A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thơ Đường “ Không chỉ có vị trí đặc biệt trong thơ ca Trung Quốc mà còn có vị trí độc đáo trong lịch sử thơ ca thế giới. Các dân tộc Phương Đông có mối quan hệ mật thiết với nền văn học Trung Quốc, trong quá trình xây dựng nền thơ ca của mình đều có ít nhiều tiếp thu ảnh hưởng của thơ Đường.” Mặc dù hàng ngàn năm đã trôi qua nhưng thơ Đường vẫn giữ được vẻ tươi nguyên, xinh đẹp và quyến rũ của nó. Về mọi mặt: thi pháp, ngôn ngữ, vần điệu, hình ảnh thơ Đường vẫn là một đỉnh cao chói lọi mà thơ ca các dân tộc trên thế giới và thơ ca đời sau khó có thể vượt qua được.
Việt Nam được coi là “Đất nước của thơ đường”( Trung tâm nghiên cứu Quốc học). Qua thời gian, cùng với sự giao lưu về văn hoá thì thơ Đường vẫn luôn giữ được vị trí hàng đầu trong tâm thức của người Việt. Thơ Đường vào Việt Nam sớm nhất là bài Mẫn Nông của Lý Thân. “Bài thơ này đi vào các nước Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam và biến thành ca dao ở những nước này”(Lê Đức Niệm_Diện mạo thơ Đường) và ở Việt Nam nó đã trở thành một bài ca dao lao động phổ biến đến mức người ta quên mất thực chất đó là một bài thơ Đường:
Sứ hoà nhật đương ngọ
Hãn trích hoà hạ thổ
Thuỳ tri bàn trung san
Lạp lạp giai tân khổ.
(Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.)
Đặc biệt, đến với thơ Đường, người đọc được thả hồn mình theo “một tiếng chuông chùa Hàn San”, một khúc Tỳ Bà Hành, đắm mình trong cái mênh mông không gian và thời gian trong Thu hứng và rồi ngưng đọng lại trong cái dư vang muôn thuở của Hoàng Hạc lâu . Học giả Kiều Văn đã nhận xét rằng :” Nhiều câu thơ Đường đã trở thành câu nói cửa miệng trong nhân gian như: Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản”. Hạc Vàng đã bay về một khung trời xa xôi nào đó nhưng Hoàng Hạc Lâu thì mãi mãi để lại những dấu ấn khôn nguôi trong lòng người đọc.
Hoàng Hạc Lâu là tác phẩm được Thôi Hiệu viết trong phút xuất thần khi đến thăm lầu Hoàng Hạc. Về sau Lý Bạch đến Lầu Hoàng Hạc thấy cảnh đẹp muốn đề thơ nhưng thấy thơ Thôi Hiệu ở trên đầu đã nói hết ý của mình nên buông bút không đề thơ nữa:
Nhân tiền hữu cảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu
(Trước mặt có cảnh không nói được
Vì thơ Thôi Hiệu ở trên đầu.)
Lời nói của Lý Bạch không phải là quá đáng. Vương Bột có đề thơ ở Đằng Vương Các, Vương Xương Linh đề thơ ở Vạn tuế lầu, Đỗ Phủ đề thơ ở đền thờ Thục tướng và ngay bản thân Lý Bạch cũng đề thơ ở Phượng Hoàng lâu. Nhưng quả thực, không bài nào vừa mạnh mẽ, linh động, vừa uyển chuyển, nhẹ nhàng tựa những áng mây như bài thơ của Thôi Hiệu. Nghiêm Vũ đời Tống trong Phương lang thi thoại đã bình rằng :“Thơ luật thất ngôn của người đời Đường thì Hoàng Hạc Lâu của Thôi hiệu phải là số một” hay như Kim Thánh Thán, nhà phê bình văn học trứ danh cuối đời Minh đã viết: “Bài Hoàng Hạc Lâu với bút pháp tuyệt kì quả thật là một tác phẩm đệ nhất cổ kim trong thơ đường luật.” Chính bởi lẽ đó, tác phẩm này đã sớm được tiếp nhận ở Việt Nam trên mọi phương diện ,dịch thuật cũng như nghiên cứu nội dung, tư tưởng của nó.
Tuy nhiên, theo tìm hiểu của chúng tôi thì cho đến nay, mặc dù Hoàng Hạc Lâu được xuất hiện trong hầu hết tuyển tập về thơ Đường và có không ít bài viết về Hoàng Hạc Lâu của Thôi hiệu nhưng phần lớn vẫn chỉ là những bài mang tính chất nhỏ lẻ, ngắn gọn, không thành hệ thống trên sách báo. Những bài viết này hoặc cung cấp những bản dịch, hoặc đề cập, diễn giải đôi chút về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. Nếu đem so với việc tiếp nhận tác phẩm này với một số tác phẩm của “Tam đại thi hào” Đỗ Phủ, Lý Bạch, Bạch Cư Dị thì quả là thiệt thòi cho tác phẩm “đệ nhất luật Đường” này. Bởi lẽ đó, khi đến với trăm hoa đua nở của thơ Đường, chúng tôi chọn Hoàng Hạc Lâu và chọn cho mình đề tài nghiên cứu là Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam.
2. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
Khi thực hiện đề tài này chúng tôi đi vào tìm hiểu quá trình dịch thuật, nghiên cứu Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam, tổng hợp một cách có hệ thống những nghiên cứu về tác phẩm này, khảo sát mối liên hệ giữa tác phẩm và người tiếp nhận, giữa tác phẩm với tác phẩm, và người tiếp nhận với người tiếp nhận; từ đó đóng góp một chút ít vào việc tìm hiểu quá trình tiếp nhận kiệt tác của Thôi Hiệu nói riêng và Đường thi nói chung ở Việt Nam.
3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU, PHẠM VI TƯ LIỆU
Đối tượng chủ yếu của đề tài này là tìm hiểu quá trình tiếp nhận và diễn dịch Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam. Theo đó, phạm vi nghiên cứu của chúng tôi là những vấn đề xung quanh tác phẩm này.
Về phạm vi tư liệu, chúng tôi chủ yếu dựa vào các tư liệu thành văn bằng chữ Quốc Ngữ ( sách, báo, tạp chí ) từ đầu thế kỉ xx đến nay.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Ở đề tài này, chúng tôi chủ yếu tiếp cận tác phẩm từ góc độ mỹ học tiếp nhận với các thao tác cụ thể như thống kê, thu thập tài liệu, mô tả qúa trình tiếp nhận tác phẩm và lí giải, phân tích các vấn đề đặt ra khi tiếp nhận tác phẩm, so sánh, đối chiếu để làm rõ đặc điểm tiếp nhận, cũng như vị trí của đối tượng với chủ thể tiếp nhận.
5. BỐ CỤC NIÊN LUẬN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo thì phần nội dung của niên luận chúng tôi gồm có 3 đề mục lớn với 10 đề mục nhỏ tương ứng.
Ở đề mục I, chúng tôi đi vào tìm hiểu quá trình dịch thuật Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam. Với nội dung như vậy, chúng tôi lần lượt khai thác các vấn đề như về người đầu tiên dịch tác phẩm này, đặc biệt chúng tôi đi sâu vào bản dịch của Tản Đà và những tranh luận xung quanh bản dịch của nhà thơ này.
Sau khi làm rõ vấn đề dịch thuật Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam thì ở mục lớn II, chúng tôi nói về vấn đề nghiên cứu Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam.( cả về nội dung và hình thức.).Theo đó, trước tiên chúng tôi đưa ra một hướng tiếp nhận chung của hầu hết các nhà nghiên cứu về kiệt tác này , sau đó, thống kê, mô tả và phân tích việc nghiên cứu tác phẩm này trong các nguồn tư liệu như sách, báo, tạp chí cuối cùng, chúng tôi đưa ra những đánh giá chung của mình về vấn đề nghiên cứu Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam.
Một tác phẩm để lại được dư vang của mình không phải chỉ dựa vào việc người ta nghiên cứu, đánh giá về nó như thế nào mà còn thể hiện ở ảnh hưởng của nó, ở việc người ta đồng cảm với nhà thơ, lấy thi hứng từ tác phẩm nắm được điều đó nên ở mục lớn III, chúng tôi đặc biệt đặt tiêu đề Từ tác phẩm đến tác phẩm. Mục này thể hiện rất rõ mối liên hệ giữa đối tượng với người tiếp nhận. Chúng tôi chia thành 3 đề mục nhỏ cơ bản là :
1. Nguyễn Du tỏ lòng tri âm với Thôi Hiệu qua hai bài thơ Hoàng Hạc Lâu và Hán Dương vãn diêu
2. Thơ viết khi qua lầu Hoàng Hạc ( Lấy từ Thơ đi sứ)
3. Lời nhắn gửi của Vũ Hoàng Chương
Đặc biệt, ở cuối mục I và III chúng tôi có những tiểu kết để nói lên những ý kiến riêng của mình về mỗi vấn đề tương ứng.
6. QUY CÁCH TRÌNH BÀY NIÊN LUẬN
Đối với tên các tác phẩm của Trung Quốc và Việt Nam ở các công trình nghiên cứu hay tên tác phẩm riêng, để tôn trong nguyên tác và tiện tra cứu, chúng tôi để ở phiên âm Hán Việt, đồng thời in nghiêng (chỉ riêng Hoàng Hạc Lâu là in nghiêng đậm).
Đối với tên các công trình nghiên cứu, niên luận, khoá luận hay luận văn chúng tôi sẽ in nghiêng. Các thông tin về công trình và các bài báo như, xuất xứ, tên tạp chí, nhà xuất bản chúng tôi sẽ ghi cụ thể ngay bên cạnh và viết hoa toàn bộ. Phần phụ lục bao gồm các bản dịch được trình bày sau phần kết luận. Và tài liệu tham khảo được sắp xếp theo thứ tự a, b, c ở cuối niên luận.
Một số kí hiệu được viềt tắt trong niên luận :
Sđd Sách đã dẫn
NXB Nhà xuất bản
Tr. hoặc Tr Trang
H Hà Nội
C. PHẦN KẾT LUẬN
Bao nhiêu thế kỉ đã trôi qua, cuôc đời đổi thay, sự vật biến rời nhưng có một sự thật không thể thây đổi là sức sống của Đường Thi trong nền văn học Việt Nam và vẻ đẹp lung linh của Hoàng Hạc Lâu trong tâm hồn mỗi người yêu thơ Đường.
Những phá cách niêm luật, những đổi thay về nhịp điệu, lập ý, một chữ “sầu” dai dẳng ở cuối bài thơ hay cả những vấn đề nhỏ xung quanh nó, tất cả chỉ làm tôn lên vẻ quyến rũ của Hoàng Hạc Lâu và khẳng định bút pháp tài hoa của “thi sĩ một bài thơ” Thôi Hiệu.
Việt Nam là đất nước của thơ Đường. Yêu mến thơ Đường bao nhiêu thì có lẽ cũng yêu mến Hoàng Hạc Lâu bấy nhiêu, Bởi lẽ đó mới có nhiều bản dịch, có những lời phê bình tâm huyết, và có những nhà thơ bày tỏ lòng tri âm cùng nhà thơ của ngàn năm trước ây.
Hoàng Hạc Lâu chưa nêu lên được một nhân sinh quan tích cực kiểu như: “ Nhân sinh tự cố thuý vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.” Như Văn Thiên Tường song cũng không rơi vào quan điểm hư vô hành lạc kiểu “Bỉnh chúc dạ du”. Những khát vong về một cuộc sống yên ổn, hạnh phúc của thể hiện trong bài thơ bao giờ cũng được người đời sau trân trọng.
Mãi mãi, Hoàng Hạc Lâu sẽ còn đẹp trong lòng người bởi Lầu Hoàng Hạc và Thôi Hiệu còn sống mãi cùng thời gian, trong lòng người đầt Việt
Luận văn chia làm 3 chương
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2534 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Với nội dung như vậy, chúng tôi lần lượt khai thác các vấn đề như về người đầu tiên dịch tác phẩm này, đặc biệt chúng tôi đi sâu vào bản dịch của Tản Đà và những tranh luận xung quanh bản dịch của nhà thơ này.
Sau khi làm rõ vấn đề dịch thuật Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam thì ở mục lớn II, chúng tôi nói về vấn đề nghiên cứu Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam.( cả về nội dung và hình thức.).Theo đó, trước tiên chúng tôi đưa ra một hướng tiếp nhận chung của hầu hết các nhà nghiên cứu về kiệt tác này , sau đó, thống kê, mô tả và phân tích việc nghiên cứu tác phẩm này trong các nguồn tư liệu như sách, báo, tạp chí…cuối cùng, chúng tôi đưa ra những đánh giá chung của mình về vấn đề nghiên cứu Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam.
Một tác phẩm để lại được dư vang của mình không phải chỉ dựa vào việc người ta nghiên cứu, đánh giá về nó như thế nào mà còn thể hiện ở ảnh hưởng của nó, ở việc người ta đồng cảm với nhà thơ, lấy thi hứng từ tác phẩm…nắm được điều đó nên ở mục lớn III, chúng tôi đặc biệt đặt tiêu đề Từ tác phẩm đến tác phẩm. Mục này thể hiện rất rõ mối liên hệ giữa đối tượng với người tiếp nhận. Chúng tôi chia thành 3 đề mục nhỏ cơ bản là :
Nguyễn Du tỏ lòng tri âm với Thôi Hiệu qua hai bài thơ Hoàng Hạc Lâu và Hán Dương vãn diêu
Thơ viết khi qua lầu Hoàng Hạc ( Lấy từ Thơ đi sứ)
Lời nhắn gửi của Vũ Hoàng Chương
Đặc biệt, ở cuối mục I và III chúng tôi có những tiểu kết để nói lên những ý kiến riêng của mình về mỗi vấn đề tương ứng.
6. QUY CÁCH TRÌNH BÀY NIÊN LUẬN
Đối với tên các tác phẩm của Trung Quốc và Việt Nam ở các công trình nghiên cứu hay tên tác phẩm riêng, để tôn trong nguyên tác và tiện tra cứu, chúng tôi để ở phiên âm Hán Việt, đồng thời in nghiêng (chỉ riêng Hoàng Hạc Lâu là in nghiêng đậm).
Đối với tên các công trình nghiên cứu, niên luận, khoá luận hay luận văn…chúng tôi sẽ in nghiêng. Các thông tin về công trình và các bài báo như, xuất xứ, tên tạp chí, nhà xuất bản…chúng tôi sẽ ghi cụ thể ngay bên cạnh và viết hoa toàn bộ. Phần phụ lục bao gồm các bản dịch được trình bày sau phần kết luận. Và tài liệu tham khảo được sắp xếp theo thứ tự a, b, c…ở cuối niên luận.
Một số kí hiệu được viềt tắt trong niên luận :
Sđd
Sách đã dẫn
NXB
Nhà xuất bản
Tr. hoặc Tr
Trang
H
Hà Nội
B. PHẦN NỘI DUNG
I. VẤN ĐỀ DỊCH THUẬT HOÀNG HẠC LÂU Ở VIỆT NAM
Dịch thuật là một công việc rất khó, không chỉ đòi hỏi người dịch phải hiểu được nguyên lý dịch thuật, nắm rõ văn bản tác phẩm mà còn phải thấm được vào hồn mình cái hồn của nó, có nghĩa là phải yêu nó. Nếu không làm được những điều ấy thì bản dịch nếu không vụng về về hình thức, câu từ thì cũng làm nhạt đi cái hay, cái sâu sắc của nội dung tác phẩm. Thơ Đường là một trong những thành tựu chối loà của văn học Trung Quốc và nhân loại. Mỗi bài thơ Đường là một thế giới nghệ thuật độc đáo, gợi ít mà ý nhiều, cô đọng, hàm súc về nội dung, có tính chặt chẽ về niêm luật, thể loại, tính ước lê, cổ kính trang nghiêm…tạo thành một thể riêng biệt. Chính bởi cái hay, cái độc đáo, tinh tế ấy của thơ Đường đã đặt ra cho các dịch giả một thách thức lớn : làm sao để có một bản dịch hay về một bài thơ Đường? Trên thực tế, mỗi dịch giả có một phong cách sáng tạo và cách dịch thâm thuý khác nhau dưới các khía cạnh thưởng ngoạn đa dạng với những nhận thức tinh tế, những cảm xúc nghệ thuật, những rung động thẩm mĩ đa chiều khi đọc thơ Đường, vì vậy, có rất nhiều bài thơ Đường mà số lượng bản dịch của nó lên đến hàng chục bài như Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị, Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế và cả Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu. Theo tài liệu mà chúng tôi thu thập được thì cho đến thời điểm hiện nay, ở Việt Nam số lượng bản dịch Hoàng Hạc Lâu không dưới 40 bài (kể cả bản dịch của nhà thơ lẫn người đọc). Điều này cho thấy tác phẩm rất được quan tâm và thực sự có sức lôi cuốn với người đọc nhiều thế hệ. Những bản dịch đó xuất hiện trong các tuyển dịch Đường thi hoặc rải rác trong các báo, tạp chí, trên các trang web. Có thể nói, Hoàng Hạc Lâu không bị phai nhạt theo thời gian mà ngày càng khẳng định được vị trí của mình trong thế giới muôn hoa đua sắc của thơ Đường. Trong khuôn khổ niên luận này, chúng tôi không thể đề cập hết tất cả các bản dịch mà chỉ đi vào hai bài, một là bản dịch đầu tiên của Tùng Vân và một là bản dịch của Tản Đà_bản dịch được đánh giá là thành công nhất.
1. Bản dịch Hoàng Hạc Lâu đầu tiên của Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục
Tùng Vân Nguyễn Đông Phục (1878_1954) được đánh giá là một dịch giả không chỉ dịch nhiều thơ văn cổ Trung Quốc trên Nam Phong tạp chí mà còn luôn thể hiện rõ ý thức dịch thuật của mình để bảo tồn và giới thiệu đến những độc giả chưa hiểu rõ về Hán văn những bài thơ hay, đặc sắc của đất nước này. Ông luôn luôn chú ý đến đối tượng người đọc có “tính cách phổ thông”(Nguyễn Văn Hiệu) và vì thế, sau mỗi bản dịch của mình, ông đều có thêm phần “lời giải kiêm lời bình” để giảng giải về nghệ thuật cũng như ý tứ của bài thơ. Đặc biệt, Tùng Vân rất quan tâm đến việc dịch tác phẩm theo đúng nguyên thể của nó. Trong bài “Ý thức văn hoá trong dịch thuật văn chương ở Việt Nam từ cuối thế kỉ XIX đến năm 1945” TS Nguyễn văn Hiệu đã nhắc đến chủ đích của Tùng Vân trong vấn đề dịch thuật là “ Cổ thi có lắm thể…Nay thể nào dịch ra thể ấy, như thất ngôn, ngũ ngôn, lại dịch ra thất ngôn, ngũ ngôn, chứ không dịch ra lục bát; là ý bảo tồn lấy thể cách, không những chải chuốt lấy âm vận mà thôi”. Thực tế, theo chúng tôi tìm hiểu thì Tùng Vân có dịch thơ văn cổ Trung Quốc ra lục bát như bài Quy khứ lai từ của Đào Tiềm. Điều đó cho thấy cái tài của ông và thể hiện ông không quá cứng nhắc với các thể loại thơ dịch. Chỉ có điều, ông luôn coi trọng con đường giữ gìn nguyên thể hơn như một ý thức “bảo tồn, giới thiệu vốn văn chương cổ Á Đông”.( Nguyễn văn Hiệu). Dịch hàng trăm bài thơ Đường, xuất hiện trên hầu khắp các tuyển dịch thơ Đường ở Việt Nam, có rất nhiều bản dịch của Tùng Vân không chỉ lột tả được cái thần của nguyên tác mà còn có cách diễn đạt rất gần gũi với lời ăn, tiếng nói, cách cảm, cách nghĩ của người Việt.
Theo hệ thống tư liệu mà chúng tôi thu thập được thì chính Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục là dịch giả đầu tiên của Việt Nam dịch Hoàng Hạc Lâu ra tiếng Việt. Ông đã dịch thi phẩm tuyệt bút của Thôi Hiệu theo đúng mục đích dịch thuật của mình là giữ đúng nguyên thể tức là dịch theo thể Đường luật.
Người tiên xưa cưỡi hạc vàng cút
Ở đây chỉ những lầu hạc trơ.
Hạc vàng đã cút chẳng về nữa,
Mây trắng nghìn năm còn phất phơ.
Sông bọc Hán Dương cây xát xát,
Cỏ liền Anh Vũ bãi xa xa.
Ngày chiều làng cũ đâu chăng tá,
Mây nước trên sông khách thẫn thờ!
Khi dịch thuật, Tùng Vân đã cố gắng để truyền tải cái thần của bài thơ, một thi phẩm mà thi tiên Lý Bạch cũng đành gác bút mà đi. Nhưng có lẽ, do quá coi trọng nguyên thể và niêm luật nên ông đã dịch bài thơ này có phần gượng ép. “Khứ” trong nguyên bản được ông dịch là “cút” thì thực là “vụng”(chữ của Nguyễn Văn Hiệu). Về nghĩa, “khứ” là bỏ đi, là nghĩa chủ động, còn “cút” lại như bị xua đuổi. Dịch như vậy có lẽ đã làm cho bài thơ giảm đi cái ý vị của nó. Nói về điều này, trong “Một bản dịch của Vũ Hoàng Chương”, Nguyễn Huệ Chi cho rằng Tùng Vân đã “hạ một chữ ngang ngược ngay cuối câu đầu” .Và trong Vấn đề dịch thơ Đường ở Việt Nam Nguyễn Tuyết Hạnh cũng cho rằng “Điều mà ai cũng biết là dịch được theo nguyên thể, theo cả luật bằng - trắc nữa thì làm cho bản dịch trung thực hơn, nhiều nhạc tính hơn. Nhưng có những bản dịch mà dịch giả cố gắng đi đúng theo nguyên tác cho đến cả âm điệu bằng - trắc nhưng chỉ làm cho bản dịch non kém về nghệ thuật chuyển dịch và không gây được cảm xúc”, đề cập đến vấn đề này chính là bà đang muốn nói đến bản dịch của Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục. Quả thực, nói về bản dịch Hoàng Hạc Lâu của Tùng Vân, chưa có một lời khen nào thực sự, có chăng chỉ là sự bênh vực cho người đầu tiên chuyển bài thơ này sang chữ quốc ngữ, một người coi trong nguyên thể và có ý thức văn hoá trong dịch thuật văn chương. Như trong bài viết của mình, Nguyễn Văn Hiệu đã nói rằng: “ …việc đánh giá đóng góp dịch thuật phải được nhìn nhận từ ý thức văn hoá của người dịch chứ không thể cứng nhắc lấy những tiêu chuẩn chung của dịch thuật để phán xét”. Đó là người viết đã nhìn nhận theo góc nhìn văn hoá nên đã lên tiếng bênh vực cho Tùng Vân ở điều đó còn thực tế, bản dịch hay hay không là do sự đón nhận của độc giả và thái độ của độc giả với những bản dịch ấy.
2. Bản dịch của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu và những ý kiến xung quanh bản dịch này
2.1. Bản dịch của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu
Trong mấy chục bản dịch về Hoàng Hạc Lâu từ trước đến nay có không ít bản dịch của những nhà văn, nhà thơ nhiều tên tuổi như Ngô Tất Tố, Khương Hữu Dụng, Vũ Hoàng Chương…Nhưng bản dịch được biết đến nhiều nhất và được yêu thích nhất là bản dịch của thi sĩ Tản Đà.
Trong Tản Đà dịch thơ Đường người viết đã ghi ra kinh nghiệm dịch thơ Đường của ông: “ Trong việc dịch thơ Đường, đến chỗ nào khó mà thường là chỗ hay của nguyên văn thì thường là dùng sức hơn, khi đó phải dùng sức tưởng tượng…” Quả thật, Tản Đà là dịch giả thơ Đường xuất sắc nhất ở nước ta trong những năm đầu thế kỉ. Là một nhà thơ lãng mạn, khi dịch thuật “ông thiên về những bài thơ về tình yêu mang đậm chất trữ tình, nội dung nhẹ nhàng, sâu sắc, nghệ thuật bóng bẩy, giàu hình ảnh tượng trưng, nhiều gợi cảm”( Hồ Sĩ Hiệp). Có rất nhiều bài thơ Đường như thế được Tản Đà dành tâm huyết và lột tả thành công cái thần của tác phẩm. Trường hận ca là một ví dụ. Đây là một trong hai bài thơ được biết đến nhiều nhất của Bạch Cư Dị và có lẽ ở Việt Nam, nhờ bản dịch của Tản Đà mà nó có sức sống trường tồn hơn. Khi dịch thơ, Tản Đà “ không câu nệ quá nhiều vào việc chữ nghĩa, điển tích, điển cố mà chủ yếu dùng cái “tâm”, cái “hồn” và cái “cảm” của bản thân để lột tả hết cái hay thâm thuý, sâu sắc của thơ Đường”( Hồ Sĩ Hiệp ). Tản Đà đặc biệt coi trọng vấn đề “ Việt hoá” trong câu thơ, bài thơ dịch. Giáo Sư Trần Thanh Đạm đã nhận xét rằng: “ Trong việc khơi nguồn để đưa hồn thơ Đường tái sinh vào thơ Việt, thi sĩ Tản Đà là một trong những người có công phu và công lao vào loại bậc nhất”. Hay như loài nhận xét của nhà thơ Nguyễn Quang Huy trong Thơ đường tứ tuyệt: “ Những câu thơ dịch vừa sát nghĩa, vừa lung linh Việt hoá đến cao độ. Dịch thơ đạt đến độ thần diệu ấy, ở nước ta chỉ có Tản Đà”. Trong tất cả các bản dịch thơ Đường của ông thì có lẽ, Hoàng Hạc Lâu là một cái đỉnh mà khó có dịch giả nào vượt qua được.
Bản dịch Hoàng Hạc Lâu của Tản Đà được đăng trên báo Ngày Nay , số 80, ngày 10.10.1937, là sự trở lại sự nghiệp dịch thơ Đường của ông sau một thời gian vắng bóng. Nguyên văn bản dịch là:
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Hạc vàng đi mất từ xưa,
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.
Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu được sáng tác theo thể thất ngôn bát cú và được coi là “đệ nhất luật đường”(Nghiêm Vũ). Khác với nhiều dịch giả khác cố gắng dịch tác phẩm kiệt tác này theo đúng niêm luật của nó, thi sĩ Tản Đà chọn thể thơ sở trường của mình để dịch bài thơ. Tám câu thơ lục bát Lầu Hoàng Hạc sừng sững như thế trong làng thơ dịch gần một thế kỉ nay và được nhiều người công nhận là có thần thái không thua kém gì nguyên tác của Thôi hiệu. Ngô Văn Phú đã từng nhận xét: “Tản Đà chắc “mê” bài thơ này lắm! bởi nó cũng hợp với tính tình ông. Ông cũng lãm cảnh trên trời, lãm tu tiên, rút cục vẫn là người trần thế. Ông đã dịch và bài dịch cho đến nay vẫn là hay nhất.” Bản dịch đã Việt hoá nhưng không vì thế mà làm giảm đi cái thần của tác phẩm. “Chọn thể lục bát, chính là Tản Đà đã thay những điệp từ rất đối trong nguyên bản, bằng sự miên man của cấu trúc lục bát tự nó tạo ra một nỗi buồn man mác…”(Ngô Văn Phú). Trong bài dịch của mình, Tản Đà đã thể hiện một trình độ vượt trội khi dịch những từ Hán văn sang Quốc văn một cách tài tình, tinh tế. Hai câu thơ đầu trong bài thơ của Thôi Hiệu:
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư hoàng hạc lâu
Trong hai câu này, từ “hoàng hạc” xuất hiện đến hai lần. Khó dịch nhất là từ “khứ” ở câu 1 và “dư” ở câu 2. Theo Xuân Diệu thì cả Trần Trọng Kim và Ngô Tất Tố đều chưa dịch đạt câu này:
Người đi cưỡi hạc từ xưa,
Đất này hoàng hạc còn lưa một lầu.
(Trần Trọng Kim)
Người xưa cưỡi hạc đã bay cao
Lầu hạc còn suông với chốn này.
(Ngô Tất Tố)
“Chữ “lưa” mà Trần Trọng Kim dịch là vụng về, cón chữ “suông” mà Ngô Tất Tố dịch cũng không hay, chỉ có chữ “trơ” của Tản Đà là đúng và thật tuyệt vời”.( Hồ Sĩ Hiệp ). Chữ của Tản Đà gợi một cảm giác trơ trọi, cô đơn đến nao lòng người.
Theo các nhà nghiên cứu thì dịch thơ Đường phải đảm bảo 3 yêu cầu, “tín”, “nhã” và “đạt”. Thế nhưng “Ngoài tiêu chuẩn “tín”, “nhã”, và “đạt” thì bản dịch Hoàng Hạc Lâu của Tản Đà có mấy điểm nổi bật sau: đó là vần điệu, nhịp điệu của câu thơ lục bát và giá trị biểu cảm của ngôn ngữ Việt”. Đọc bản dịch của Tản Đà nhiều khi người đọc quen mất thực chất đó là một bài thơ Đường. Tản Đà đã thổi vào bản dịch của mình một luồng gió “Việt hoá” làm cho bài thơ trở nên gần gũi, dễ tiếp cận với mọi thế hệ người đọc.
“ Vì bài thơ Hoàng Hạc Lâu là một tuyệt tác nên đã có nhiều người dịch ra quốc văn như Tản Đà, Trần Trọng Kim, Ngô Tất Tố, Bùi Khánh Đản và Vô danh trong Đại cương văn học sử của Nguyễn Hiếu Lê…Những bài dịch đó hầu hết đều sát nghĩa nguyên tác, nhưng theo chủ quan của tôi thì bài của Tản Đà riêng san sẻ được cái thần của nguyên tác.” ( Quách Tấn ) Thật khó để có được một bản dịch hoàn hảo cả về nghĩa, nhịp điệu, niêm luật… Mặc dù không thiếu những đánh giá tiêu cực về bản dịch này nhưng có lẽ không ai không thừa nhận đây thực sự là bản dịch hay nhất về Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu.
2.2. Những ý kiến xung quanh bản dịch của Tản Đà
Vấn đề này thực tế chỉ là những đánh giá của một số người được viết nhỏ lẻ, dải dác trong một số cuốn sách hay báo, tạp chí. Ở đây, chúng tôi cố gắng hệ thống lại để người đọc có thể thấy được những ý kiến xung quanh bản dịch tuyệt tác này.
Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu là một bài thơ thất ngôn nhưng Tản Đà lại dịch theo thể lục bát, một thể thơ truyền thống của dân tộc. Chính bởi lẽ đó đã có nhiều ý kiến nảy sinh về việc chọn thể loại dịch của nhà thơ. Như Bàng Bá Lân, mặc dù ông rất yêu thích bản dịch của Tản Đà mà ông cho là “ Bản dịch sát nghĩa và giữ trọn được thi vị của nguyên tác, nhất là hai câu cuối:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
So với câu dịch của Ngô Tất Tố :
Trời tối quê hương đâu tá nhỉ?
Đầy sông khói sóng gợi niềm tây.
Thì quả là một trăng một đèn”. Nhưng ông vẫn không “thoả mãn” (chữ của Nguyễn Tuyết Hạnh) do Tản Đà đã chọn thể thơ lục bát. Ông cho rằng : “ Dịch Đường Thi bằng thể lục bát chẳng khác nào đem bức tranh trang trọng cổ kính của chiếc khung chạm sơn son thếp vàng mà lồng vào chiếc khung trúc. Thanh nhã có thừa, nhưng vẻ trang trọng, cổ kính không còn nữa.” Như vậy nghĩa là, Bàng Bá Lân coi trọng việc dịch thơ theo nguyên thể của nó, và không hài lòng với việc chọn thể loại dịch của Tản Đà.. Hay Nguyễn Hiếu Lê lại tiếc cho bản dịch của Tản Đà đã dịch bằng thể lục bát nên làm mất đi tính đối ngẫu của bài thơ, nhất là trong hai liên 2 và 3. Ông còn cho rằng, bản dịch của Vô Danh hay hơn nhờ giữ được nguyên thể. Chúng tôi thử đưa bản dịch của Vô Danh ra đây cho bạn đọc có thể so sánh:
Người xưa cưỡi hạc vàng đi mất
Lầu hạc vàng trơ đứng chỗ nầy
Hạc vàng một đi chẳng trở lại
Mây trắng nghìn năm vơ vẩn bay
San sát bóng sông cây Hán đó
Dầu dầu ngọn cỏ bãi Anh đây
Quê nhà trời tối nào đâu nhỉ?
Sóng gió tuôn sầu, nhớ chẳng khuây.
Về âm điệu, nhịp điệu của bài thơ, trong Vấn đề dịch thơ Đường ở Việt Nam, Nguyễn Tuyết Hạnh cho rằng “ Tản Đà chưa dịch được cái thảng thốt, đột ngột của bài thơ : Nhật mộ hương quan hà xứ thị ? thật ra là một câu hỏi nhưng câu dịch của Tản Đà lại là một câu kể, miêu tả”. Quả thật, thi phẩm của Hoàng Hạc Lâu có một sự chuyển biến đột ngột giữa ba liên đầu với liên cuối cùng. Như Hư Chu trong Để hiểu thơ Đường đã phê bình bài thơ của Thôi Hiệu không thành công ở phương diện lập ý. Theo ý ông, mạch thơ lẽ ra phải tiếp diễn cái ý hoài cổ thì lại quay ra nói về cảm xúc chủ thể. Nhưng theo lời của Nguyễn Tuyết Hạnh thì “ Chính cái chuyển biến đột ngột đó làm cho câu thơ trở thành thiên cổ, làm cho Thôi Hiệu trở thành “thi sĩ của một bài thơ””. Theo ý chúng tôi thì người đọc đồng tình với ý kiến của Nguyễn Tuyết Hạnh hơn bởi đó chính là cái tình của Thôi Hiệu, mà thực chất trong cảnh của ông cũng đã có tình rồi!
Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi còn đặc biệt chú ý đến quan điểm của nhà giáo Nhật Chiêu, bài dịch của ông đã ra đời trên đường đi giảng cho một lớp đại học ở Phú Yên. Theo ông thì “ Tản Đà chuyển chữ “dư” thành “trơ” là chưa đắt”. Ông lí giải rằng, sau Thôi Hiệu thì còn có rất nhiều tao nhân mặc khách đến lầu Hoàng Hạc, ngay cả thi tiên Lý Bạch cũng đã đến lầu này. Như vậy là “ lầu Hoàng Hạc vẫn sống động, nếu dịch thành “trơ” thì e uổng quá.”. Nguyễn Quốc Siêu trong Thơ Đường bình giảng dường như cũng đồng tình với Nhật Chiêu. Ông cho rằng: “ Thử Địa không dư Hoàng Hạc Lâu nếu dịch nghĩa là “Nơi đây chỉ còn trơ lại lầu Hoàng Hạc” hay dịch thành thơ như Tản Đà: “Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ”, “Trơ lầu Hoàng Hạc chốn này thôi”(Khương hữu Dụng” thì chưa lột tả được hết ý tứ của chữ “không””. Về điều này thì Nhật Chiêu cũng như Nguyễn Quốc Siêu hoàn toàn đối lập với Xuân Diệu bởi ông hết sức ca ngợi chữ “trơ” của Tản Đà và coi đó là cách dịch đúng nhất và hay nhất
Như vậy, một bản dịch được đánh giá là thành công nhất, hay nhất, truyền tải được nhiều nhất cái thần của bài thơ như bản dịch của Tản Đà thì vẫn không tránh được những tiếng phê bình, những ý kiến khen chê của người đọc. Điều này cho thấy, người đọc càng ngày càng được nâng cao về trình độ tiếp nhận và vì thế có sự đòi hỏi cao hơn trong nghệ thuật phiên dịch của các dịch giả.
3.Tiểu kết
Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu là một tuyệt tác. Nhà phê bình Kim Thánh Thán đã có lời bình sâu sắc: “Làm thơ không nhiều mà khiến cho Lý Bạch phải gác bút, thì đúng là bậc đại trượng phu trong rừng bút mực vậy.” Theo những tài liệu mà chúng tôi tìm được thì có đến gần 40 bản dịch về Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam. Điều này cho thấy, thi phẩm này được tiếp nhận một cách rầm rộ ở nước ta. Sau khi Tản Đà dịch thành công và luôn là văn bản đi cùng với tác phẩm của Thôi Hiệu, ngỡ tưởng rằng sẽ khiến các nhà thơ khá phải nhường bước nhưng sự thực không phải như vậy. Dù có chiêm ngưỡng và không khỏi tấm tắc trước bản dịch của nhà thơ này thì “người trước kẻ sau vẫn cứ muốn thử thách bút lực của mình”( Nguyễn Huệ Chi). Trong rừng bút đó có các tên tuổi như Ngô Tất tố, Khương Hữu dụng, Trần Trọng Kim,…và không ít bản dịch cũng được người đọc đánh giá cao như bản dịch của Vũ Hoàng Chương. Ông không phải là nhà phiên dịch nhưng cũng bị Hoàng Hạc Lâu thu hút nên đã để lại một bản dịch thất ngôn trong đó cái chất hào hoa của nhà thơ nổi lên lấn át đi cái yêu cầu sát sao, chặt chẽ của thơ dịch. Bản dịch của nhà thơ này vẫn được chọn lọc xếp cùng bản dịch của Tản Đà trong các sách phê bình thơ Đường. Mỗi người một vẻ nhưng không được “mười phân vẹn mười”, người được cái này thì mất cái kia, ngay như Tản Đà, được về từ, về ý thì lại bị chê ở vấn đề chọn thể thơ dịch.
Mỗi người đọc có một sự đánh giá khác nhau về các bản dịch. Bản dịch của Tản Đà được phần đông người đọc đánh giá là hay nhất. Trong khi đó, có một số người lại có ý thích các bản dịch khác hơn như Nguyễn Hiếu Lê thích bản dịch của Vô Danh hay Lam Điền thích bản dịch của nhà giáo Nhật Chiêu….Nhưng theo ý của chúng tôi thì một bài thơ Đường, hiểu rõ được nó đã khó, để dịch được còn khó hơn nhiều, vì thế cần có một cách nhìn nhận chính xác với bản dịch của các nhà thơ và không nên quá cứng nhắc khi đánh giá, ít nhất cũng phải thấy ở mỗi bản dịch một cái gì đó là tinh tế, sâu sắc và tài hoa của dịch giả.
II. VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU HOÀNG HẠC LÂU Ở VIỆT NAM
Thơ Đường xuất hiện ở Việt Nam từ rất lâu trong lịch sử. Từ thời Lê, Nguyễn, hai tác gia nổi tiếng của nước ta đã đọc thơ Đường và kế thừa một cách có chon lọc những tinh hoa thơ Đường vào sáng tác của mình. Đó là Ức Trai Nguyễn Trãi và đại thi hào Nguyễn Du. Về sau một loạt các nhà thơ khác có sự ảnh hưởng từ thơ Đường, đó là Bà huyện Thanh Quan, là Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương…và sau này có Tản Đà. Nhưng đó là tiếp nhận tác phẩm thơ Đường trên văn bản, có nghĩa là, họ mượn ngôn ngữ, giọng điệu, cấu tứ của thơ Đường để đưa vào thi phẩm của mình. Vần đề nghiên cứu, dịch thuật mới chỉ được bắt đầu trong hơn một thế kỉ nay mà khởi đầu là bản dịch Tỳ Bà Hành của Phan Huy Thực từ những năm đầu thế kỉ XIX.
Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu được tiếp nhận có phần muộn màng hơn khá nhiều và việc nghiên cứu bài thơ cũng không trở thành một trào lưu, hệ thống như một số bài thơ nổi tiếng khác. Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế có hẳn một loạt bài tranh luận về nội dung bài thơ trên các báo, tạp chí, hay Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị cũng được nói đến rất nhiều. Viết về Hoàng Hạc Lâu phần lớn chỉ là những bài nhỏ, dung lượng ít và hầu như không có “bút chiến”. Bài thơ này hay, có thể coi là tuyệt tác, nhưng việc nghiên cứu về nó thì lại bình lặng, có lẽ vì cách hiểu của người đọc về bài thơ hoàn toàn nhất quán với nhau.
1. Một hướng khai thác chung Vể Hoàng Hạc Lâu
Như chúng tôi đã trình bày ở trên, Hoàng Hạc Lâu là một thi phẩm có sự nhất quán trong vấn đề tiếp nhận nội dung, nghĩa là, trong quá trình thâm nhập vào tác phẩm, hầu như không một độc giả nào có sự phá cách nhiều trong việc thẩm thấu nội dung của nó. Tác phẩm là sự đan xen giữa quá khứ với thực tại, giữa mộng và thực, giữa thế giới thiên nhiên và thế giới nội tâm con người. Trong quá trình tìm hiểu tác phẩm, các nhà nghiên cứu, đọc giả chủ yếu đi vào các vấn đề như : sự xuất hiện của yếu tố thần thoại, sự phá cách niêm luật Đường Thi của Thôi Hiệu, sự chuyển biến nhịp thơ giữa liên 1, 2, 3 với liên 4, và hai câu thơ cuối(đặc biệt là chữ “sầu” đọng lại ở cuối bài thơ ).
Yếu tố thần thoại được coi là cái nút mở ra không gian của bài thơ, làm cho bài thơ mang ý vị hoài cổ, khơi nguồn cảm hứng cho tác giả và thể hiện những cảm xúc từ sâu thẳm tâm hồn nhà thơ_ một lữ khách xa quê . Vấn đề này được nói đến trong tất cả các bản dịch hay những bài phân tích, phê bình của độc giả. Nhưng dường như chưa ai có sự tìm hiểu một cách cặn kẽ, hay dành một sự đánh giá đúng nhất về tầm quan trọng của yếu tố này trong tác phẩm. Ngay việc lí giải về tên tác phẩm, tích của Lầu Hoàng Hạc cũng có sự ghi chép khác nhau ở nhiều văn bản. Điều này sẽ được chúng tôi nói đến trong mục sau.
Vấn đề được nói đến nhiều nhất, tốn nhiều giấy mực nhất có lẽ là sự phá cách niêm luật Đường Thi trong bài thơ này. Gọi là phá cách hay đúng hơn là phá vỡ niêm luật chặt chẽ của Đường Thi nhưng tác phẩm này vẫn được đánh giá là “Đệ nhất luật Đường”( Nghiêm Vũ). Các nhà nghiên cứu tập chung đi vào phân tích sự phá cách ấy để chứng minh cho lời nhận xét của nhà phê bình Nghiêm Vũ đời Tống và khẳng định sức sống, vị trí của bài thơ trong thơ Đường và trong lòng người đọc.
Về hai vấn đề : sự chuyển biến nhịp điệu bài thơ từ liên ba xuống liên 4 và hai câu thơ cuối, trong qúa trình nghiên cứu, hầu hết đều đưa chúng vào phương diện biểu hiện của cái tình bên trong nhà thơ và lột tả rõ nhất tâm trạng của Thôi hiệu. Khá nhiều nhà phê bình đi vào phân tích và đưa ra ý kiến của mình về hai câu thơ cuối, đặc biệt, nhà thơ Huy Cận còn dùng hai câu thơ của Thôi Hiệu để sáng tạo ý thơ của mình trong bài Tràng Giang nổi tiếng.
Như vậy, về vấn đề nghiên cứu, trước khi đi vào từng vấn đề cụ thể được nói đến trong hệ thống tài liệu, chúng tôi trình bày khái quát việc nghiên cứu Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam trong một hướng tiếp nhận chung của hầu hết người đọc. Do đó, chúng tôi chỉ đưa ra những lý thuyết cơ bản, không thống kê, phân tích và đưa ra dẫn chứng. Những công việc này, chúng tôi sẽ thực hiện trong đề mục tiếp theo là nghiên cứu Hoàng Hạc Lâu trong sách, báo, tạp chí và các tài liệu khác.
2. Hoàng Hạc Lâu trong sách, báo, tạp chí nghiên cứu và các tài liệu khác.
Thực tế, xung quanh thi phẩm của Thôi Hiệu không có một cuộc bút chiến nào, có chăng chỉ là nhưng tranh luận nho nhỏ hay chỉ là sự “đóng góp ý kiến” giữa các độc giả với nhau. Do đó, viết về Hoàng Hạc Lâu không những không nhiều, dung lượng không đồ sộ, mà còn khá giống nhau. Chúng tôi tìm được các bài viết về tác phẩm này chủ yếu trong các sách bình giảng, một số bài nhỏ trên báo hay trên những trang web tin cậy.
Theo luật thi, một bài thơ Đường bảy chữ (thất ngôn bát cú), nguyên tắc niêm luật phải chặt chẽ, phải tuân theo luật đối ngẫu, hai liên ở giữa phải đối nhâu hài hoà cả thanh lẫn ý. Nhưng Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu là một ngoại lệ. Đây là bài thơ tiêu biểu cho vấn đề phá cách niêm luật trong thơ Đường. Bốn câu thơ đầu không theo đúng quy luật bằng _ trắc, làm ta tưởng chưng như đó là một bài thơ cổ phong. Về vấn đề này, trong Những bài thơ Đường nổi tiếng, Nguyễn Khắc Phi phân tích: “ Việc phá cách không gieo vần ở cầu thứ nhất, việc dùng liến ba thanh trắc ở cuối câu thứ 3, việc dùng lối “tam bình điệu’ ở câu thứ 4, việc dùng liền ba từ “Hoàng hạc”, hai chữ “không”, hai chữ “khứ”, việc sử dụng cả hình thức đối ngẫu ở cặp đôi đầu và ở cả cặp đôi đầu lẫn cặp câu 2, đối ngẫu đều có chỗ không chỉnh(khứ_Lâu, bất phục phản_không du du), hiện tượng câu thứ 1 và câu thứ 3 đều không theo luật “nhị tứ lục phân minh”…tất cả đều phục vụ đắc lực cho việc thể hiện nội dung, làm nổi bật được những sắc thái tình cảm phong phú, tế nhị của tác giả…”.Hay trong Các tác phẩm thơ Đường ở trường trung học cơ sở và trong học phổ thông, tác giả cho rằng “Một loạt thanh trắc ở cuối câu 3 đã phá bỏ quy tắc nghiêm ngặt “nhị, tứ, lục phân minh” trong thơ Đường làm cho âm điệu câu thơ không được bình thường, gợi cảm giác tấm tức, đau đớn trước thục tại phũ phàng…”. Do đây là một tài liệu giảng dạy trong trường phổ thông nên để học sinh hiểu được điều này, các tác giả đac hướng dẫn giáo viên đặt câu hỏi như: “Em có nhận xét gì về âm điệu hai câu thơ trên (câu 3, 4)?” hay “Tác giả sử dụng toàn thanh trắc nhằm diễn tả điều gì?”(Lê Xuân Soạn)…Như vậy, khi nói về vấn đề phá vỡ niêm luật Đường Thi của bài thơ thì các nhà nghiên cứu, phân tích đều tập trung làm rõ để thể hiện cái tình của tác giả. Trong bốn câu thơ đầu, thực tại và quá khứ, cảnh vật và cảm xúc, tả thực và suy tưởng đan xen lẫn nhau, điệu văn đi thẳng một mạch từ đầu cho đến hết câu bốn “ khiến người đọc hình dung ra được cái cảnh những đám mây trắng nhẹ nhàng lững lờ bay trên không đưa hồn người lữ khách bay theo.’’ (Trần Trung San). Sự phá cách của Thôi hiệu chỉ thể hiện trong bốn câu đầu mà đặc biệt là ở hai câu thực ( sử dụng 6 vần trắc ở câu 3, đối không chỉnh với câu 4…). Niêm luật của thơ Đường rất chặt chẽ, nhưng một bài thơ phá vỡ niêm luật chặt chẽ ấy như Hoàng Hạc Lâu mà vần được đánh giá là “Đệ nhất luật Đường” phải chăng là điều vô lí? Thật ra điều vô lí ấy lại không vô lí chút nào, không phải Thôi Hiệu không biết niêm luật thơ Đường, nhưng nói như một số người là “ biết mà vờ như không biết”, “ông đã tuân thủ nguyên tắc “ thơ lấy ý làm chính”, “không để từ làm hại ý”, từ đó mạnh dạn phá vỡ một số trói buộc của thể thơ Đường” (Nguyễn Khắc Phi). Đó cũng là một nguyên nhân khiến cho Hoàng Hạc Lâu có ảnh hưởng sâu rộng đến thơ ca đương thời và đời sau.
Bài thơ là một chỉnh thể, mới đọc ta tưởng như có một sự phân chia rất rõ ràng giữa bốn câu đầu và bốn câu sau, nhưng thực chất lai không phải như vây. Ý thơ bốn câu đầu vừa giải thích tên lầu, vừa định vị lầu trong thời gian, thể hiện một nhận thức tình cảm nhân sinh mang tính chất triết lí, vừa đặt nền móng vững chắc cho ý cảnh thơ ở bốn câu cuối. Nhiều người cho rằng, giữa bốn câu đầu và bốn câu cuối có một bước chuyển khá đột ngột về nhiều mặt. Như Nguyễn Khắc Phi đã viết: “Từ cõi tiên về cảnh tục, từ cấu tứ lấy ý làm chủ sang lấy cảnh làm chủ, từ trạng thái mông lung huyền ảo sang màu sắc tươi tắn, rõ nét và về hình thức, từ phá cách mạnh mẽ quay về tuân theo nghiêm chỉnh luật thơ…Rõ ràng, tù tâm trạng hoài niệm về một miền viễn khứ, nuối tiếc, cô đơn, Thôi hiệu quay trở lại thực tại, ngắm bãi Hán Dương, cỏ Anh vũ và cả bóng hoàng hôn gợi buồn, gợi nhớ…Có thể nói, ở bốn câu này, cảnh không chỉ hoà quyện với tình mà còn xuất hiện một cách hợp lí trong không gian, thời gian: từ xa đến gần, tù ban ngày đến hoàng hôn, tác giả đã miêu tả sinh động những gì đã nhìn thấy, cảm nhận thấy từ lầu Hoàng Hạc đưa người đọc từ suy tư, đắm chìm trong những cảm xúc đầy triết lí trở lại với thực tại với cảnh sắc tươi tắn, bình dị và giàu sức sống. Trần Trung San đã từng viết về điệu văn ở hai câu 5, 6 “Chậm lại và đi song song với nhau, nghiêm trang, tề chỉnh và tiếp tục nặng nề đi đến câu cuối bài tận cùng bằng vần trầm tĩnh duy nhất (sầu), miêu tả nỗi sầu miên man, dằng dặc đến vô cùng.” Bên cạnh đó cũng có những ý kiến bình luận về sự thay đổi ý tứ bài thơ từ câu đề, thực, luận chuyển sang câu kết. Hư Chu trong Để hiểu thơ Đường phê bình Hoàng Hạc lâu hỏng về phương diện lập ý. Ông cho là đọc bài thơ và xét từng câu, từng ý là kiệt tác nhưng đã hỏng về phương diện lập ý vì lẽ ra khi còn cần phải tiếp diễn cái ý hoài cổ :”Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ…”thì bỗng nhiên Thôi hiệu bỏ đi cái hoài cổ mà quay ra đột ngột :”Nhật mộ hương quan hà xứ thị, Yên ba giang thượng sử nhân sầu.” Nhưng như ý của Hư chu, nếu Thôi Hiệu vẫn tiếp tục cái ý hoài cổ ấy thì bài thơ có trở thành tác phẩm số một của Đường Thi không? Chúng tôi rất đồng tình với ý của Nguyễn Tuyết Hạnh trình bày trong luận văn của mình, bà cho rằng: “Không có cái phút đột biến để chạnh tình hoài thương thì bài thơ của Thôi hiệu đã không được Lý Bạch khâm phục đến nỗi phải thốt lên “Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc, Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu.”và đã không được Nghiêm Vũ đánh giá là “Đường nhân thất ngôn luật thi, đương dĩ Thôi Hiệu Hoàng Hạc Lâu đệ nhất”.”
Trong Hoàng Hạc Lâu, có thể nói hai câu thơ cuối được tách riêng với văn bản để đánh giá, bình luận nhiều nhất. Có lẽ bởi nó là sự cô đọng cảm xúc của nhà thơ theo dòng chảy toàn bài, những cảm xúc thực nhất trước thiên nhiên, đất trời, trước thời gian, không gian và nó gây được sự đồng cảm sâu sắc với các thế hệ bạn đọc.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
“ Thời gian thì “nhật mộ”, không gian thì “ hà xứ thị “.Đâu là quê hương? Đâu là bến đỗ của cuộc đời xế chiều?”( Trần Thị Bích Hải). Không gian, thời gian ấy khiến thi nhân càng thêm buồn. Nỗi buồn trước đó là cái buồn trước thời thế, thực tại phũ phàng, còn bây giờ là nỗi buồn xuất phát từ chính bản thân chủ thể. Có nhiều người cho rằng không nên hiểu hai chữ “hương quan” trong bài thơ này chỉ theo nghĩa hẹp là nơi chôn nhau cắt rốn mà còn cần phải hiểu là một xứ sở mà ở đấy con người xưa kia có thể an cư, có nơi nương tựa trong cuộc đời đầy sóng gió. Đó cũng là một cách hiểu. Nhưng có lẽ như vậy hơi chung chung và có phần không phù hợp với cảm xúc của tác giả. Nhà thơ Huy Cận sau này chịu ảnh hưởng hai câu thơ của Thôi Hiệu để viết hai câu kết của Tràng giang :
Lòng quê rợn rợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Thôi Hiệu và Huy Cận cùng có chung một nỗi nhớ của người xa quê. Nhưng, Thôi Hiệu nhìn thấy “khói sóng” trên sông mà nảy sinh tâm trạng ấy, còn Huy Cận thì “ Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”! Dù sao “Hai câu thơ của Huy Cận vẫn đậm chất Đường Thi, chất Thôi Hiệu trong cốt cách, tinh tuý.”
Chữ “sầu” trong bài thơ là một “điểm nhãn”, nhưng lại được đặt cuối bài thơ, làm cho nỗi sầu của thời gian, không gian dồn tụ tất cả vào trong nó tạo nên một nốt trầm gieo xuống, trĩu nặng cả tâm hồn. “Hoá ra bài thơ 56 chữ thì 55 chữ là bước chuẩn bị tất yếu cho một chữ “sầu” dặt xuống, kết đọng trong tâm.”( Trần Thị Bích Hải). Hay “ Vần “âu” trong chữ “sầu” là âm đóng và có sự ngân dài như một nốt trầm trĩu nặng xuống tâm hồn.”(Lê xuân soạn). Cách gợi về vần điệu câu thơ sẽ gợi được cảm xúc của thi nhân. Hiểu như vậy nên trong trường phổ thông, giáo viên được hướng dẫn giảng giải cho học sinh bằnh cách dặt ra những câu hỏi như: “ Em có nhận xét gì về vần điệu cuối bài thơ ?”. Các gợi mở đó giúp cho việc tiếp nhận và phân tích tác phẩm của học sinh được dễ dàng hơn rất nhiều.
Về bản thân hai chữ “Yên ba” cũng gây một chút tranh cãi trong người đọc. Có người cho đó là tác giả nói đến con sông Yên ba gần lầu hoàng Hạc, có người cho “yên ba” ở đây là chỉ khói sóng trên sông, tác giả nhìn thấy mà lòng chạnh nhớ quê hương. Đây là cách hiểu của số đông và đúng hơn cả. Trong Về một ý trong bài Hoàng Hạc Lâu Trên báo Văn Nghệ TP. Hồ Chí Minh, Hoà Lạc đã đưa ra một số cách hiểu về ý “Yên ba giang thượng” trong bài thơ. Theo tìm hiểu của ông thì trên báo văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam có tác giả giải thích hai chữ “yên ba” là “ hơi nước bốc lên mù mịt trên mặt sông”, hay có ý kiến lại cho rằng: “ “yên ba giang thượng là mây chiều bảng lảng phản chiếu xuống mặt sông rợn sóng.” Và một người khác cũng đưa ra cách hiểu của mình: “yên ba là ảo giác của nhà thơ Thôi Hiệu, là “lòng ông dậy sóng mà thôi”. Về phía mình, Hoà Lạc lại viết: “Hoàng hôn…từ trên lầu Hoàng Hạc, Thôi Hiệu nhìn xuống dòng sông trước mặt. Gió chiều hiu hiu, mặt sông lăn tăn gơn sóng….Hán Dương là một thị trấn nhỏ, có nhiều thuyền bè xuôi ngược qua lại. Từ những con thuyền ấy bốc lên những ngọn khói nấu cơm chiều. Bữa cơm ấy gợi lên cảnh đoàn tụ gia đình, và nhà thơ chạnh nghĩ tới chiếc thân lưc khách đơn côi của mình mà nhớ nhà và buồn.” Chỉ có một ý thơ mà có bốn cách hiểu khác nhau, và biết đâu trong mỗi người đọc lại có một cách hiểu riêng của mình ? Thực ra, cả bốn cách hiểu như vậy về hai chữ “Yên ba” chưa chắc đã có cách hiểu nào đúng với ý thơ của Thôi Hiệu, nhưng điều thú vị ở đây là mỗi người hiểu theo một cách, đó là tính gợi cảm của ý thơ, câu thơ.
Thống kê, mô tả lại ý kiến của người đọc về những vấn đề xung quanh Hoàng Hạc Lâu, thực chất cũng là để một lần nữa thể hiện cho bạn đọc thấy cái hay, cái đẹp, tinh tế và sâu sắc của bài thơ. Từ đó người đọc có thể tự lí giải vì sao bài thơ này của Thôi Hiệu lại được đánh giá là bông hoa đẹp nhất trong vườn hoa muôn sắc của thơ Đường.
3.Tổng quan về vấn đề nghiên cứu Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam
Thơ Đường là một trong những thành tựu chói loà của văn học Trung Quốc và nhân loại. Mỗi bài thơ là một thế giới nghệ thuật độc đáo,gợi ít mà ý nhiều, ngôn ngữ cô đọng, hàm súc, giàu chất nhạc, chất hoạ. Hoàng Hạc Lâu là một bài thơ như thế. Nghiên cứu về Hoàng Hạc Lâu không chỉ dừng lại ở những phương diện như chúng tôi đã trình bày ở trên mà còn được mở rộng ở những khía cạnh khác của bài thơ. Đó là những tìm hiểu một cách toàn diện của người đọc, không chỉ là nội dung, nghệ thuật mà còn bao gồm các vấn đề về văn bản, xuất sứ và những ảnh hưởng của nó với bản thân thơ Đường…
Riêng về cái tên Hoàng Hạc Lâu cũng có nhiều ý kiến khác nhau về sự ra đời của nó. Sách Hoàn Vũ ký chép: “ Ngày trước có một ông tiên tên Phí Văn Vĩ thường cưỡi hạc đi ngao du và có lần dừng chân tại lầu này. Do vậy lầu đựơc cải danh là Hoàng Hạc Lâu.” Sách Tề Hài Chí lại chép: “ Núi Hoàng Hạc, nguời tiên là Tử An thường cưỡi hạc bay qua.” Ngoài ra theo sử liệu Lý Kiết Phủ đời Đường trong tập Nguyên Hoà Quận Huyện Chí có ghi chép: “ Năm thứ hai Ngô Hoàng Vũ, thành Giang Hạ là thành trì trấn giữ chống sự xâm lược của các bộ tộc phía Tây. Phía Tây thành này gần sông lớn, góc Tây Nam là cồn cát đá nên lập lầu canh, gọi là Hoàng Hạc Lâu.” Cũng có truyền thuyết kể rằng cái tên Hoàng Hạc Lâu ra đời là do cô chủ quán rượu vì nhớ ơn vị tiên dã giúp cô trở nên giàu có đã xây nên cái lầu ấy…Không thế nói ý kiến nào đúng, ý kiến nào sai vì thực chất tất cả chỉ là truyền thuyết nhằm thi vị hoá cách giải thích cho lầu Hoàng Hạc. Tuy nhiên, điều đó cho thấy Hoàng Hạc Lâu có thể cuốn hút người đọc không chỉ vì cái tài hoa của Thôi Hiệu.
Về văn bản tác phẩm, theo như chúng tôi tìm hiểu thì cũng có một vài cách ghi chép khác nhau. Ở hai câu đầu có bản lại ghi là: “ Tích nhân dĩ thừa bạch vân khứ.” Theo nhà phê bình nổi tiếng đời Minh là Kim Thánh Thán thì ghi chép như vậy là một sự sai lầm lớn. Giả sử người xưa mà cưỡi bạch vân thì lầu này sao lại có tên là Hoàng Hạc? Hay như câu luận của bài thơ có bản chép là: “ Phương thảo thê thê Anh Vũ châu” ý nói cỏ thơm rờn rờn ở Anh Vũ, một bản khác là : “ Hoang thảo thê thê…” ý nói đám cỏ hoang ở bãi Anh Vũ cung rầu rầu nhớ người xưa. Cũng theo Kim Thánh Thán thì viết “Phương thảo thê thê”là sai vì không phù hợp với xúc cảm của thi nhân. Nhưng thực tế qua hệ thống tư liệu chúng tôi tìm được thì phần lớn các bản chép là “Phương thảo thê thê”. Một câu hỏi đặt ra ở đây là văn bản nào mới là chính xác của Thôi Hiệu ? Và nếu chép như ở phần lớn tư liệu là sai thì tại sao đến nay vẫn được phổ biến như vậy?
Bên cạnh đó, rất nhiều nhà phê bình đặt vấn đề so sánh Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu với Kim Lăng Phượng Hoàng Đài của Lý Bạch. Tiên thơ Lý Bạch đã từng gác bút trước Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu nhưng lại chịu ảnh hưởng của tuyệt tác này khi sáng tác Kim Lăng Phượng Hoàng Đài. Có một số ý kiến từ phương diện nội dung cho rằng bài thơ của Lý Bạch hay hơn bài thơ của Thôi Hiệu vì đã đề cập đến một vấn đề có ý nghĩa xã hội thiết thực hơn. Xong đa số cho rằng cả ở đây Lý Bạch vẫn chưa vượt được Thôi Hiệu : “ Không chỉ nội dung thơ Thôi Hiệu có tầm khái quát cao sâu hơn mà nghệ thuật cũng siêu việt hơn, tình điệu thơ bay bổng, phóng túng hơn.”( Nguyễn Khắc Phi). Sự so sánh này chỉ là tương đối bởi nó còn tuỳ thuộc một phần vào tình cảm của người đọc dành cho mỗi nhà thơ. Tuy nhiên theo riêng ý của chúng tôi thì cần có một sự đánh giá thoả đáng về cái tinh tế, sâu xa của mỗi bài mà nhất là về vẻ đẹp của Hoàng Hạc Lâu.
Có lẽ những điều này mới là giai đoạn hoàn chỉnh trong vấn đề tiếp nhận văn bản Hoàng Hạc Lâu giúp người đọc có cái nhìn sâu rộng hơn về mọi khía cạnh của tuyệt phẩm này.
III TỪ TÁC PHẨM ĐẾN TÁC PHẨM
Một tác phẩm để lại âm vang của mình không chỉ bởi những tài hoa của thi nhân gửi lại trong đó mà còn bởi những ảnh hưởng của nó đối với thi hứng của các tác giả đương thời và thế hệ sau. Ở Việt Nam, Hoàng Hạc Lâu được tiếp nhận từ rất sớm, cũng từ đó nhiều tác phẩm lấy thi hứng từ tác phẩm này mà ra đời.
1.Nguyễn Du tỏ lòng tri âm với Thôi Hiệu.
Nguyễn Du là tác gia lớn của Việt Nam, là danh nhân văn hoá thế giới, những sáng tác mà ông để lại có sức lay động mạnh mẽ đối với người đọc mọi thế hệ. Trong cuộc đời mình, Nguyễn Du cũng có thời gian “Bắc hành” để từ đó viết nên những bài thơ có sức sống lâu bền với lịch sử. Thơ Nguyễn Du tiếp nhận rất nhiều thơ văn cổ Trung Quốc, đặc biệt là thơ Đường. Những ý tứ, thể loại, hình ảnh, nhịp điệu trong thơ Đường được ông kế thừa và đưa vào tác phẩm của mình một cách tinh tế. Nguyễn Du sáng tác nhiều bài thơ dùng nguyên tên bài thơ có sẵn của Trung Quốc, có các lại thể tài như tạp ngôn, tạp thi, ngẫu hứng…có loại chỉ thay từ chỉ địa danh ở đầu như Tương Giang dạ bạc,…làm người đọc nhớ đến bài thơ nổi tiếng Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế đời Đường. Và có khá nhiều bài thơ giũ nguyên tên các bài thơ cổ Trung Quốc như : Đăng nhạc Dương Lâu (Đỗ Phủ ), Hoàng Hạc Lâu ( Thôi Hiệu )…Tuy nhiên, đề tài giống nhau không phải là điều quan trọng đối với các nhà văn, nhà thơ thời trung đại mà “quan trọng hơn là nói sao cho hay hơn, cho lạ hơn người xưa mới là quyết định.” (Trần Thế Bảo).Ngay trong thơ cổ Trung Quốc cũng có những đề tại được nhiều nhà thơ cùng viết đến như Xuân oán có Vương Chi Hoán và Lưu Phương Bình, Cô nhạn có Đỗ Phũ, Thôi Đồ…hoặc các đề tài về chữ sầu, oán, hận,… Điều này thể hiện phong khí sáng tác của văn học trung đại mà nhà thơ Nguyễn Du dùng lại đề tài của thơ cổ Trung Quốc cung không nằm ngoài quy luật này, hơn nữa còn cho thấy ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá Trung Hoa đối với văn hoá Việt Nam và sự tiếp thu có sáng tạo tinh hoa văn hoá Trung Hoa của các nhà Nho nói chung và Nguyễn Du nói riêng.
Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu với Nguyễn Du có một mối dây liên hệ vô hình hàng ngàn năm. Trên đường đi sứ sang nhà Thanh, Nguyễn Du qua lầu Hoàng Hạc. Trước cảnh kì vĩ của toà lầu đậm sắc màu huyền thoại kia, Nguyễn Du giao cảm với người xưa để rồi sáng tác hai bài thơ Hoàng Hạc Lâu và Hán Dương Vãn Diêu. Khác với thi tiên Lý Bạch, cảm phục bài thơ của Thôi Hiệu mà không đề thơ nữa, thi nhân của Việt Nam lại khác. Có lẽ, việc Nguyễn Du đề thơ không phải để người đọc so sánh, bình phẩm mà chủ yếu là thể hiện lòng tri âm với nhà thơ Trung Quốc trước cảnh non nước mà mang nặng nỗi ưu tư.
Hà xứ thần tiên kinh kì thì
Do lưu tiên tích thử giang mi?
Kim lai cỏ vàng Lư sinh mộng
Hạc khứ lầu không Thôi Hạo thi.
Hạm ngoại yên ba chung diểu diểu,
Nhân trung thảo trụ thượng y y.
Trung tình vô hạn bằng thuỳ tố,
Minh nguyệt thanh phong dã bất tri.
( Hoàng Hạc Lâu)
Bá vương trần tích thuộc du du,
Hán thuỷ thao thao trú dạ lưu.
Quy hạc lưỡng sơn tương đối ngạn,
Thần tiên nhất khấu chỉ không lâu.
Thi thành thảo thụ thai thiên cổ,
Nhất mộ hương quan cộng nhất sầu.
Tưởng tượng đương niên xuy địch dạ,
Bạch tần hồng liễu mãn định châu.
(Hán Dương Vãn Diêu)
Hai bài thơ này có nhan đề khác nhau nhưng cảm hứng của tác giả đều bắt nguồn từ những điều quan sát được khi đến tham lầu Hoàng Hạc và vãn cảnh chiều ở Hán Dương. Đồng thời không ít chi tiết trong bài thơ của Thôi Hiệu được Nguyễn Du cảm nhận và thể hiện tinh tế trong hai bài thơ của mình.
Ở Hoàng Hạc Lâu, Nguyễn Du mở đầu bằng một câu hỏi, trong đó có những ý tứ lấy từ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu: “ Hà xứ thần tiên kinh kì thì, Do lưu tiên tích thử giang mi?”( Dịch nghĩa là : Thần tiên ở đâu và trải qua bao nhiêu dời rồi, mà còn để lại dấu vết trên bến sông này?) “Rõ ràng là ở đây thần tiên không thấy mà cũng chẳng có hạc vàng, chỉ còn lại dấu vết duy nhất, ấy là lầu Hoàng Hạc!”(PTS Nguyễn Huy Quát).
Trong bốn câu thơ đầu của Thôi Hiệu, “bằng nghệ thuật sử dụng thanh điệu, điệp từ và cách gieo vần…nhà thơ đã nhấn mạnh một ý lớn : Câu chuyện thần tiên không hề có thật và ước mơ thành tiên như Phí Văn vĩ cũng chỉ là ảo vọng mà thôi”. Nguyễn Du đồng cảm với Thôi Hiệu ở ý này: “Kim lai cỏ vàng Lư sinh mộng, Hạc khứ lầu không Thôi Hạo thi.”Như vậy là thần tiên, hạc vàng chỉ có trong mơ ước, như giác mộng của chàng Lư. Cả hai nhà thơ đều sử dụng rất linh hoạt các quan hệ từ đối lập ở từng hình ảnh thơ, từng dòng thơ để tạo tứ thơ riêng cho mình. “Thôi Hiệu dùng hình tượng cụ thể, Nguyễn Du lại hay dùng khái quát. Thôi Hiệu thì phóng khoáng mà tự nhiên, Nguyễn Du thì trang trọng mà hào hoa…”(Trần Thế bảo) Đáng chú ý ở đây là “đối lập kép”, hạc bay đi chỉ còn trơ lầu ở lại thể hiện sự đối lập giữ mất và còn, giữa quá khứ và hiện tại, giữa thực và hư…”Cuộc đời bể dâu, hư ảo, vô thường là cảm nhận chung của cả hai nhà thơ ở hai thời đại, của hai dân tộc Trung Hoa và Việt Nam.”
Ở hai câu cuối, nếu như Thôi Hiệu chỉ miêu tả cảm nhận của người lữ khách đứng trên lầu cao dõi mắt ra xa để thấy khói sóng trên sông, cỏ cây mượt mà. Nguyễn Du đứng trên Hoàng Hạc Lâu “Ngàn năm trước Thôi Hiệu đã “xuất thần” làm nên kiệt tác gửi gắm mối sầu thiên cổ. Giờ đây, đã lui lại cả ngàn năm mà khói sóng ngoài cửa vẫn mênh mang, cỏ cây trước mắt vẫn mượt mà”. Dường như, ở cả hai nhà thơ, hai bài thơ đều toát lên cảm giác cô dơn trước cái mênh mang của không gian đất trời. Thôi Hiệu và Nguyễn Du đều buồn. Thi hào Việt Nam cảm thông với thi nhân Trung Quốc về nỗi nhớ quê hương, về sự cô dơn khi chiều buông xuống. Sự đồng cảm ấy còn sâu sắc hơn khi bài thơ của Nguyễn Du cũng được viết trên đất khách, quê người. Ngô Văn Phú cho rằng: “Bài thơ của Nguyễn Du tỉnh hơn, nhưng đã bổ sung cùng Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu một nỗi buồn khác. Một nỗi buồn không da diết bằng, tỉnh táo hơn, lạnh lùng hơn nhưng sự chán nản với cuộc đời xem ra lại đậm đặc hơn.” Nhận xét này xem ra có phần đúng, bởi nỗi buồn đau của nhà thơ Việt Nam “ còn ôm trùm cả nỗi buồn nhà thơ Thôi Hiệu ngàn năm trước và không có gì chia sẻ được.”
Cổ nhân có câu: “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Hai bài thơ của Nguyễn Du viết khi đi sứ sang Trung Quốc đã thể hiện rõ ràng tư tưởng đó, bày tỏ lòng tri âm sâu sắc với nhà thơ Thôi Hiệu dù cho hai con người ấy có sống cách xa nhau cả ngàn năm về thời gian…
Thơ viết khi qua lầu Hoàng Hạc
Nguyễn Du không phải nhà thơ Việt Nam duy nhất có những cảm hứng sâu sắc khi qua Lầu Hoàng Hạc. Ngôi lầu để lại bài thơ bất hủ của Thôi Hiệu gắn liền với câu chuyện “vứt bút không đề thơ” của Lý Bạch không làm các nhà thơ Việt Nam nhường bước, họ vẫn thả sức mình viết về lầu Hoàng Hạc để làm thoả mãn cảm xúc trào dâng trong lòng mình trước cảnh đẹp đất trời, cỏ cây… Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi thu thập được 8 bài thơ của các tác giả Việt Nam ( trừ hai bài thơ của Nguyễn Du) viết về lầu Hoàng Hạc và tất cả đều được viết khi các nhà ngoại giao đi sứ qua đây.
Những người được cử đi sứ trước hết là những người có dũng khí và đó cũng là những đại diện xứng đáng cho nền văn hiến của dân tộc, những người mang phong thái, tâm hồn dân tộc, không chỉ thấu suốt kim cổ, thông hiểu sử sách, giỏi ứng đối mà còn là những nhà thơ nổi tiếng để có thể làm đẹp cho đất nước ở bên ngoài. Bên cạnh những bài thơ nói lên tình yêu đất nước, lòng tự hào dân tộc, trên đường đi sứ, qua lòng đất nước Trung Hoa đã có biết bao vần thơ của họ nói về cái đẹp của phong cảnh, tình người. Và nói tới mảng thơ văn này thì không thể không nói đến những bài thơ viết về Hoàng Hạc Lâu. Chúng tôi xin liẹt kê ra đât một số tác phẩm để người đọc được biết .
Thời nhà Trần có Phạm Sư Mạnh với bài thơ Hoạ Đại Minh sử Dư Quý nói lên vẻ đẹp của bãi Anh Vũ, lầu Hoàng Hạc.
Thời Tây Sơn, có hai nhà thơ đi sứ tả lầu Hoàng Hạc là Phan Huy Ích và Ngô Thì Nhậm. Phan Huy ích có hẳn ba bài thơ về đề tài này dó là: Vũ Xương dịch thứ phụ quốc thư kí Ngô binh bộ, Du Hoàng Hạc Lâu hữu thi kí Ngô binh bộ…” và Hán Thuỷ chu trình. Ngô Thì Nhậm có hai bài thơ là : Chu trung vọng Hoàng Hạc Lâu và Đăng Hoàng Hạc Lâu phú.
Thời nhà Nguyễn có Nguyễn Du và Ngô Thì Vị. Nguyễn Du như đã nói ở trên, có hai bài là: Hoàng Hạc Lâu và Hán Dương vãn Diêu. Ngô Thì Vị có Hoàng Hạc Lâu.
Tất cả đều ca ngợi vẻ đẹp tuyệt vời của lầu Hoàng Hạc và phong cảnh xung quanh và mỗi người có một tâm trạng riêng gửi vào bài thơ của mình. Tuy nhiên ở đây, chúng tôi xin đưa ra bài thơ của Ngô Thì Vị vì “ không có nhà thơ nào trước và sau Ngô Thì Vị đã miêu tả lầu Hoàng Hạc như ông đã tả.” (Quang Lợi)
( bài thơ )
Bài thơ của ông có một chút ngang tàng, khí phách làm bài thơ thoát hẳn ra khỏi khuôn sáo từ xưa: lên lầu nhìn mây trắng lòng người chỉ thấy tang thương, thấy lòng buồn vô nghĩa. Đằng này thơ của Ngô Thì Vị không thế. Thư đọc hai câu thơ cuối của ông:
Việt Nam sứ giả Ngô Thì Vị
Đấu đảm đề thi kí thử du.
“ Câu trên như một dòng lạc khoán, câu dưới nói “mình lớn mật đề thơ”. Có lẽ đây cũng là lần đầu tiên tên “Việt Nam” được đưa vào trong thơ.” (Phạm Thiều_Đào Phương Bình).
Mây trắng ngàn năm vẫn trôi trên lầu vắng, vần thơ của Thôi Hiệu vẫn được ghi khắc ngàn năm. Các nhà thơ Việt Nam đến đây “đăng lâu vọng viễn” mang theo tâm tình thời đại, dân tộc mình, mang theo những tâm sự thầm kín của mình nên những câu thơ không trở nên nhàm chán. Như vậy, không chỉ Thôi Hiệu đề thơ ở lầu Hoàng Hạc, Nguyễn Du viết về Hoàng Hạc Lâu mà con rất nhiều thi nhân Việt Nam khác lấy thi hứng từ không gian này và đều có sự đồng cảm với nhà thơ Trung Quốc, chỉ là tấm lòng mỗi nhà thơ mỗi thời mỗi khác mà thôi.
3.Lời nhắn gửi của Vũ Hoàng Chương
khác trong văn học trung đại đã khiến cho một tài thơ của văn học hiện đại có một nỗi Những bài thơ về lầu Hoàng Hạc của Thôi Hiệu, Nguyễn Du và nhiều nhà thơ đồng điệu. Đó là Vũ Hoàn Chương.Nhà thơ này không chỉ dịch Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu mà còn có những lời nhắn gửi tri âm đến nhưng thi nhân đời trước. Bài thơ của ông viết về lầu Hoàng Hạc như sau:
Đã bao giờ có hạc vàng đâu!
Mà có người tiên để có lầu!
Tưởng hạc vàng đi mây trắng ở,
Lầm Thôi Hiệu trước, Nguyễn Du sau.
Hạc chưa thoát khỏi mê hồn kịch
Tiên vẫn nằm trong vạn cổ sầu
Trăng gió hão huyền như khói sóng
Nồi kê đã chín nghĩ mà đau…
Bài thơ này được Vũ Hoàng Chương làm một tháng trước khi qua đời, cũng có thể coi như là một bài luận sự đời của ông. Ở bài thơ này có lẽ hay nhất ở bốn câu thơ giữa : “Tưởng hạc vàng đi mây trắng ở….Tiên vẫn nằm trong vạn cổ sầu.” “ Vũ cho rằng hai thi sĩ lừng danh Thôi Hiệu và Nguyễn Du đều lầm cả…cứ tưởng là cõi tiên có thực ư?...làm gì ra có…” Có lẽ, lời nhắn gửi của Vũ Hoàng Chương với thế hệ trước là ở đó, không có hạc vàng, không có cõi tiên đâu…Nhưng tiếc thay, ông chỉ là nhà thơ sinh muộn sau nhiều thế kỉ.
4.Tiểu Kết
Vậy là một vùng danh lam thắng cảnh để lại một bài thơ hay cho đời sau….Để rồi cuốn hút biết bao nhiều tài thơ vào cuộc. Họ viết về lầu Hoàng Hạc, viết về Hoàng Hạc Lâu và họ bày tỏ nỗi niềm tri âm cùng người muôn năm trước. Bài thơ của Thôi Hiệu sống cũng một phần ở đó.
C. PHẦN KẾT LUẬN
Bao nhiêu thế kỉ đã trôi qua, cuôc đời đổi thay, sự vật biến rời nhưng có một sự thật không thể thây đổi là sức sống của Đường Thi trong nền văn học Việt Nam và vẻ đẹp lung linh của Hoàng Hạc Lâu trong tâm hồn mỗi người yêu thơ Đường.
Những phá cách niêm luật, những đổi thay về nhịp điệu, lập ý, một chữ “sầu” dai dẳng ở cuối bài thơ hay cả những vấn đề nhỏ xung quanh nó, tất cả chỉ làm tôn lên vẻ quyến rũ của Hoàng Hạc Lâu và khẳng định bút pháp tài hoa của “thi sĩ một bài thơ” Thôi Hiệu.
Việt Nam là đất nước của thơ Đường. Yêu mến thơ Đường bao nhiêu thì có lẽ cũng yêu mến Hoàng Hạc Lâu bấy nhiêu, Bởi lẽ đó mới có nhiều bản dịch, có những lời phê bình tâm huyết, và có những nhà thơ bày tỏ lòng tri âm cùng nhà thơ của ngàn năm trước ây.
Hoàng Hạc Lâu chưa nêu lên được một nhân sinh quan tích cực kiểu như: “ Nhân sinh tự cố thuý vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.” Như Văn Thiên Tường song cũng không rơi vào quan điểm hư vô hành lạc kiểu “Bỉnh chúc dạ du”. Những khát vong về một cuộc sống yên ổn, hạnh phúc của thể hiện trong bài thơ bao giờ cũng được người đời sau trân trọng.
Mãi mãi, Hoàng Hạc Lâu sẽ còn đẹp trong lòng người bởi Lầu Hoàng Hạc và Thôi Hiệu còn sống mãi cùng thời gian, trong lòng người đầt Việt…
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tiep_nhan_hoang_hac_lau_o_viet_nam_3009.doc