Nồng độ NO3-N trong nước đầu ra và đầu vào của
cây Vạn thọ sau mỗi tuần nghiên cứu đều giống
nhau (Hình 5a), trong khi ở cây Cúc lại tăng đáng
kể so với đầu vào và cao hơn rất nhiều so với cây
Vạn thọ (p<0,05). Điều này chứng tỏ quá trình
nitrate hóa diễn ra mạnh hơn trong các thùng
trồng Cúc. Được minh chứng qua giá trị oxy hòa
tan trong nước ở các thùng trồng Cúc cao hơn so
với cây Vạn thọ (Hình 4b).
Tuy nhiên, nồng độ NH4-N trong nước đầu ra của
cây Cúc và Vạn thọ lại không khác nhau (p>0,05),
nhưng lại giảm đáng kể so với đầu vào (Hình 5b).
Sự hiện diện của tảo cùng với môi trường nhiều
oxy ở hoa Cúc (DO trong khoảng (2,9 - 5,4)
mg/L) là điều kiện thuận lợi cho quá trình nitrat
hóa xảy ra (Trang & Brix, 2014)
8 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 640 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nông nghiệp - Khả năng xử lý nước thải ao nuôi cá tra thâm canh của vạn thọ (tagetes patula l.) và cúc (chrysanthemum spp.), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 102 – 109 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology
102
KHẢ NĂNG XỬ LÝ NƯỚC THẢI AO NUÔI CÁ TRA THÂM CANH CỦA VẠN
THỌ (Tagetes patula L.) VÀ CÚC (Chrysanthemum spp.)
Ngô Thụy Diễm Trang1, Lâm Nguyễn Ngọc Hoa1
1Trường Đại học Cần Thơ
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 13/08/2015
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
17/10/2015
Ngày chấp nhận đăng: 09/2016
Title:
A treatment capacity of Tagetes
patula L., and Chrysanthemum
spp. for intensive catfish
wastewater
Từ khóa:
Vạn thọ Pháp lùn, hoa Cúc,
nước thải thủy sản, cá tra thâm
canh, sinh khối, đạm, lân
Keywords:
French marigold,
Chrysanthemum spp.,
aquaculture wastewater,
intensive striped catfish,
biomass, nitrogen, phosphorus
ABSTRACT
The aim of the research is to evaluate ability in wastewater treatment from
intensive catfish culture of Tagetes patula L. and Chrysanthemum spp. by
measuring growth rate, biomass, and nutrient removal capacity. The plants
were grown in hydroponic condition in which nutrient solution was wastewater
from fish pond for 43 days. T. patula grew very well with no mortality, while
Chrysanthemum spp. had no growth rate and almost died at the end of the
experiment. Moreover, T. patula helped to remove an average of 86% PO4-P
and TP, and ca. 95% NH4-N from influent. The study results indicated that the
T. patula highly adapted to hydroponic culture and it had high potential for
purifying fishpond wastewater.
TÓM TẮT
Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá khả năng xử lý nước thải ao nuôi cá Tra
thâm canh của Vạn thọ Pháp lùn (Tagetes patula L.) và hoa Cúc
(Chrysanthemum spp.) thông qua tăng trưởng, sinh khối và khả năng loại bỏ
một số dưỡng chất trong nước thải ao cá. Cây được trồng trong điều kiện thủy
canh với dung dịch dinh dưỡng là nước thải ao nuôi cá trong vòng 43 ngày.
Vạn thọ Pháp lùn sinh trưởng rất tốt và không có cây chết, trong khi hoa Cúc
không tăng trưởng và chết hoàn toàn khi kết thúc thí nghiệm. Ngoài ra, Vạn thọ
giúp loại bỏ 86% PO4-P và TP, và khoảng 95% NH4-N trong nước thải đầu
vào. Kết quả nghiên cứu cho thấy, Vạn thọ Pháp lùn thích nghi tốt hơn trong
điều kiện thủy canh và có tiềm năng cao trong việc làm sạch nước thải ao cá.
1. GIỚI THIỆU
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) vốn là vùng
trọng điểm về sản xuất nông nghiệp và thủy sản
của cả nước. Năm 2007, vùng đã sản xuất khoảng
2.123 nghìn tấn thủy sản. Đến năm 2010, sản
lượng thủy sản đạt khoảng 2.706 nghìn tấn, tăng
583 nghìn tấn so với năm 2007 (Tổng cục Thống
kê [TCTK], 2010). Bên cạnh đó, các đối tượng
nuôi thủy sản ở ĐBSCL tương đối đa dạng, trong
các loài cá nuôi thì loài cá thuộc nhóm cá da trơn,
đặc biệt cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) là
loài cá nuôi quan trọng trong vùng và đạt sản
lượng cao (Cao Văn Thích, 2008).
Để sản xuất 1 kg cá da trơn thành phẩm, người
nông dân đã phải sử dụng trung bình khoảng 4 kg
thức ăn (Nguyễn Xuân Thành, 2003). Nhưng thực
tế chỉ khoảng 17% thức ăn được cá hấp thu và
phần còn lại (83%) hòa lẫn trong môi trường nước
trở thành các chất hữu cơ phân hủy. Theo Dương
Công Chinh và Đồng An Thụy (2009) đến năm
Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 102 – 109 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology
103
2020 sản lượng cá tra nuôi tại ĐBSCL ước tính là
1.850 nghìn tấn khi đó lượng chất thải thải ra môi
trường tương ứng là 2.368 nghìn tấn chất hữu cơ
trong đó có 93,4 nghìn tấn N; 19,5 nghìn tấn P và
khoảng 651 nghìn tấn BOD5. Nếu lượng chất ô
nhiễm này (đặc biệt là đạm, lân) không được xử lý
mà thải trực tiếp ra môi trường sẽ góp phần gây
phú dưỡng hóa, ô nhiễm nguồn nước mặt, ảnh
hưởng đến thủy sinh vật. Do đó, cần giảm thiểu
hàm lượng đạm, lân trong nước thải ao nuôi cá tra
trước khi xả thải ra môi trường là vấn đề cấp thiết.
Phương pháp sử dụng thực vật làm sạch nước thải
và chất thải qua cơ chế hấp thu dinh dưỡng, chất ô
nhiễm và kim loại vào sinh khối đã được nghiên
cứu trên nhiều loài thực vật (Brix, 1994; Kumar,
Dushenkov, Motto, và Raskin, 1995; Trang,
Schierup, và Brix, 2010). Kết hợp thực vật trong
mô hình nuôi trồng thủy sản tuần hoàn giúp làm
sạch chất ô nhiễm, dưỡng chất dư thừa trong nước
thải nuôi cá, từ đó nước được sạch hơn và tuần
hoàn lại ao nuôi cá đã được nghiên cứu thành
công ở ĐBSCL (Trang, 2009; Konnerup, Trang,
và Brix, 2011). Bên cạnh sản phẩm chính là cá,
mô hình này còn tạo ra thu nhập phụ cho người
sản xuất đó là sản phẩm thu từ hệ thống xử lý
(Graber & Junge, 2009; Trang & Brix, 2014). Tuy
nhiên, các nghiên cứu trước đây chưa tập trung
đánh giá khả năng hấp thu dinh dưỡng của các
loài hoa. Do đó việc nghiên cứu khả năng phát
triển và xử lý nước thải ao nuôi cá tra của cây họ
Cúc được nghiên cứu trong điều kiện thủy canh
với dung dịch dinh dưỡng là nước thải ao nuôi cá
tra thâm canh, để lựa chọn loài thực vật tốt nhất
kết hợp trong hệ thống bè thực vật nổi xử lý nước
thải.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với
5 lần lặp lại (Hình 1). Cây Cúc (Chrysanthemum
spp.) và Vạn thọ Pháp lùn (Tagetes patula L.)
khoảng 20 ngày tuổi được chọn gần đồng dạng và
kích cỡ, rửa sạch đất ở bộ rễ, sau đó được trồng
trong ly nhựa chứa đá mi làm chất nền để giữ bộ
rễ cây, với số lượng 3 cây /loài /thùng nhựa. Nước
từ bể nuôi cá tra thâm canh (150 con/m3) được
cung cấp cho cây trồng và đóng vai trò như dung
dịch dinh dưỡng cho cây. Lượng nước thải trung
bình là 5 L/thùng và được thay mới mỗi tuần
nhằm đảm bảo đủ dinh dưỡng cho cây tăng trưởng
bình thường.
2.2 Các chỉ tiêu theo dõi
2.2.1 Thực vật
Các chỉ tiêu tăng trưởng của cây (chiều dài thân,
rễ, trọng lượng tươi (cả cây), số lá, số chồi) được
ghi nhận cho mỗi cây trước khi trồng vào thí
nghiệm. Theo dõi và ghi nhận những biến đổi về
hình thái cây trong việc thích ứng với các điều
kiện thí nghiệm. Đếm số lượng lá, chồi mới và số
cây chết (hai tuần 1 lần). Cây được thu hoạch sau
43 ngày và được cân, đo và ghi nhận những chỉ
tiêu tương tự như trên. Cây được rửa sạch bằng
nước máy và sấy ở nhiệt độ 105 oC đến khi trọng
lượng không đổi để xác định trọng lượng khô của
rễ và thân.
Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 102 – 109 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology
104
Hình 1. Sơ đồ thí nghiệm
2.2.2 Chỉ tiêu lý - hóa nước
Nhiệt độ, pH, oxy hòa tan (DO), độ dẫn điện (EC)
trong nước được theo dõi mỗi tuần và đo tại hệ
thống thí nghiệm sau khi thu mẫu nước. Riêng các
chỉ tiêu đạm nitrate (NO3-N), đạm amôn (NH4-N),
lân hòa tan (PO4-P), và tổng lân (TP) được phân
tích tại Phòng Thí nghiệm Bộ môn Khoa học Môi
trường, Khoa Môi trường và Tài nguyên Thiên
nhiên, Đại học Cần Thơ theo các phương pháp
trong quy trình tiêu chuẩn đánh giá chất lượng
nước và nước thải (APHA et al., 1998). Mẫu nước
được thu định kỳ mỗi tuần để theo dõi chất lượng
nước thay đổi sau mỗi tuần. Chất lượng nước sau
mỗi tuần được so sánh với Phụ lục 1 và Phụ lục 2
của Thông tư số 44/2010/TT-BNNPTNT (Bộ
Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, 2010).
2.3 Phương pháp xử lý số liệu
Sử dụng phần mềm Microsoft Excel để thống kê
số liệu của các lần lặp lại của từng chỉ tiêu và sử
dụng phần mềm Statgraphic Centurion XV
(StatPoint, Inc., USA) để so sánh kết quả trung
bình giữa hai nghiệm thức theo kiểm định T-test.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 Tốc độ tăng trưởng của thực vật
Các chỉ tiêu chiều cao cây, số lá, số chồi được
theo dõi và ghi nhận 2 tuần/lần. Tăng trưởng của
thực vật được đánh giá trong 7 tuần. Đa số cây
Cúc chết trong 2 tuần đầu, có thể do khả năng
thích ứng với điều kiện thủy canh kém hơn cây
Vạn thọ. Khi bắt đầu thí nghiệm, chiều cao cây, số
lá, số chồi của cây Vạn thọ đều thấp hơn cây Cúc,
nhưng đến kết thúc thí nghiệm thì các chỉ tiêu này
đều cao hơn ở cây Vạn thọ (Hình 2a, b & c).
Cây Vạn thọ tăng trưởng chiều cao cây mạnh
trong 4 tuần đầu, và chiều cao cây tăng chậm lại ở
tuần 5 và 6 (Hình 2a). Có thể do thời điểm này
cây đã chuyển qua giai đoạn tập trung phát triển lá
và chồi, nên ở 2 tuần sau, số lá và số chồi của cây
Vạn thọ tăng vượt bậc so với những tuần trước đó
(Hình 2b & c). Sinh khối tươi và sinh khối khô cả
cây (g /cây) trung bình khi thu hoạch cây Vạn thọ
(bao gồm hoa) lần lượt là (70 ± 2,1) g/cây và
(7,18 ± 0,4) g/cây (n=15). Riêng cây Cúc chết ở
giai đoạn đầu nên sự tăng trưởng chiều cao và số
chồi đi theo chiều hướng giảm, và ở cuối thí
nghiệm, cây Cúc đã hoàn toàn chết khô nên không
xác định được tốc độ tăng trưởng sinh khối (Bảng
1; Hình 2c & 3).
2
3
4
5
1
Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 102 – 109 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology
105
Hình 2. Chiều cao cây (a), số lá (b) và số chồi (c) của cây Cúc
( ) và cây Vạn thọ ( ) theo thời gian (tuần)
Rễ của cây Vạn thọ phát triển nhanh và tốt (Hình
3), giúp cây hấp thu dinh dưỡng trong nước thải
tốt hơn để tạo sinh khối (Bảng 1). Ở cuối thí
nghiệm, rễ của Vạn thọ phát triển tốt thành chùm
((17±1) g sinh khối tươi/cây khi thu hoạch), rễ có
màu trắng là dấu hiệu của sự thích nghi và sinh
trưởng tốt của cây Vạn thọ. Trong khi rễ cây Cúc
bị thối rữa hoàn toàn, rễ có màu nâu đen (Hình 3).
Ở tuần thứ 3, Vạn thọ xuất hiện những nụ mới
(trung bình 4 nụ /cây) và đến tuần thứ 5 những nụ
hoa bắt đầu nở. Khi thu hoạch ở ngày 63 sau khi
ươm thì kích cỡ và màu sắc hoa (Hình 3) gần
tương đương với điều kiện trồng trong đất
((5,9±0,4) hoa/cây, n=15). So với kỹ thuật trồng
Vạn thọ Pháp lùn từ 60 - 65 ngày cây cho hoa với
điều kiện trồng trong đất và bón phân hữu cơ và
vô cơ (Nguyễn Xuân Linh và Nguyễn Thị Kim
Lý, 2005). Chính vì thế, điều kiện nước thải ao
nuôi cá tra có đủ dinh dưỡng đáp ứng được sự
phát triển bình thường của Vạn thọ. Người dân có
thể thu hoạch cây sau mỗi 60 ngày và có thêm thu
nhập phụ từ Vạn thọ trong khi vẫn đảm bảo điều
kiện môi trường ao nuôi.
Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 102 – 109 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology
106
Bảng 1. Tốc độ tăng trưởng trung bình của cây Vạn thọ và cây Cúc
Chỉ tiêu Vạn thọ hoa Cúc P-values (T-test)
Chiều cao cây (cm /ngày) 0,8 ± 0,01
a 0 ± 0,02b 0,000
Chiều dài rễ (cm /ngày) 0,2 ± 0,03a 0 ± 0,02b 0,09E-8
Số lá 1,7 ± 0,09a 0 ± 0,26b 0,06E-7
Số chồi 0,2 ± 0,01a 0 ± 0,01b 0,12E-8
Sinh khối (g /cây.ngày-1) 0,1 ± 0,00a 0 ± 0,01b 0,04E-12
Ghi chú: Trung bình ± Độ lệch chuẩn (n=15)
a,b: khác ký tự trong cùng 1 hàng là khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 5% dựa trên kiểm định T-test
Hình 3: Sự phát triển của Vạn thọ và hoa Cúc lúc bắt đầu và kết thúc thí nghiệm
Hình 3. Sự phát triển của Vạn thọ và hoa Cúc lúc bắt đầu và kết thúc thí nghiệm
Tóm lại, cây Vạn thọ thích nghi tốt trong điều
kiện thủy canh với dung dịch dinh dưỡng là nước
thải ao nuôi cá tra thâm canh, cây tăng trưởng tốt
và tạo hoa ở cuối thí nghiệm. Điều đó chứng tỏ
rằng dinh dưỡng trong nước thải ao cá đủ cho cây
Vạn thọ sinh trưởng bình thường mà không cần
thêm phân bón.
3.2 Nhiệt độ, pH, oxy hòa tan, độ dẫn điện
trong nước
Giá trị pH trong nước thải nuôi cá sau khi xử lý
của hai loài hoa qua các tuần thu mẫu có xu
hướng cao hơn trong nước thải đầu vào, có thể do
tảo phát triển trong các thùng trồng cây thí
nghiệm, một phần làm cho pH sau mỗi tuần (đầu
ra) cao hơn (Hình 4a). Giá trị pH trung bình của
cây hoa Cúc (8,05) cao hơn giá trị pH của cây
Vạn thọ Pháp lùn (7,63) (p> 0,05), có thể do cây
Cúc không tăng trưởng tốt để phủ hết bề mặt
thùng trồng cây so với Vạn thọ, đã tạo ra nhiều
khoảng trống cho ánh sáng chiếu vào tạo điều
kiện cho tảo phát triển nhiều hơn. Nhìn chung, giá
trị pH nước sau mỗi tuần ở hai loại cây nằm trong
khoảng tối ưu theo yêu cầu chất lượng nước cho
cá tra phát triển.
Bắt đầu Bắt đầu Thu hoạch Thu hoạch
Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 102 – 109 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology
107
Hình 4. Giá trị pH (a), DO (b), nhiệt độ (c), EC (d) trong nước thải đầu vào ( ) và đầu ra của cây hoa Cúc ( )
và Vạn thọ Pháp lùn ( ) qua các tuần thu mẫu
Nồng độ oxy hòa tan (DO) trong nước thải đầu ra
có xu hướng cao hơn so với đầu vào ở cả hai loại
hoa (Hình 4b), ngoại trừ ở tuần thu mẫu thứ 4, và
cao hơn giới hạn cho phép về yêu cầu chất lượng
nước trong ao nuôi thâm canh cá tra (> 2,0 mg/L).
Nồng độ DO trong nước thải đầu ra ở cây Cúc cao
hơn so với Vạn thọ, do cây Cúc không phát triển
tốt trong điều kiện thủy canh, bề mặt phủ của cây
ít, tảo phát triển trong nước nhiều hơn, có thể là
nguyên nhân làm cho DO trong nước cao hơn,
quan sát ghi nhận tương tự cho giá trị pH (Hình
4a).
Riêng nhiệt độ trong thời gian thí nghiệm ở đầu ra
và đầu vào của cả hai nghiệm thức dao động
nhiều và nằm trong khoảng (24,9 - 30,6) oC.
Không có sự khác biệt về nhiệt độ nước của hai
loại hoa sau mỗi tuần thu mẫu (Hình 4c).
Không có sự khác biệt về độ dẫn điện (EC) trong
nước giữa hai loại hoa nghiên cứu, nhưng so với
đầu vào thì thấp hơn nhiều, cho thấy rằng các
muối hòa tan trong nước thải đầu vào giảm đi
(Hình 4d).
3.3 Nồng độ NO3-N, NH4-N, PO4-P và TP
trong nước
Nồng độ NO3-N trong nước đầu ra và đầu vào của
cây Vạn thọ sau mỗi tuần nghiên cứu đều giống
nhau (Hình 5a), trong khi ở cây Cúc lại tăng đáng
kể so với đầu vào và cao hơn rất nhiều so với cây
Vạn thọ (p<0,05). Điều này chứng tỏ quá trình
nitrate hóa diễn ra mạnh hơn trong các thùng
trồng Cúc. Được minh chứng qua giá trị oxy hòa
tan trong nước ở các thùng trồng Cúc cao hơn so
với cây Vạn thọ (Hình 4b).
Tuy nhiên, nồng độ NH4-N trong nước đầu ra của
cây Cúc và Vạn thọ lại không khác nhau (p>0,05),
nhưng lại giảm đáng kể so với đầu vào (Hình 5b).
Sự hiện diện của tảo cùng với môi trường nhiều
oxy ở hoa Cúc (DO trong khoảng (2,9 - 5,4)
mg/L) là điều kiện thuận lợi cho quá trình nitrat
hóa xảy ra (Trang & Brix, 2014), do đó hầu như
Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 102 – 109 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology
108
NH4-N trong nước đầu vào đã chuyển hết sang
NO3-N trong nước đầu ra ở hoa Cúc (Hình 5a), đó
là lý do nồng độ NH4-N ở nghiệm thức này giảm
so với đầu vào. Tuy nhiên, do cây Cúc không tăng
trưởng, nên lượng NO3-N trong nước đầu ra sau
mỗi tuần chỉ giảm đi một phần do tảo hấp thu.
Riêng ở cây Vạn thọ, NH4-N cũng mất đi qua quá
trình nitrate hóa nhưng phần lớn NO3-N được Vạn
thọ hấp thu vào sinh khối, do đó nồng độ NO3-N
nước đầu ra không đổi so với đầu vào (Hình 5a),
góp phần làm giảm đáng kể hàm lượng NH4-N
trong nước thải đầu vào (khoảng 95%).
Diễn biến của nồng độ PO4-P và TP trong nước
của đầu vào và đầu ra cây Vạn thọ và cây Cúc
nhìn chung có xu hướng tương đối giống nhau
(Hình 5c & d). Nồng độ lân trong nước đầu ra của
hai loại cây đều thấp hơn so với đầu vào nhưng
khả năng loại bỏ PO4-P và TP của cây Vạn Thọ
tốt hơn cây Cúc. Từ đợt thu mẫu thứ 3 trở về sau,
giá trị PO4-P và TP của cây hoa Cúc có giảm hơn
so với đầu vào một phần do tảo xử lý, vì trong
thời gian này hầu hết cây hoa Cúc đều không phát
triển tốt do không thích nghi với điều kiện ngập
nước và một phần lân được hấp phụ vào chất nền
là đá (với hiệu suất xử lý trung bình là 34%).
Riêng cây Vạn thọ phát triển tốt, lân được hấp thu
cho việc tăng sinh khối của cây, dẫn đến hiệu suất
xử lý lân của Vạn thọ cao hơn (86%).
Hình 5. Nồng độ NO3-N (a), NH4-N (b), PO4-P (c) và TP (d) trong nước đầu vào ( )
và đầu ra của cây hoa Cúc ( ) và Vạn thọ Pháp lùn ( ) qua các tuần thu mẫu
Tóm lại, sự thích nghi và tăng trưởng tốt của cây
Vạn thọ trong điều kiện thí nghiệm giúp làm giảm
nồng độ các chất dinh dưỡng đạm, lân trong nước
thải ao nuôi thâm canh cá tra, góp phần làm giảm
ô nhiễm môi trường.
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
4.1 Kết luận
Trong hai loại thực vật nghiên cứu, chỉ có cây
Vạn thọ Pháp lùn có khả năng phát triển tốt trong
điều kiện thủy canh với dung dịch dinh dưỡng là
nước thải nuôi cá tra, cây tăng trưởng tốt và tạo
hoa ở cuối thí nghiệm. Điều đó chứng tỏ rằng
dinh dưỡng trong nước thải ao cá đủ cho cây Vạn
thọ sinh trưởng bình thường mà không cần thêm
phân bón. Qua đó góp phần cải thiện chất lượng
nước thải trước khi xả thải ra môi trường do nồng
Journal of Science – 2016, Vol. 11 (3), 102 – 109 Part C: Agricultural Sciences, Fisheries and Biotechnology
109
độ các chất dinh dưỡng (chủ yếu đạm, lân) trong
nước thải đã giảm đi. Cụ thể, cây Vạn thọ giúp
loại bỏ trung bình 86% lân hòa tan (PO4-P) và lân
tổng (TP), và khoảng 95% đạm amôn (NH4-N)
trong nước thải đầu vào.
4.2 Kiến nghị
Qua kết quả nghiên cứu, cho thấy có thể sử dụng
cây Vạn thọ trong thiết kế các hệ thống xử lý
nước thải ao nuôi thủy sản bằng các hệ thống đất
ngập nước dạng bè nổi hay loại hình có dòng chảy
ngầm dưới chất nền.
LỜI CẢM TẠ
Dự án này được hỗ trợ kinh phí từ dự án
PhysCAM, chính phủ Đan Mạch tài trợ. Tác giả
chân thành cảm ơn Bộ môn Khoa học Môi trường
đã nhiệt tình hỗ trợ phòng thí nghiệm, giúp chúng
tôi hoàn thành tốt kết quả nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
APHA, AWWA, & WEF. (1998). Standard
methods for the examination of water and
wastewater (20th. ed.). American Public
Health Association. Washington DC, USA.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. (2010).
Thông tư số 44/2010/TT-BNNPTNT: Quy định
điều kiện cơ sở, vùng nuôi cá tra thâm canh
đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.
Brix, H. (1994). Functions of macrophytes in
constructed wetlands. Water Science and
Technology, 29(4), 71-78.
Cao Văn Thích. (2008). Tích luỹ vật chất dinh
dưỡng trong ao nuôi cá tra thâm canh.
Truy cập từ
56789/1069
Dương Công Chinh & Đồng An Thuỵ. (2009).
Phát triển ao nuôi cá tra ở Đồng bằng sông
Cửu Long và các vấn đề môi trường cần giải
quyết. Hội Đập Lớn và phát triển nguồn nước
Việt Nam.
Truy cập từ
d=1952
Graber, A., & Junge, R. (2009). Aquaponic
Systems: nutrient recycling from fish
wastewater by vegetable production.
Desalination, 246, 147–156.
DOI:10.1016/j.desal.2008.03.048
Konnerup, D., Trang, N.T.D., & Brix, H. (2011).
Treatment of fishpond water by recirculating
horizontal and vertical flow constructed
wetlands in the tropics. Aquaculture, 313, 57-
64. DOI:10.1016/j.aquaculture.2010.12.026
Kumar, P.B.A.N, Dushenkov, V., Motto, H., &
Raskin, I. (1995). Phytoextraction: the use of
plants to remove heavy metals from soils.
Environ. Sci. Technol., 29, 1232-1238. DOI:
10.1021/es00005a014
Nguyễn Xuân Linh & Nguyễn Thị Kim Lý.
(2005). Ứng dụng công nghệ trong sản xuất
hoa. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Lao Động.
Nguyễn Xuân Thành. (2003). Cuộc chiến Catfish:
Xuất khẩu cá tra và cá basa của Việt Nam
sang thị trường Mỹ. Case study in Fulbright
Economics Teaching Program.
Tổng cục Thống kê. (2010). Niên giám Thống kê
2010. Hà Nội: Nhà xuất bản Thống kê.
Trang, N.T.D. (2009). Plants as bioengineers:
treatment of polluted waters in the tropics
(Unpublished doctoral dissertation). Aarhus
University, Aarhus, Denmark.
Trang, N.T.D., & Brix, H. (2014). Use of planted
biofilters in integrated recirculating
aquaculture-hydroponics systems in the
Mekong Delta, Vietnam. Aquaculture
Research, 45 (3), 460-469.
DOI: 10.1111/j.1365-2109.2012.03247.x
Trang, N.T.D., Schierup, H-H., & Brix, H. (2010).
Leaf vegetables for use in integrated
hydroponics and aquaculture systems: Effects
of root flooding on growth, mineral
composition and nutrient uptake. African
Journal of Biotechnology, 9 (27), 4186-4196.
DOI: 10.5897/AJB10.153.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11_ngo_thuy_diem_trang_0_4945.pdf