Cũng có thể lập luận rằng nhóm trẻ trong
nghiên cứu này đang bệnh và phải nhập viện, có
thể không mang tính đại diện cho dân số chung.
Thế nhưng việc chúng tôi chọn khoa Hô Hấp để
lấy mẫu vì với nhóm trẻ nhập viện liên quan
đến các vấn đề hô hấp sẽ không có bị nhiễu bởi
các triệu chứng liên quan với mức độ BLL cao, vì
vậy thực tế các triệu chứng bệnh hiện tại ở nhóm
trẻ này là độc lập với những ảnh hưởng của chì
lên cơ thể. Bên cạnh đó, nếu trẻ nhập viện
thường xuyên thì có thể giảm tiếp xúc với các
nguồn phơi nhiễm chì trong môi trường tại nhà
hoặc môi trường xung quanh trẻ sống. Do hiện
tại chúng tôi chưa thể thực hiện nghiên cứu này
ra cộng đồng được vì những lý do chi phí, nhân
lực cũng như tính khả thi. Vì thế dân số nghiên
cứu của chúng tôi tuy không phải là nhóm dân
số mẫu đại diện cho cộng đồng nhưng là nhóm
dân số ít bị nhiễu nhất.
Cho đến thời điểm hiện tại, trong cả nước
chúng tôi chỉ tìm thấy một nghiên cứu về phơi
nhiễm chì của trẻ em ở làng tái chế chì Đông
Mai, tỉnh Hưng Yên năm 2012. Còn lại chưa có
nghiên cứu nào khảo sát và đánh giá tình trạng
phơi nhiễm chì ở trẻ em nước ta. Tóm lại, mặc
dù nhóm dân số trong nghiên cứu này chưa thể
kết luận là đại diện cho cộng đồng, nhưng với
việc cố gắng chọn mẫu nghiên cứu thuận lợi
nhất trong quá trình đánh giá xem trẻ em nước
ta có đang có những nguy cơ và ảnh hưởng của
việc phơi nhiễm với chì hay không, chúng tôi hy
vọng nước ta nói chung và người dân nói riêng
sẽ nhận thức được và có thái độ đúng đắn nhất
trong sự ảnh hưởng cũng như ngăn ngừa tình
trạng phơi nhiễm chì ở trẻ em nước ta.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 128 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nồng độ chì trong máu và yếu tố nguy cơ phơi nhiễm chì ở trẻ em tại bệnh viện Nhi đồng 2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 426
NỒNG ĐỘ CHÌ TRONG MÁU VÀ YẾU TỐ NGUY CƠ
PHƠI NHIỄM CHÌ Ở TRẺ EM TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2
Huỳnh Hoàng Anh*, Phạm Thị Minh Hồng**
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định nồng độ chì trong máu (BLL ‐ Blood Lead Level) và các yếu tố nguy cơ
phơi nhiễm với chì ở trẻ em nhập khoa Hô Hấp Bệnh Viện Nhi Đồng 2 thành phố Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu: cắt ngang trong thời gian tháng 04 ‐ 05 năm 2012 tại khoa Hô hấp Bệnh viện
Nhi Đồng 2 thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả: Có 311 trẻ tham gia nghiên cứu. Tuổi trung bình 12 tháng, nhóm tuổi dưới 5 tuổi 96,5%, trong
đó nhóm tuổi dưới 12 tháng chiếm 51,1%. Tỉ lệ nam/nữ: 1,6/1. Trẻ cư ngụ tại TPHCM 46,9%. BLL trung bình
3,6 (1,65 – 6,1) μg/dl, BLL > 5 μg/dl 35,4%, BLL ≥ 10 μg/dl 7,1%. Có 0,3 % gia đình sử dụng bình acquy cũ để
làm vật dụng trong nhà, 16,4% trẻ có cha mẹ hàn chì tại nơi làm việc. Tỉ lệ trẻ sống gần giao lộ đông đúc 27,3%.
Trong gia đình có người từng dùng thuốc dân gian hoặc cổ truyền 40,5%. BLL trung bình của nhóm dưới 12
tháng tuổi thấp nhất 1,65(1,65 – 3,6) μg/dl, BLL trung bình nhóm cư ngụ tại Bình Dương cao nhất 5,4 (1,65 –
7,9) μg/dl, BLL trung bình nhóm có đi học 5,7 (4,1 – 8,15) μg/dl và nhóm có cha mẹ tái chế hoặc nấu chảy kim
loại tại nơi làm việc 5,5 (4,4 – 6,5) μg/dl. BLL > 5 μg/dl liên quan có ý nghĩa với nhóm tuổi 12 – 24 tháng (OR =
5,85; Khoảng tin cậy (KTC) 95%; 3,15 – 10,85), nhóm có đi học (OR = 4,61; KTC 95%; 2,67 – 7,99), nhóm cư
ngụ tại Bình Dương (OR = 3,04; KTC 95%; 1,63 – 5,68), nhóm sử dụng nước mưa (OR = 2,36; KTC 95%; 0,98
– 5,67) và nhóm có cha mẹ tái chế hoặc nấu chảy kim loại tại nơi làm việc (OR = 4,08; KTC 95%; 0,94 – 17,64).
Kết luận: BLL trung bình trong nghiên cứu cao, tương đương với các nước trong khu vực Đông Nam
Á và Trung Quốc. Các yếu tố lứa tuổi, nơi cư trú, đi học, nguồn nước và nghề nghiệp cha mẹ có liên quan
với BLL cao.
Từ khóa: nồng độ chì trong máu.
ABSTRACT
BLOOD LEAD LEVEL AND RISK FACTORS OF LEAD EXPOSURE IN CHILDREN
AT CHILDREN’S HOSPITAL 2
Huynh Hoang Anh, Pham Thi Minh Hong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 426 ‐ 433
Objectives: The purpose of this study was to determine blood lead level (BLL) and risk factors of lead
exposure in children admitted to the Respiratory Department, Children’s Hospital 2, Ho Chi Minh city.
Methods: A cross‐sectional study was conducted from April to May 2012 at the Respiratory Department,
Children’s Hospital 2, Ho Chi Minh city.
Results: 311 children were enrolled in this study and their mean age was 12 months. 96.5% of them were
under 5 years and 51.1% under 12 months. The male to female ratio was 1.6/1. 46.9% of them live in Ho Chi
Minh city. The average BLL was 3.6 (1.65 – 6.1) μg/dl; 35.4% of them had BLL > 5 μg/dl and 7.1% had BLL ≥
10 μg/dl. 0.3% of families used casings of old batteries inside the house for furnitures. 16.4% of parents do
* Bệnh viện Nhi Đồng 2 ** Bộ Môn Nhi, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BSNT. Huỳnh Hoàng Anh ĐT: 0902417717 Email: h_anh1311@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 427
welding at work. 27.3% of children live near a busy intersection. 40.5% of families ever used traditional
medicines or folk medicines. The lowest average BLL [1.65 (1.65 – 3.6) μg/dl] was found in children under 12
months while the highest average BLL [5.4(1.65 – 7.9)μg/dl] in children who live in Binh Duong province. The
average BLL of school children was 5.7 (4.1 – 8.15) μg/dl, children whose parents do metal recycling or melting
at work 5.5 (4.4 – 6.5) μg/dl. BLL > 5 μg/dl was significantly related to children age 12‐24 months (OR = 5.85;
CI 95%; 3.15 – 10.85), school children (OR = 4.61; CI 95%; 2.67 – 7.99), children located in Binh Duong
province (OR = 3.04; CI 95%; 1.63 – 5.68), using rainwater (OR = 2.36; CI 95%; 0.98 – 5.67) and children
whose parents do metal recycling or melting at work (OR = 4.08; CI 95%; 0.94 – 17.64).
Conclusions: The average BLL found in the study is high, similar to other Southeast Asian countries and
China. Factors including age, location, school children, source of drinking water and parental occupation were
related to the elevated BLL.
Key words: blood lead level.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngộ độc chì là một trong những bệnh tật
do môi trường phổ biến nhất, chiếm 0,6% gánh
nặng bệnh tật toàn cầu(18). Trẻ em bị ảnh hưởng
do tiếp xúc với chì nhiều hơn người lớn(4,14).
Chì ảnh hưởng đến hầu hết mọi cơ quan sống
nhưng hậu quả lâu dài chủ yếu trên hệ thần
kinh trung ương và ngoại biên(4,6). Ngưỡng
nồng độ chì trong máu an toàn theo khuyến
cáo của CDC là < 10 μg/dl, và đến 2012
ngưỡng này được xem < 5 μg/dl(6,7,8). Tuy nhiên
nồng độ chì trong máu từ 1 – 3 μg/dl có thể
liên quan với độc tính thần kinh dưới mức lâm
sàng(7). Xăng pha chì là nguồn phơi nhiễm chì
quan trọng đã dần được loại bỏ ở hầu hết các
quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, tại Trung
Quốc và các nước Đông Nam Á, các nghiên
cứu thực hiện sau khi loại bỏ xăng pha chì cho
thấy nồng độ chì trong máu trung bình và tỉ lệ
> 10 μg/dl còn rất cao. Điều này chứng tỏ
ngoài xăng pha chì còn rất nhiều nguồn phơi
nhiễm chì khác. Việt Nam đã loại bỏ xăng pha
chì từ năm 2001(15), nhưng cho đến hiện nay
chưa có các nghiên cứu cũng như chương trình
giám sát nào về nồng độ chì trong máu. Từ
thực tiễn đó chúng tôi thực hiện nghiên cứu
này nhằm khảo sát nồng độ chì trong máu và
các yếu tố nguy cơ phơi nhiễm chì hiện tại của
trẻ em nước ta.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Cắt ngang
Dân số nghiên cứu
Trẻ em từ 1 tháng đến 15 tuổi nhập khoa Hô
hấp Bệnh viện Nhi Đồng 2 thành phố Hồ Chí
Minh trong thời gian tháng 04 ‐ 05 năm 2012.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Trẻ em tuổi từ 1 tháng ‐15 tuổi nhập khoa
Hô hấp, Bệnh viện Nhi Đồng 2, thành phố Hồ
Chí Minh, trong thời gian tháng 4 ‐ tháng 5 năm
2012 và cha mẹ đồng ý tham gia nghiên cứu.
Người chăm sóc trẻ sẽ được mời để tham vấn về
tình trạng nhiễm độc chì. Nếu đồng ý tham gia
họ sẽ ký vào bản đồng thuận và trả lời các câu
hỏi liên quan đến nguy cơ phơi nhiễm chì. Nồng
độ chì sẽ được phân tích bằng máy Leadcare II
từ một mẫu máu xét nghiệm của trẻ tại khoa.
Tiêu chuẩn loại trừ
Không
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ tháng 04/2012 – 05/2012, có 311 trẻ thỏa
tiêu chuẩn chọn mẫu, cha mẹ trẻ được phỏng
vấn với bảng câu hỏi và sau đó trẻ sẽ được lấy
máu mao mạch để xét nghiệm BLL với máy
LeadCare II.
Nồng độ chì trong máu
Với BLL kiểm tra bằng máy LeadCare II
trong toàn bộ 311 trẻ, có BLL trung bình là 3,6
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 428
(1,65 – 6,10) μg/dl. Trong đó 201 trẻ (64,6%) có
BLL ≤ 5 μg/dl, 110 trẻ có BLL > 5 μg/dl (35,4%),
22 trẻ có BLL ≥ 10 μg/dl (7,1 %) và 9 trẻ có BLL >
20 μg/dl, 3 trẻ BLL > 35 μg/dl.
Do số lượng trẻ có BLL > 10μg/dl chiếm số
lượng ít 22 trẻ (7,1%) so với nhóm có BLL <
10μg/dl. Và vì hiện tại theo khuyến cáo mới nhất
của CDC năm 2012 chẩn đoán BLL cao khi >
5μg/dl(10) nên chúng tôi chia nhóm BLL >5μg/dl
và BLL ≤ 5μg/dl để phân tích các nguy cơ phơi
nhiễm chì của trẻ.
BLL trung bình theo nhóm tuổi
Bảng 1: BLL trung bình theo nhóm tuổi
Nhóm tuổi
(tháng) Số lượng (%) BLL
p
1 – 12 159 (51,1) 1,65 (1,65 – 3,6)
< 0,001
12 – 24 75 (24,1) 5,3 (3,63 – 7,6)
24 – 36 42 (13,5) 4,9 (1,65 – 7,4)
> 36 35 (11,3) 5,5 (3,7 – 7,9)
BLL trung bình theo giới tính
Bảng 2: BLL trung bình theo giới tính
Giới BLL (µg/dl) p
Nam 3,7 (1,65 – 6,52)
0,786
Nữ 3,6 (1,65 – 5,8)
BLL theo nơi cư ngụ
Bảng 3: BLL theo nơi cư ngụ
Tỉnh/ Thành Phố N (%) BLL p
Bình Dương 59 (19%) 5,4 (1,65 – 7,9)
0,007
Bà Rịa – Vũng Tàu 16 (5,1%) 4,6 (1,65 – 4,08)
Đồng Nai 39 (12,5%) 4 (1,65 – 7,7)
Dak Nông 5 (1,6%) 3,8 (1,65 – 8,7)
Lâm Đồng 8 (2,6%) 3,6 (1,65 – 4,38)
Toàn bộ 311 (100%) 3,6 (1,65 – 6,10)
TPHCM 146 (46,9%) 1,7 (1,65 – 5,35)
Bình Phước 21 (6,8%) 1,7 (1,65 – 4,35)
Long An 2 (0,6%)
Khác * 15 (4,8%) 1,7 (1,65 – 7,33)
BLL trung bình theo các nguy cơ phơi nhiễm chì
Bảng 4: BLL trung bình theo các nguy cơ phơi nhiễm chì
Nguy cơ về phơi nhiễm chì BLL p
Trẻ có đi học không Có 5,7(4,10– 8,15)
<0,001
Không 1,65(1,65– 5,1)
Trước đây hoặc hiện nay có ai trong gia đình tham gia vào
việc tái chế chì không
Có 4,3(2,3 – 5,6)
0,906
Không 3,6(2,5 – 5,7)
Cha mẹ trẻ có làm việc tại trạm xăng hoặc tại gara sữa
chữa xe hơi không
Không 3,7(1,65 – 6,5)
Có 1,65(1,65– 5,3)
Cha mẹ trẻ có làm đồ gốm hoặc sơn màu đồ gốm không Không 3,6(1,65– 6,43)
0,26
Có 5(3,2 – 7,12)
Cha mẹ trẻ có hàn chì tại nơi làm việc không Không 3,65(2,1 – 6,5)
Có 3,6(2,23 – 6,3)
Cha mẹ trẻ có tái chế hoặc nấu chảy kim loại tại nơi làm
việc không
Không 3,6(1,65 – 5,8)
0,03
Có 5,5(4,4 – 6,55)
Trình độ văn hóa cao nhất trong gia đình Mù chữ 3,8(3,3 – 7,8)
Đi học 3,8(1,65– 8,01)
Trung học phổ thông 3,6(1,65 – 7,9)
Đại học 1,65(1,65– 5,3)
Sau đại học 3,33(1,8–5,02)
Nguồn nước Nước máy 1,65(1,65– 5,2)
0,164
Nước đóng chai 4(1,65 – 6,2)
Nước mưa 5,4(3,28– 7,95)
Nước giếng 3,65(1,65– 6,68)
Nhà có được sơn bên trong không Không 3,6(1,65 – 5,4)
Có 3,7(1,87 – 5,6)
Không biết 4,68(2,1 – 6,89)
Nhà có được sơn bên ngoài không Không 3,4(2,1 – 5,89)
Có 3,7(2,5 – 6,56)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 429
Nguy cơ về phơi nhiễm chì BLL p
Không biết 4,68(2,9 – 7,5)
Trẻ có sống gần đường phố hoặc giao lộ đông đúc không Không 3,65(1,65 – 6,5)
0,523
Có 3,6(1,65 – 6,35)
Trong gia đình có ai từng dùng thuốc cổ truyền hoặc dân
gian không
Không 3,55(1,65 – 5,8)
0,361
Có 3,8(1,65 – 6,2)
Mối liên quan giữa các yếu tố nguy cơ với BLL cao (> 5 μg/dl)
Bảng 5: Mối liên quan giữa các yếu tố nguy cơ với BLL cao (> 5 μg/dl)
Các biến số N (%) N = 311 Odds Ratio và khoảng tin cậy 95% (*) P(*)
Giới Nam 67 (21,54) 1
Nữ 43 (13,83) 0,99 (0,61 – 1,6) 0,961
Nhóm tuổi
(tháng)
1 – 12 159 (51) 1
12 – 24 75 (24) 5,85 (3,15 – 10,85) < 0,001
24 – 36 42 (14) 2,62 (1,57 – 3,27) < 0,001
> 36 35 (11) 2,14 (1,63 – 2,8) < 0,001
Trẻ có đi học
47 (15,11) 4,61 (2,67 – 7,99) < 0,001
Trẻ sống gần đường phố hoặc giao lộ
đông đúc 27 (9) 0,8 (0,47 – 1,36) 0,42
Trong gia đình có người dùng thuốc cổ
truyền hoặc dân gian 47 (15,11) 1,1 (0,69 – 1,76) 0,68
Cha mẹ trẻ có hàn tại nơi làm việc 22 (7) 1,47 (0,87 – 2,51) 0,15
Cha mẹ trẻ có tái chế hoặc nấu chảy kim
loại tại nơi làm việc 5 (2) 4,08 (0,94 – 17,64) 0,04
Nguồn nước
uống
Nước máy 103 (33,1) 1
Nước đóng chai 97 (33,1) 2 (1,12 – 3,69) 0,05
Nước mưa 6 (1,9) 2,36 (0,98 – 5,67) 0,02
Nước giếng 105 (33,8) 1,16 (0,95 – 1,41) 0,15
Địa chỉ TPHCM 146 (46,9) 1
Bình Dương 59 (19) 3,04 (1,63 – 5,68) < 0,001
Đồng Nai 39 (12,5) 1,43 (1 – 2,06) 0,05
Long An 2 (0,6) 0,001 1
Bà Rịa –Vũng Tàu 16 (5,1) 0,86 (0,62 – 1,2) 0,37
Bình Phước 21 (6,8) 0,89 (0,71 – 1,12) 0,33
Dak Nông 5 (1,6) 0,92 (0,63 – 1,33) 0,65
Lâm Đồng 8 (2,6) 0,86 (0,63 – 1,16) 0,32
Khác 15 (4,8) 1,1 (0,96 – 1,26) 1,18
(*) Odd Ratio, khoảng tin cậy 95% và p được xác định bởi phân tích hồi qui logistic đơn biến.
BÀN LUẬN
Nhóm trẻ trong nghiên cứu của chúng tôi là
cắt ngang tại khoa Hô Hấp‐ Bệnh Viện Nhi
Đồng 2, nên chúng tôi không nhắm vào đối
tượng có nguồn phơi nhiễm cụ thể và rõ ràng
nào. Chúng tôi chọn khoa Hô Hấp vì đối với
những ảnh hưởng của chì lên cơ thể thì hầu như
không thấy ghi nhận có hệ hô hấp, mặc dù
đường hô hấp là một trong những con đường
tiếp xúc trong chu trình ngộ độc chì. Và chúng
tôi thu thập mẫu máu làm xét nghiệm chì từ
mẫu máu xét nghiệm bệnh nền làm trẻ phải
nhập viện. Bên cạnh thu thập kết quả BLL của
tất cả những trẻ trong nghiên cứu, chúng tôi còn
phỏng vấn trực tiếp cha mẹ trẻ về những yếu tố
nguy cơ phơi nhiễm có thể dẫn đến BLL ở mức
độ cao như lứa tuổi, địa chỉ nhà, trẻ có đi học (có
tiếp xúc với môi trường ngoài nhà), các yếu tố
nguy cơ nghề nghiệp về phơi nhiễm chì, của trẻ
lẫn những người cùng sống trong một nhà, các
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 430
nguồn có khả năng là nguồn phơi nhiễm chì
trong gia đình như nguồn nước, sơn nhà, môi
trường sống gần đường phố hoặc giao lộ đông
đúc, và thói quen dùng thuốc cổ truyền, thuốc
dân gian hay sản phẩm không rõ nguồn gốc
cũng như chưa được kiểm định về mức độ chì
an toàn trong sản phẩm điển hình là đồ chơi trẻ
em
BLL trung bình
Trong nghiên cứu của chúng tôi, số trẻ có
BLL > 10μg/dl là 7,1%. Trong đó BLL trung bình
là 3,6 (1,65 – 6,10) μg/dl. So với kết quả từ nghiên
cứu phơi nhiễm chì của trẻ em ở làng tái chế chì
Đông Mai, tỉnh Hưng Yên năm 2012, tỷ lệ BLL >
10μg/dl là 100% và BLL trung bình là 34,8
μg/dl(17), những kết quả từ nghiên cứu của chúng
tôi là thấp hơn nhiều. Điều này có thể lý giải
được là do sự khác nhau trong cách chọn mẫu.
Chúng tôi chọn mẫu không nhắm vào những
đối tượng có nguy cơ phơi nhiễm chì rõ ràng, cố
gắng chọn mẫu có thể đại diện cho cộng đồng
và ít bị nhiễu nhất. Còn trong nghiên cứu của
Wallace, dân số mẫu là trẻ em sống trong làng
tái chế chì, vì thế trẻ có nguồn phơi nhiễm chì
trực tiếp và rõ ràng là công việc tái chế chì.
Nghiên cứu tại Đông Mai đã cho thấy rằng các
hoạt động tái chế chì tại nhà có liên quan với
mức độ BLL cao có ý nghĩa thống kê (p=0,007)(17).
Do đó kết quả từ nghiên cứu này với nghiên cứu
của chúng tôi là khác biệt nhiều về BLL trung
bình.
Vì tính tương đồng về địa dư, khí hậu, các
đặc điểm kinh tế của các nước trong khu vực,
nên với kết quả tần suất BLL > 10μg/dl trong
nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy cũng tương
đồng với một số nước trong khu vực Đông Nam
Á và Trung Quốc.
Bảng 6: Tỉ lệ BLL > 10μg/dl và BLL trung bình một
số nước trong khu vực
Quốc gia Số lượng
Tỉ lệ BLL
>10µg/dl (%)
BLL trung bình
(µg/dl)
Việt Nam 311 7,1 3,6
Thái Lan(10) 296 8,1 5.7
Malaysia(11) 346 6,4 5.3
Philippine(15) 1861 21(*) 6.9
Indonesia 1(1) 397 32(**) 8.6
Indonesia 2(12) 108 7,5 6.8
Trung Quốc(13) 1344 8 6.2
(**) Bảng trên ta thấy tần suất BLL > 10μg/dl
ở Indonesia 1 là cao vượt bậc, 32%. Đây là kết
quả từ nghiên cứu BLL và các yếu tố nguy cơ
ngộ độc chì trong số những trẻ ở Jakarta vào
tháng 06/2001, trước khi chính phủ nước này
thực hiện loại bỏ chì trong xăng vào 07/2001.
Những nghiên cứu còn lại được thực hiện sau
khi đã loại bỏ xăng pha chì ở các nước này một
thời gian.
(*) Mặc dù nghiên cứu ở Philippin thực hiện sau
khi nước này đã loại bỏ xăng pha chì nhưng tỉ lệ BLL
> 10μg/dl ở nước này cũng còn cao. Đây là kết quả từ
nghiên cứu đánh giá BLL trong số những trẻ sống tại
vùng nông thôn tại Philippin, trong khi các nghiên
cứu còn lại không tập trung vào vùng nông thôn.
BLL trung bình theo nhóm tuổi
Tuổi trung bình tham gia trong nghiên cứu
của chúng tôi là 12 (6 – 24) tháng. Do đặc thù của
bệnh lý đường hô hấp thường gặp ở những trẻ <
5 tuổi mà chúng tôi chọn mẫu là những trẻ nhập
vào khoa Hô Hấp nên lứa tuổi < 5 tuổi chiếm tỷ
lệ rất cao 96,5% (300/311 trẻ). Qua phân tích kết
quả, chúng tôi nhận thấy với yếu tố nhóm tuổi là
một trong những yếu tố liên quan có ý nghĩa với
BLL và mức độ BLL cao (> 5μg/dl). Với BLL
trung bình 5,3 (3,63 – 7,6) μg/dl cao nhất ở lứa
tuổi 12 – 24 tháng tuổi so với các nhóm tuổi còn
lại. Ngoài ra BLL ở 2 nhóm tuổi 24 – 36 và > 36
tháng tuổi (đa phần từ 36 – 60 tháng) đều cao
hơn so với nhóm tuổi 1 – 12 tháng. Điều này phù
hợp với đặc tính hành vi tay miệng và sự hoạt
động bên ngoài nhà nhiều hơn ở những lứa tuổi
này làm gia tăng nguy cơ phơi nhiễm chì.
Tương tự chúng tôi cũng tìm thấy kết quả
này trong nghiên cứu đánh giá BLL trong số
những trẻ sống tại vùng nông thôn tại
Philippin(15,1) cho thấy BLL tăng từ sau 12 tháng
tuổi đến 30 – 36 tháng và sau đó giảm dần.
BLL trung bình theo giới tính
Chúng tôi có trẻ nam chiếm 61,1%, nữ chiếm
38,9%, tuy nhiên chúng tôi không thấy có sự liên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 431
quan giữa nam hoặc nữ với mức độ BLL cao.
Cũng như trong nghiên cứu dự đoán mức
độ BLL cao ở trẻ em Thái Lan năm 2005(10), từ kết
quả nghiên cứu cho thấy yếu tố giới tính không
liên quan với mức độ BLL cao.
Ngược lại, năm 2011 trong nghiên cứu cắt
ngang mô tả trên ảnh hưởng của những yếu tố
kinh tế xã hội lên sự phơi nhiễm chì ở trẻ em
theo giới tính tại Serpong, Indonesia, đã cho
thấy có sự khác biệt về giới tính với mức độ BLL,
cụ thể là BLL ở trẻ nam cao hơn. Với BLL ở trẻ
nam cao gấp 2,63 lần so với trẻ nữ (p < 0,05). Sự
khác biệt về BLL giữa nam và nữ được giải thích
là do sự khác biệt về hành vi giữa trẻ nam và trẻ
nữ. So với trẻ nữ thì các trẻ nam có khuynh
hướng thích chơi bên ngoài nhà nhiều hơn, các
hành vi thói quen tay miệng dẫn đến nuốt các
chất có chứa chì cũng sẽ tăng lên(12).
Tương tự như trên, trong nghiên cứu BLL
và sự liên quan với các yếu tố dân số ‐ xã hội
học trong số những trẻ mầm non ở vùng Đông
Nam của Trung Quốc năm 2012, cũng cho thấy
BLL ở trẻ nam cao hơn nữ và sự khác biệt này
cũng được giải thích như trong nghiên cứu tại
Indonesia(13). Với BLL ở trẻ nam cao gấp 1,77
lần so với trẻ nữ trong nhóm có BLL > 10μg/dl
(p = 0,011) và 1,55 lần trong nhóm có BLL > 5
μg/dl (p = 0,001).
Tuy nhiên, những giải thích cho sự khác biệt
BLL theo giới tính trong 2 nghiên cứu trên chỉ là
những giả thuyết theo y văn, thực tế họ không
thu thập các thông tin về hành vi, hoạt động tay
miệng của nhóm trẻ trong nghiên cứu. Chúng
tôi cũng không thu thập thông tin này, nên có
thể giữa trẻ nam và nữ trong nghiên cứu của
chúng tôi không có sự khác biệt về các hoạt
động chơi bên ngoài nhà cũng như các hành vi
tay miệng do đó dẫn đến kết quả BLL không
khác nhau theo giới tính.
BLL theo nơi cư ngụ
Chúng tôi chỉ tìm thấy mối liên quan có ý
nghĩa thống kê giữa mức độ BLL cao ở những
trẻ sinh sống tại các tỉnh Bình Dương và Đồng
Nai so với trẻ sinh sống tại TPHCM. Chúng tôi
chưa thể kết luận được có sự khác biệt về BLL
giữa trẻ sống tại khu vực thành thị so với trẻ
sống tại vùng nông thôn hay không.
Những kết quả thu được từ bộ câu hỏi
phỏng vấn, qua phân tích kiểm định chúng tôi
còn nhận thấy những yếu tố nguy cơ liên quan
với mức độ BLL cao có ý nghĩa thống kê trong
nghiên cứu này gồm: trẻ có đi học, nguồn nước
uống của gia đình là nước mưa và nghề nghiệp
của cha hoặc mẹ có tái chế hoặc nấu chảy kim
loại tại nơi làm việc.
BLL trung bình theo các nguy cơ phơi
nhiễm chì
Việc trẻ đi học có liên quan ý nghĩa với mức
độ BLL cao có thể giải thích là ngoài môi trường
tại nhà, trẻ còn tiếp xúc thêm với những môi
trường bên ngoài khác dẫn đến tăng nguy cơ
phơi nhiễm với các nguồn chì.
Kế tiếp là nguồn nước sử dụng, trong nghiên
cứu của chúng tôi nhận thấy rằng sử dụng nước
mưa một yếu tố liên quan với mức độ BLL cao là
không rõ ràng khi phân tích hồi quy đa biến.
Các thông tin về mức thu nhập của gia đình
không được thu thập trong nghiên cứu này,
nhưng qua nguồn nước sử dụng như nước mưa
có thể gián tiếp gợi ý tình trạng kinh tế thiếu
thốn hoặc là trẻ sống ở vùng nông thôn. Đối với
trình độ học vấn ta thấy, trình độ học vấn cao
nhất ở những hộ gia đình sử dụng nước mưa
cũng không cho thấy thấp hơn những hộ gia
đình sử dụng nguồn nước khác, vì vậy trình độ
học vấn không là yếu tố liên quan với mức độ
BLL cao trong nghiên cứu này. Hơn nữa chúng
tôi thu thập số liệu trong tháng 4 và tháng 5 là
những tháng mùa nắng tại nước ta, tức là trong
thời gian này trẻ không phơi nhiễm với nước
mưa nếu ta xem nước mưa là yếu tố nguy cơ. Vì
thế có thể giải thích tình trạng BLL cao với sử
dụng nguồn nước mưa là do: các dụng cụ để dự
trữ nước có chứa chì, hoặc dụng cụ lấy nước có
chứa hoặc được hàn chìTuy nhiên nghiên cứu
này của chúng tôi không bao gồm việc khảo sát
và đo lường nồng độ chì từ những vật dụng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em 432
cũng như nguồn nước sử dụng trong gia đình,
và môi trường sống tại nhà hoặc xung quanh
nhà trẻ. Do đó làm hạn chế việc tìm ra các yếu tố
nguy cơ phơi nhiễm chì thực sự.
Với yếu tố nghề nghiệp của cha hoặc mẹ liên
quan đến việc tái chế hoặc nấu chảy kim loại tại
nơi làm việc làm tăng BLL gấp 4,08 lần so với
nhóm trẻ có cha mẹ làm nghề không liên quan
đến việc tái chế hoặc nấu chảy kim loại tại nơi
làm việc (p = 0,04). Vì những trẻ này có nguồn
phơi nhiễm với chì rõ ràng nên có thể giải thích
được kết quả này.
Tóm lại những yếu tố liên quan có ý nghĩa
với mức độ BLL cao trong nghiên cứu của chúng
tôi bao gồm tuổi, trẻ có đi học, nguồn nước sử
dụng là nước mưa và nghề nghiệp của cha mẹ
có liên quan với tái chế hoặc nấu chảy kim loại
tại nơi làm việc.
Nhưng các yếu tố nguy cơ này chưa thể qui
cho dân số trẻ em nói chung vì cách chọn mẫu
trong nghiên cứu này không mang tính đại diện
cho cộng đồng. Bảng phỏng vấn của chúng tôi
không điều tra địa chỉ trẻ sinh sống cụ thể thuộc
thành thị hay nông thôn, một trong những yếu
tố liên quan với nguồn phơi nhiễm chì. Chính vì
thế, mặc dù trẻ đến từ các tỉnh thì vẫn có khả
năng chúng sống trong khu vực thành thị. Cụ
thể với số trẻ đến từ TPHCM chiếm 46,9% thì chỉ
có 18,5% số trẻ là sống gần đường phố hoặc giao
lộ đông đúc, trong khi 53,1% số trẻ đến từ các
tỉnh thì có 27,3% trẻ sống gần đường phố hoặc
giao lộ đông đúc. Điều này có thể hiểu là do trẻ
sống tại TPHCM đa phần trong các hẻm, không
gần đường giao lộ chính.
Cũng có thể lập luận rằng nhóm trẻ trong
nghiên cứu này đang bệnh và phải nhập viện, có
thể không mang tính đại diện cho dân số chung.
Thế nhưng việc chúng tôi chọn khoa Hô Hấp để
lấy mẫu vì với nhóm trẻ nhập viện liên quan
đến các vấn đề hô hấp sẽ không có bị nhiễu bởi
các triệu chứng liên quan với mức độ BLL cao, vì
vậy thực tế các triệu chứng bệnh hiện tại ở nhóm
trẻ này là độc lập với những ảnh hưởng của chì
lên cơ thể. Bên cạnh đó, nếu trẻ nhập viện
thường xuyên thì có thể giảm tiếp xúc với các
nguồn phơi nhiễm chì trong môi trường tại nhà
hoặc môi trường xung quanh trẻ sống. Do hiện
tại chúng tôi chưa thể thực hiện nghiên cứu này
ra cộng đồng được vì những lý do chi phí, nhân
lực cũng như tính khả thi. Vì thế dân số nghiên
cứu của chúng tôi tuy không phải là nhóm dân
số mẫu đại diện cho cộng đồng nhưng là nhóm
dân số ít bị nhiễu nhất.
Cho đến thời điểm hiện tại, trong cả nước
chúng tôi chỉ tìm thấy một nghiên cứu về phơi
nhiễm chì của trẻ em ở làng tái chế chì Đông
Mai, tỉnh Hưng Yên năm 2012. Còn lại chưa có
nghiên cứu nào khảo sát và đánh giá tình trạng
phơi nhiễm chì ở trẻ em nước ta. Tóm lại, mặc
dù nhóm dân số trong nghiên cứu này chưa thể
kết luận là đại diện cho cộng đồng, nhưng với
việc cố gắng chọn mẫu nghiên cứu thuận lợi
nhất trong quá trình đánh giá xem trẻ em nước
ta có đang có những nguy cơ và ảnh hưởng của
việc phơi nhiễm với chì hay không, chúng tôi hy
vọng nước ta nói chung và người dân nói riêng
sẽ nhận thức được và có thái độ đúng đắn nhất
trong sự ảnh hưởng cũng như ngăn ngừa tình
trạng phơi nhiễm chì ở trẻ em nước ta.
Bảng 7: Yếu tố nguy cơ phơi nhiễm chì có liên quan
với BLL cao trong các nghiên cứu
Nghiên
cứu
Các yếu tố nguy cơ phơi nhiễm chì có liên
quan với BLL cao
Chúng tôi
(2012)
Tuổi, nơi cư trú, đi học, sử dụng nước mưa
và cha mẹ có tái chế hoặc nấu chảy kim loại
tại nơi làm việc
Thái Lan
(2005)
Tuổi, mảnh sơn tường bong tróc trong nhà,
thói quen ăn các mảnh vụn từ sơn, và yếu tố
địa lý
Indonesia
(2012)
Giới
Trung
Quốc
(2012)
Tuổi, giới nam, sống tại những vùng đông
đúc và có người hút thuốc trong nhà, trình độ
học vấn của mẹ, nghề nghiệp của cha
Philippine
(2007)
Tuổi, vật liệu làm mái nhà, nguồn nước,
hemoglobin, tiền sử có uống sữa mẹ, sử
dụng điện thoại di động và địa chỉ nơi sinh
sống
HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI
Do thiết kế bảng phỏng vấn của chúng tôi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhi Khoa 433
còn thiếu một số yếu tố nguy cơ nguồn phơi
nhiễm, nghiên cứu chỉ là cắt ngang mô tả mà
không khảo sát và đo lường nồng độ chì thực tế
từ môi trường trẻ sinh sống nên chúng tôi chưa
xác định được những yếu tố nguy cơ phơi
nhiễm với chì một cách thực tế.
Do cách chọn mẫu nghiên cứu của chúng tôi
là nhóm mẫu ít bị nhiễu nhất nên kết quả nghiên
cứu chưa đại diện được cho cộng đồng.
KẾT LUẬN
BLL trung bình trong nghiên cứu cao, tương
đương với các nước trong khu vực Đông Nam Á
và nước láng giềng Trung Quốc. Các yếu tố như
lứa tuổi, nơi cư trú, đi học, nguồn nước và nghề
nghiệp cha mẹ có liên quan với BLL cao.
Cám ơn Đơn vị Sức khỏe Môi trường Nhi
của Đại học Washington Hoa Kỳ đã tài trợ cho
chúng tôi thực hiện nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Albalak R, Noonan G, Buchanan S., Flanders WD, Gotway‐
Crawford C, Kim D, Jones RL, Sulaiman R, Blumenthal W,
Tan R, Curtis G, McGeehin MA (2002). Blood lead levels and
risk factors for poisoing among children in Jakarta,
Indonesia.The science of the Total Environment, 301: 75 – 85.
2. American Academy of Pediatrics Committee on
Environmental Health (2003). Lead. In: Puth A. Etzel,
Pediatric environmental health, 2nd ed., pp. 249 – 266. Elk
Grove Village, USA.
3. Bellinger DC, Bellinger AM (2006). Childhood lead poisoning:
the torturous path from science to policy. Journal of Clinical
Investigation, 116(4): 853–857.
4. Bellinger DC, Stiles KM, Needleman HL (1992). Low‐level
lead exposure, intelligence and academic achievement: a
long‐term follow‐up study. Pediatrics, 90(6): 855–861.
5. Canfield RL, et al (2003). Intellectual impairment in children
with blood lead concentrations below 10 microg per deciliter.
New England Journal of Medicine, 348(16): 1517–1526.
6. CDC (1997). Childhood Lead Poisoning in the United States.
Screening Young Children for Lead Poisoning, US
Department of Health and Human Services, Public Health
Service, 13 – 20.
7. CDC (2005). Preventing lead poisoning in young children.
Atlanta, GA, Department of Health and Human Services.
8. CDC (2007). Interpreting and Managing Blood Lead Levels:
Recommendations of CDCʹs Advisory Committee on
Childhood Lead Poisoning Prevention. Morbidity and
Mortality Weekly Report.
9. CDC (2011). Fourth national report on human exposure to
environmental chemicals. Atlanta, GA, Department of Health
and Human Services, 54.
10. Chomchai C, Padungtod C, Chomchai S (2005). Predictors of
Elevated Blood Lead Level in Thai Children: A Pilot Study
Using Risk Assessment Questionnaire. J Med Assoc Thai, 88
(8), 53 – 59.
11. Hashim JH, Hashim Z, Omar A, Shamsudin SB (2000). Blood
Lead Levels of Urban and Rural Malaysian primary school
children. Asia Pac J Public Health, 12(2): 65 – 70.
12. Iriani D, Matsukawa T, et al (2012). Cross‐sectional Study on
the Effects of Socioeconomic Factors on Lead Exposure in
Children by Gender in Serpong, Indonesia. Environmental
Research and Public Health, 9: 4135 – 4149.
13. Liu J, Ai Y, McCauley L, Pinto‐Martin J, Yan C, Shen X,
Needleman H (2012). Blood lead levels and associated
sociodemographic factors among preschool children in the
South Eastern region of China. Paediatr Perinat Epidemiol,
26(1): 61 – 69.
14. Mahaffey KR (1995). Nutrition and lead: strategies for public
health. Environmental Health Perspectives, 103(6): 191–196.
15. Nguyễn Tấn Dũng (2000), Chỉ thị 24/2000/CT‐TTg ngày 23
tháng 11 năm 2000 về việc triển khai sử dụng xăng không pha
chì ở Việt Nam.
16. Riddel T, Solon O, Quimbo SA, Tan CMC, Butrick E, Peabody
JW (2007). Elevated blood lead levels among children living
in the rural Philippines. Bulletin of the World Health
Organization, 85: 674 – 680.
17. Wallace R (2012). Childhood Lead Exposure in a Vietnamese
Battery Recycling Village. University of Washington.
18. WHO (2009). Global health risks: mortality and burden of
disease attributable to selected major risks. Geneva, World
Health Organization.
Ngày nhận bài báo: 24/10/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 01/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nong_do_chi_trong_mau_va_yeu_to_nguy_co_phoi_nhiem_chi_o_tre.pdf