặt năm đồn quân Ngự lâm, mỗi đồn 5 chi, mỗi chi 5 hiệu, mỗi hiệu 2 đội, lấy quân mới kén ở bốn thuộc (An Nghĩa, Nhân Ân, Nghĩa Hòa và Sơn Điền) trong ba huyện để chia bổ vào, còn hai thuộc (Võng Nhi và Hà Bạc) với các xã ở miền dưới thì bổ làm thủy quân.
DNTL, tập 1, quyển 9, trang 393-394.
Bá Đa Lộc người nước Phú Lang Sa chết. Đa Lộc trước theo giúp việc quân, tham dự bàn bạc, đến khi đem Đông cung sang Tây, hết lòng gìn giữ trông nom. Vua bảo Đông cung đãi theo lễ sư phó. Đến bấy giờ chết, tặng thái tử Thái phó Bi Nhu quận công, thụy là Trung Ý, dùng hậu lễ để chôn cất
DNTL, tập 1, quyển 9, trang 397.
Canh Thân, năm thứ 21 [1800] (Thanh - Gia Khánh năm thứ 5)
Bọn hàng tướng ở thành Bình Định là Trưởng chi Trung chi Hậu đồn quân Ngự lâm Võ Văn Sự và Trưởng chi Hữu chi Nguyễn Bá Phong đem đồ đảng làm phản, giết quân ta, mở cửa thành phía bắc để đầu hàng giặc. Võ Tách sai vệ úy vệ Nhuệ Phong là Ngô Văn Sở chiếm giữ cửa, bọn quân phản đã ra trước ngoài thành hơn 400 người, còn dư thì không dám ra. Tánh liền xét bọn đồng mưu đem giết hết, phòng giữ nghiêm mật hơn. Lưu trấn thần Diên Khánh được tin thám tử báo, chạy biểu báo lên. Vua bèn cử đại binh đến viện, lưu Đông cung Cảnh trấn giữ Gia Định, lấy Chưởng cơ quản Trường đà kiêm Hộ bộ sự là Nguyễn Văn Nhân và Hình bộ Nguyễn Tử Châu giúp việc.
Tháng 5, quan phiên nước Chân Lạp là Cao La Hâm Sâm đem 5. 000 quân Phiên và hơn 10 thớt voi đến Gia Định, Đông cung Cảnh ủy cho Lưu thủ Phiên Trấn là Tống Phước Ngoạn đưa đến quân thứ.
DNTL, tập 1, quyển 10, trang 410-411.
Tháng 7
Hà Tiên đói, Mạc Tử Thiêm sai dân đong thóc ở Kiên Giang, viên quản thủ không cho. Tử Thiêm xin ở Gia Định. Đông cung Cảnh nói: “Buôn thóc ra ngoài biển thì có lệnh cấm. Nhưng dân ở Hà Tiên cũng là con đỏ của triều đình, sao nỡ thấy đói kém mà không cứu?”. Bèn hạ lệnh cho đạo Long Xuyên bán cho 10 xe thóc. Vua nghe tin, khen là phải
Gia Định được mùa, trong cõi yên ổn. Đông cung Cảnh dâng sớ tâu và nói: “Nhân nay mùa rỗi, xin bắt 10. 000 dân phu và số người đồn điền lấy ba phần mười, ủy cho Công bộ Trần Văn Thái đem đi Quang Hóa lấy gỗ ván chở về, đóng thêm 50 chiếc thuyền đi biển, để sẵn cho quân dùng”. Vua cho là phải.
DNTL, tập 1, quyển 10, trang 417
Mùa đông, tháng 10
Sai Phạm Văn Nhân lường phái binh Thần sách giữ bảo núi Mã Cảnh [Cổ Ngựa]. Răn không được tự tiện bỏ bảo sở mà đi quấy nhiễu nhân dân. Làm trái thì chém bêu đầu cho mọi người biết.
Đặt năm chi bình trấn thành Gia Định và binh hùng trấn ở bốn dinh, mỗi dinh một chi. Đông cung Cảnh thấy xa giá đi đánh giặc, binh các dinh Gia Định đều điều đi cả, xin lập thêm chi binh, chiêu mộ những quân trốn và những dân ngoại tịch bổ vào cho đủ canh giữ. Vua y cho. Rồi đó, dinh Vĩnh Trấn lấy cả những người dân chưa đến 18 tuổi, dân phần nhiều không chịu nổi. Đông cung nghe tin quở trách, ra lệnh phải theo ý nguyện của dân, không được làm sợ hãi.
DNTL, tập 1, quyển 10, trang 420.
Tháng 11
Ty Chiêm hậu dâng sớ nói : “Tháng giêng đầu năm có lệ chọn ngày tốt để ra quân. Xét từ ngày 15 về trước chỉ có ngày Kỷ mùi mồng 6 là tốt hơn cả, nhưng lại hiềm có lục hại nên chưa dám quyết”.
Vua sai truyền dụ cho Lưu trấn thần Gia Định rằng: “Việc xuất quân là rất quan trọng, bằng chưa xuất quân thì ngày khánh tiết Vạn thọ không dám nổ súng, như thế sao cho thành lễ. Vả ngày lục hại(1) Lục hại: Hiệp kỷ biện phương có nói: Lục hại là bất hòa như Dần dữ Tỵ hại. Mão dữ Thìn hại và Tý dữ Mùi hại.
là tý hại mùi. Nay Đông cung làm chủ tướng, tướng mệnh ở tý thì có ngại gì. Cứ dùng ngày ấy ra quân, đừng câu nệ quá. Còn như các việc tiến lịch và ban lịch thì cứ chiếu lệ mà làm”.
DNTL, tập 1, quyển 10, trang 423-424.
Tân Dậu, năm thứ 22 [1801] (Thanh - Gia Khánh năm thứ 6)
Tháng 2
Ngày Quý sửu, Đông cùng nguyên súy quận công Cảnh mất. Trước kia Đông cung từ Tây Dương về, từng theo đánh giặc, đến nay Lưu trấn Gia Định, bị bệnh đậu mùa mất, 22 tuổi.
Vua nghe tin rất thương xót. Sai Nguyễn Văn Nhân và Nguyễn Tử Châu, hiệp cùng Lễ bộ lo việc tang. Sắc cho Gia Định đình mọi việc cúng lễ lớn nhỏ cho đến ngày an táng mới thôi, Bình Khang, Bình Thuận thì đình 13 ngày. Việc giá thú thì Gia Định đình 60 ngày, Bình Khang, Bình Thuận đình 30 ngày. (Năm Gia Long thứ 4, truy đặt thụy là Anh duệ hoàng thái tử, lập vườn tạm ở xã Vỹ Dã).
DNTL, tập 1, quyển 10, trang 433.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LSDOCS (75).DOC