Nong van hai lá bằng bóng qua da: Tại sao? Khi nào? Như thế nào?

3. Nong van hai lá ở phụ nữ có thai. NVHL đã được coi như là thủ thuật hàng đầu cho phụ nữ có thai bị HHL khít bởi tính ít xâm lấn cũng như các kết quả nghiên cứu chứng minh lợi ích và tính an toàn của phương pháp này cho cả mẹ và thai nhi. Vấn đề phơi nhiễm tia X thực sụ không đáng ngại do thời gian thủ thuật ngắn, bệnh nhân được che chắn vùng bụng và dùng siêu âm phối hợp khi tiến hành thủ thuật. Hơn nữa NVHL chỉ nên tiến hành ở tháng thứ năm trở đi đối với thai kỳ. Các nghiên cứu trong và ngoài nước đều ghi nhận lợi ích này. Một số tác giả nước ngoài có điều kiện so sánh NVHL với phẫu thuật tách van hoặc thay van trong thời kỳ mang thai thấy NVHL có hiệu quả tương tự về huyết động nhưng ít tai biến hơn cho cả mẹ và con. 4. Nong Van Hai Lá lại ở bệnh nhân đã được NVHL tái hẹp. Cũng như biện pháp phẫu thuật, NVHL điều trị HHL không phải là biện pháp vĩnh viễn. Có một tỷ lệ rất nhiều bệnh nhân tái hẹp lại sau NVHL. Thời gian trung bình tái hẹp là sau 5 – 10 năm. Vấn đề đặt ra là liệu có thể nong lại cho những bệnh nhân này không? Nghiên cứu của tác giả Trần Lan Anh, Đỗ Doãn Lợi và cộng sự trong cùng số tạp chí này đã tái khẳng định là thủ thuật NVHL là khả thi và hiệu quả cho những bệnh nhân HHL tái phát sau NVHL trước đây. Nhận định này cũng được một số tác giả nước ngoài khẳng định.

pdf9 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nong van hai lá bằng bóng qua da: Tại sao? Khi nào? Như thế nào?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 57 - 2011 89 TRAO ÑOÅI CUÛA CAÙC CHUYEÂN GIA Nong Van Hai Lá Bằng Bóng Qua Da: Tại Sao? Khi Nào? Như Thế Nào? GS. Phạm Gia Khải (Chủ tịch Hội Tim Mạch Học Việt Nam) Bài viết để trao đổi lại 02 bài báo về Nong Van Hai Lá Bằng Bóng ở hai đối tượng hẹp lại van hai lá hoặc van có tổn thương tồi, đăng trong cùng số này. ÑAËT VAÁN ÑEÀ Vào thế kỷ 19 và những năm đầu thế kỷ 20, bệnh Hẹp Van Hai Lá (HHL) vẫn khá phổ biến ngay ở các nước phát triển, sau đó bệnh giảm dần và tương đối ít gặp do người ta đã hiểu rõ cơ chế gây bệnh để có cách phòng ngừa cũng như do điều kiện kinh tế xã hội và vệ sinh phát triển tốt. Tuy nhiên, ở các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) thì cho đến nay bệnh HHL vẫn khá hay gặp trong số các bệnh lý tim mạch. Theo thống kê tại bệnh viện, thì ở Viện Tim mạch - bệnh viện Bạch Mai số bệnh nhân nằm viện vì bệnh van tim do thấp vẫn chiếm trên 2/3 và trong đó số bệnh nhân có tổn thương van hai lá cũng chiếm tới 2/3 [1]. Thống kê tại các nước phát triển hiện nay chỉ có 0,5 bệnh nhân thấp tim trên 100 000 dân, nhưng các nước đang phát triển hoặc châu Á vẫn gặp khá phổ biến, từ 2 – 10 / 1000 dân [4-7]. Năm 1984 khi Inoue, một phẫu thuật viên người Nhật Bản lần đầu tiên công bố kỹ thuật nong van hai lá bằng bóng qua da không cần phải mổ để điều trị HHL với kết quả khá tốt. Cho đến nay, nong van hai lá qua da (NVHL) đã trở thành phương pháp được lựa chọn hàng đầu cho các bệnh nhân HHL trên toàn thế giới và đây là thủ thuật chiếm vị trí thứ 2 (về số lượng cũng như ý nghĩa) trong các thủ thuật can thiệp Tim mạch. Tại Việt Nam NVHL đã được thực hiện từ những năm 1997 và đến nay đã trở thành phương pháp điều trị khá thường quy cho bệnh nhân HHL. TẠI SAO? Đã có nhiều tác giả trên thế giới đã theo dõi lâu dài >10 năm sau NVHL, kết quả thu được đều phản ánh lợi ích thực thụ của NVHL. Pala- cios và công sự theo dõi trên 732 bệnh nhân sau NVHL trung bình 11 năm, kết quả cho thấy, tỷ lệ sống còn đạt được tới 97% và không có triệu chứng đạt ở 67% sau 11 năm theo dõi ở những bệnh nhân có kết quả NVHL tốt. Gần đây Arora và cộng sự [53] theo dõi trên 4.850 bệnh nhân sau NVHL trung bình 94 tháng cho thấy tỷ lệ tái hẹp là chấp nhận được 4,8%. Kinh nghiệm trong nước của Phạm Mạnh Hùng và cộng sự cho thấy, NVHL trên 5.000 trường hợp cho kết quả sớm và trung hạn rất khả quan với tỷ lệ thành công cao và hiệu quả tốt. Câu hỏi quan trọng đặt ra là liệu NVHL có thể hiệu quả được như phẫu thuật kinh điển hay không, đặc biệt là theo dõi lâu dài? Một số tác giả cũng đã so sánh giữa NVHL với mổ tách van trên tim kín hoặc trên tim mở. Kết quả thu được rất ủng hộ cho NVHL, cụ thể là diện tích lỗ van thu được sau NVHL, tỷ lệ biến chứng, tỷ lệ tái hẹp qua theo dõi là tương tự nhau giữa hai nhóm, đôi khi ở nhóm NVHL có trội hơn (Bảng 1). TRAO ĐỔI CỦA CÁC CHUYÊN GIA90 Bảng 1. So sánh kết quả NVHL với mổ tách van Tác giả Số bn/kt MVA Theo dõi (th) Hẹp lại(%) Biến chứng Trước Sau TV HoHL Stroke Turi 20 PMV 20 CSC 0,8 0,9 1,6 1,6 8 - 0 5 0 Arora 100 PMV 100 CSC 0,8 2,4 0,8 2,4 24 5 4 2 2 - - 0 0 Farhat 30 PMV 30 CSC 30 OSC 0,9 0,9 0,9 2,2 1,6 2,1 48 7 27 3 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Reyes 30 PMV 30 OSC 0,9 0,9 2,1 2,0 36 10 13 0 0 6,6 3,3 0 0 PMV: Nong Van Hai Lá; CSC: Mổ tách van tren tim kín; OSC: Mổ tách van tim mở Các nghiên cứu cũng như thực tế cho thấy, NVHL là phương pháp được ưu tiên lựa chọn cho điều trị HHL là vì: - Thứ nhất, đây là phương pháp đã được chứng minh có tỷ lệ thành công cao và ít biến chứng. - Nó cải thiện đáng kể tình trạng huyết động cũng như diện tích lỗ van. - NVHL đã được chứng minh là có kết quả tương tự thậm chí còn hơn nếu so với mổ tách van cả trên tim kín hoặc mở về kết quả trước mắt cũng như theo dõi lâu dài [2,8,10]. - Trên hết, NVHL là thủ thuật không cần phải mổ nên tương đối ít xâm phạm, có nhiều ưu điểm so với mổ như: thời gian nằm viện ngắn, ít đau đớn, ít biến chứng do mổ gây ra, không để lại sẹo trên ngực, tâm lý người bệnh thoải mái hơn... - Cuối cùng, NVHL còn thực hiện được trong một số tình huống lâm sàng khá đặc biệt mà khi đó cuộc phẫu thuật có thể khó thành công như: ở phụ nữ có thai, ở người suy tim nặng quá, ở bệnh nhân đang trong tình trạng cấp cứu... KHI NÀO? (Chỉ định cho nong van hai lá) Việc lựa chọn bệnh nhân cho NVHL đóng vai trò hết sức quan trọng vì nó quyết định không những lợi ích điều trị mà cả sự thành công của phương pháp. Khi mà diện tích lỗ van < 2 cm2 thì thường đã gây triệu chứng nhưng phải đến khi < 1,5 cm2 thì các triệu chứng thường rõ và các biến chứng tăng đáng kể. Cho đến nay, các nghiên cứu đều chỉ ra rằng chỉ định NVHL nên ở những bệnh nhân HHL đã có triệu chứng với mức độ hẹp vừa đến nhiều. NVHL (hoặc mổ tách van) ở những bệnh nhân này đã chứng minh được là cải thiện đáng kể triệu chứng cho bệnh nhân và tỷ lệ sống còn. Tuy nhiên ở những TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 57 - 2011 91 bệnh nhân HHL nhẹ (diện tích > 2 cm2) thì hoàn toàn chưa nên chỉ định NVHL vì việc cải thiện triệu chứng và sống còn là không rõ vả lại NVHL dù sao cũng là một thủ thuật can thiệp có thể có những biến chứng nhất định và cần chi phí về kinh tế. Khuyến cáo của Hội Tim Mạch Học Việt Nam (2008) về điều trị bệnh nhân bị bệnh van tim có đề xuất là với những bệnh nhân HHL khít (diện tích < 1,5 cm2) thì dù triệu chứng nhẹ hay nặmg cũng có chỉ định can thiệp, còn nếu diện tích > 1,5 cm2 thì nên xem xét các khả năng khác, chỉ can thiệp khi gắng sức mà có sự gia tăng đáng kể áp lực động mạch phổi và chênh áp qua van (sơ đồ 1,2) [6]. Việc lựa chọn bệnh nhân cho NVHL còn cần phải căn cứ vào các chỉ tiêu khác đó là: - Bệnh nhân không có các tiền sử tắc mạch mới xảy ra gần đây (trong vòng3 tháng). - Không kèm theo hở van hai lá hoặchở van độngmạch chủ hoặc nếu có thì mức độ hở van không quá 2/4. - Không có hình ảnh huyết khối trong nhĩ trái trên siêu âm, đối với các bệnh nhân rung nhĩ nhất thiết phải loại trừ bằng siêu âm qua thực quản. - Hình thái van phải phù hợp cho NVHL (có thể dựa trên chỉ số siêu âm tim hay Wilkins score). Hình1: Thái độ đối với HHL triệu chứng nhẹ TRAO ĐỔI CỦA CÁC CHUYÊN GIA92 Hình 2: Phác đồ về thái độ điều trị HHL với bệnh nhân có triệu chứng nặng NVHL thông thường được tiến hành một cách có chuẩn bị và lựa chọn, tuy vậy NVHL cũng có thể tiến hành cấp cứu cho một số bệnh nhân HHL có phù phổi cấp hoặc những bệnh nhân suy tim nặng có thể sốc tim mà không đáp ứng điều trị nội khoa. Đối với những bệnh nhân có tiền sử tắc mạch, cần cho thuốc chống đông dạng uống tốt trong ít nhất 3 tháng và làm siêu âm qua thực quản khẳng định không có huyết khối trong nhĩ trái thì NVHL có thể được tiến hành. Đối với những bệnh nhân có huyết khối trong nhĩ trái, có thể cho điều trị bằng thuốc chống đông dạng uống trong ít nhất 3 tháng và kiểm tra lại siêu âm qua thực quản, nếu cục máu đông đã hết thì có thể tiến hành NVHL. Một số nghiên cứu cho thấy cục huyết khối nhĩ trái thường ly giải được sau sớm nhất 3 tháng [12,17]. Với những tác giả có kinh nghiệm, thì NVHL bằng bóng Inoue có thể tiển hành được cả ở những bệnh nhân có huyết khối trong tiểu nhĩ trái mà không gây tai biến tắc mạch đáng kể nào [20]. CỤ THỂ NHƯ THẾ NÀO? Các yếu tố dự đoán thành công kết qua Có khá nhiều yếu tố có ảnh hưởng đến kết quả NVHL bằng bóng, trong đó có các yếu tố trước khi làm thủ thuật, ngay trong khi làm thủ thuật. Những nghiên cứu phân tích đa biến trên các trung tâm lớn về NVHL đã chỉ ra rằng các yếu tố có ảnh hưởng đến kết quả NVHL là: điểm siêu âm (hay điểm Wilkins), tuổi cao, calci hoá van nhiều trên hình chiếu X quang, tiền sử mổ tách van hai lá trước đó, có kèm theo hở van hai lá trước nong. Khi phân tích đơn biến thì thấy TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 57 - 2011 93 rằng các yếu tố có ảnh hưởng đến kết quả NVHL là: tuổi trẻ tỷ lệ thành công cao rõ rệt (p=0,0001); nam giới (p=0,0003); không có tiền sử mổ tách van (p=0,0078); NYHA trước nong van ở mức thấp, không có calci hoá van trên x quang, điểm siêu âm thấp (p=0,00001), không có hoặc kèm theo HoHL nhẹ (p=0,0001), áp lực ĐMP trước nong van còn thấp (p=0,001)[2,21-25]. 1. Điểm siêu âm (echo score hay Wilkins score). Đây là một dữ liệu cực kỳ quan trọng giúp cho dự đoán thành công của kết quả sớm cũng như theo dõi lâu dài. Tác giả Wilkins năm 1988 đã trình bày về một thang điểm để lượng hoá tình trạng van và dây chằng giúp cho dự báo thành công của kết quả với độ nhạy cao (Bảng 2). Bảng 2. Thang điểm siêu âm (Wilkins score) Điểm Di động van Tổ chức dưới van Độ dày van Mức độ vôi hoá van 1 Van di động tốt, chỉ sát bờ van hạn chế Dày ít, phần ngay sát bờ van Gần như bình thường (4-5mm) Có một điểm vôi hoá 2 Phần giữa thân van và chân van còn di động tốt Dày tới 1/3 chiều dài dây chằng Dày ít phía bờ van (5-8mm) Vôi hóa dải rác phía bờ van 3 Van vẫn còn di động về phía trước trong thời kỳ tâm trương, (chủ yếu là gốc van) Dày tới đoạn xa dây chằng Dày lan xuống cả thân lá van (5-8mm) Vôi hoá lan đến đoạn giữa lá van 4 Không di động hoặc rất ít Dày nhiều và co rút cột cơ dây chằng Dày nhiều toàn bộ cả lá van (>8-10mm) Vôi hoá nhiều lan toả toàn bộ van Trong 4 thành phần của thang điểm này thì tình trạng dày của lá van và tổ chức dưới van có ảnh hưởng nhiều đến diện tích lỗ van được cải thiện sau nong(a). Các nghiên cứu theo dõi ngắn hạn và trung hạn đều chỉ ra rằng với điểm siêu âm ≤ 8 tỷ lệ thành công sẽ đáng kể. Có một khoảng “xám” là từ 9 - 11 điểm, theo một số tác giả có kinh nghiệm, kết quả NVHL vẫn có thể đáng kể. Tuy nhiên với điểm siêu âm > 11 thì không nên nong van hai lá bằng bóng. Hiện nay một phương pháp nong van qua da bằng dụng cụ kim loại do Cribier đề xuất có thể cho những kết quả tốt ngay cả ở những bệnh nhân có tình trạng van khá xấu (điểm siêu âm cao)(b). Hiện nay thang điểm siêu âm của Wilkins được hầu hết các trung tâm nong van hai lá trên thế giới sử dụng như là một tiêu chuẩn quan trọng trong việc chọn bệnh nhân cho NVHL. Tuy vậy, trong thực tế, với những trung TRAO ĐỔI CỦA CÁC CHUYÊN GIA94 tâm có kinh nghiệm, và đặc biệt trong một số tình huống đặc biệt (với nguy cơ cao cho phẫu thuật), việc NVHL vẫn có thể được tiến hành với kết quả tốt ở bệnh nhân có hình thái van không được tối ưu như mong muốn (điểm Wilkins < 9). Bài báo của tác giả Nguyễn Hồng Cường và Phạm Mạnh Hùng trong cùng số này là một minh chứng rõ. Cách đặt vấn đề và tiến hành là hợp lí trong bối cảnh thực tế của chúng ta, khi mà bệnh HHL vẫn nhiều, nhiều bệnh nhân đến viện trong giai đoạn nặng, ngy cơ phẫu thuật cao, điều kiện thay van còn khó khăn... Kết quả thu được bước đầu cho phép chúng ta khuyến cáo về việc NVHL vẫn có thể tiến hành khả thi ở những đối tượng bệnh nhân có tổn thương van nặng và ở những trung tâm có kinh nghiệm NVHL. 2. Tình trạng vôi hoá van trên X-quang. Trên fi lm X-quang, tình trạng vôi hoá van hai lá cũng được coi như là một thông số quan trọng giúp dự đoán thành công của NVHL. Theo nghiên cứu của Palacios [10] và các cs, bệnh nhân không có vôi hoá van hai lá hoặc có rất nhẹ trên X-quang thì diện tích lỗ van đạt được sau nong lớn hơn đáng kể và tỷ lệ HoHL thấp hơn so với nhóm có vôi hoá khá nhiều trên X-quang: (2,1 ± 0,1 cm2) so với (1,5 ± 0,1 cm2). 3. Tiền sử có mổ tách van tim. Mặc dù các nghiên cứu đều thống nhất là kết quả NVHL ở những bệnh nhân đã có tiền sử mổ tách van hai lá có hạn chế hơn (về diện tích lỗ van) nếu so với nhóm chưa có mổ tách van, nhưng NVHL vẫn nên tiến hành và có được kết quả tốt ở nhóm có tiền sử mổ tách van hai lá [10, 30]. Cũng theo nghiên cứu của Palacios và các cs, theo dõi trên 120 bệnh nhân đã có tiền sử mổ tách van hai lá thấy diện tích đạt được sau nong là 1,7 ± 0,1 cm2 so với những bệnh nhân còn lại là 2,0 ± 0,1 cm2. Tuy nhiên, nhóm có tiền sử mổ tách van hai lá có điểm siêu âm cao hơn đáng kể và nếu chỉ chọn những bệnh nhân có điểm siêu âm thấp thì kết quả thu được cũng chẳng kém gì so với nhóm chưa mổ. Như vậy, tiền sử mổ tách van, bản thân nó không phải là yếu tố dự báo xấu kết quả NVHL. 4. Tuổi. Về kết quả trước mắt, tuổi là một yếu tố có ảnh hưởng khá rõ. Tỷ lệ thành công thường thấp hơn, với kết quả hạn chế hơn ở người cao tuổi. Tỷ lệ thành công về huyết động ở người cao tuổi > 65 chỉ đạt được khoảng 50 %. Việc hạn chế này có lẽ ở người cao tuổi, tỷ lệ rung nhĩ nhiều hơn, van calci hoá nhiều hơn và thường điểm siêu âm cũng cao hơn. 5. Rung nhĩ. Việc tăng được diện tích lỗ van sau mổ ở nhóm bệnh nhân có rung nhĩ hạn chế hơn so với nhóm nhịp xoang (1,7 ± 0,1 cm2 so với 2,1 ± 0,1 cm2) [10]. Tuy nhiên, rung nhĩ không phải là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến NVHL. Các phân tích cho thấy rằng, nhóm rung nhĩ thường lớn tuổi hơn, điểm siêu âm cao hơn, vôi hoá van trên X-quang nhiều hơn và tỷ lệ có mổ tách van trước đó cũng nhiều hơn. Nếu chỉ tách riêng nhóm rung nhĩ mà có điểm siêu âm tương tự nhóm nhịp xoang thì kết quả thu được cũng không kém. Một vấn đề đặc biệt quan trọng cần lưu ý ở những bệnh nhân rung nhĩ là nguy cơ huyết khối cao và cần phải được làm siêu âm thực quản một cách hệ thống để loại trừ nguy cơ này trước khi tiến hành NVHL. 6. Hở van hai lá có từ trước kèm theo. Việc HoHL mức độ vừa đến nhiều trước nong van là một yếu tố độc lập dự báo kết quả tồi. Kết quả ở nhóm HoHL về việc cải thiện diện tích lỗ van cũng rất hạn chế. Bệnh nhân có HoHL thường kèm theo tình trạng TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 57 - 2011 95 van tồi hơn, điểm siêu âm xấu hơn và tỷ lệ rung nhĩ cao hơn. Với tất cả các trường hợp có HoHL kèm theo >2/4 đều là chống chỉ định cho NVHL. HoHL trước nong van cũng không hẳn phải là một yếu tố dự đoán mức độ HoHL nặng lên sau nong van. Còn nhiều thành phần khác có thể dự đoán khả năng HoHL nặng sau nong van hai lá. Trong thực tế, thang điểm Wilkins dự đoán được kết quả chung cho NVHL nhưng khó dự đoán mức độ HoHL nặng sau nong van. Một thang điểm khác của Padial đề xuất đã giải quyết phần nào vấn đề này với điểm chú y là sự cân đối của 2 mép van. MỘT SỐ LỢI ÍCH ĐẶC BIỆT CỦA NVHL 1. NVHL cấp cứu ở bệnh nhân có phù phổi cấp. Trong HHL rất hay gặp biến chứng phù phổi cấp đe doạ tính mạng bệnh nhân. NVHL có thể coi là thủ thuật khá nhanh chóng giải quyết bế tắc huyết động để cứu bệnh nhân. Trước đây, để giải quyết tình huống này thường cấp cứu nội khoa và mổ cấp cứu. Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong khá cao do bệnh nhân phải chịu đựng một thủ thuật nặng, phải gây mê và hậu phẫu. Việc nong van hai lá đã tỏ ra rất lợi thế trong hoàn cảnh này và đã trả lại cho nhiều bệnh nhân HHL cuộc sống cũng như những cải thiện về chất lượng cuộc sống về sau. 2. Nong van hai lá ở những bệnh nhân suy tim nặng. Khá nhiều bệnh nhân HHL của chúng tôi đến viện khi suy tim đã rất nhiều khó có thể giải quyết bằng các thuốc cũng như là nguy cơ cao cho phẫu thuật. Cần phải nhấn mạnh là đối với những đối tượng này, trước đây thường có kết cục rất tồi do phẫu thuật không thể tiến hành được vì nguy cơ rất cao khi gây mê và hậu phẫu cho bệnh nhân. Và đây cũng là một lợi thế quan trọng của NVHL vì thủ thuật không cần gây mê, tiến hành khá nhanh và đem lại được kết quả rất khả quan [2,17,18,19]. 3. Nong van hai lá ở phụ nữ có thai. NVHL đã được coi như là thủ thuật hàng đầu cho phụ nữ có thai bị HHL khít bởi tính ít xâm lấn cũng như các kết quả nghiên cứu chứng minh lợi ích và tính an toàn của phương pháp này cho cả mẹ và thai nhi. Vấn đề phơi nhiễm tia X thực sụ không đáng ngại do thời gian thủ thuật ngắn, bệnh nhân được che chắn vùng bụng và dùng siêu âm phối hợp khi tiến hành thủ thuật. Hơn nữa NVHL chỉ nên tiến hành ở tháng thứ năm trở đi đối với thai kỳ. Các nghiên cứu trong và ngoài nước đều ghi nhận lợi ích này. Một số tác giả nước ngoài có điều kiện so sánh NVHL với phẫu thuật tách van hoặc thay van trong thời kỳ mang thai thấy NVHL có hiệu quả tương tự về huyết động nhưng ít tai biến hơn cho cả mẹ và con. 4. Nong Van Hai Lá lại ở bệnh nhân đã được NVHL tái hẹp. Cũng như biện pháp phẫu thuật, NVHL điều trị HHL không phải là biện pháp vĩnh viễn. Có một tỷ lệ rất nhiều bệnh nhân tái hẹp lại sau NVHL. Thời gian trung bình tái hẹp là sau 5 – 10 năm. Vấn đề đặt ra là liệu có thể nong lại cho những bệnh nhân này không? Nghiên cứu của tác giả Trần Lan Anh, Đỗ Doãn Lợi và cộng sự trong cùng số tạp chí này đã tái khẳng định là thủ thuật NVHL là khả thi và hiệu quả cho những bệnh nhân HHL tái phát sau NVHL trước đây. Nhận định này cũng được một số tác giả nước ngoài khẳng định. TRAO ĐỔI CỦA CÁC CHUYÊN GIA96 KEÁT LUAÄN Nong van hai lá chứng tỏ được lợi ích không những tức thời mà còn duy trì được qua theo dõi theo thời gian. Lợi ích vượt trội của NVHL được thể hiện không chỉ ở những bệnh nhân HHL thông thường mà đặc biệt ở những tình thuống khó khăn cho các phương pháp điều trị kinh điển. Tuy nhiên, để có kết quả tốt nhất cho NVHL, cần có sự lựa chọn bệnh nhân phù hợp cũng như tôn trọng các bước kỹ thuật của NVHL. Những phân tích trên có thể đưa đến kết luận: Nong Van Hai Lá nên được coi là thủ thuật ưu tiên lựa chọn cho bệnh nhân HHL, đặc biệt trong một số trường hợp như có thai, cấp cứu Bên cạnh đó, NVHL cũng có thể tiến hành được với sự cẩn trọng và ở trung tâm có kinh nghiệm cho một số bệnh nhân HHL mà trước đây được coi là chống chỉ định (van vôi hóa, huyết khối tiểu nhĩ trái). TAØI LIEÄU THAM KHAÛO Nguyễn Lân Việt, Nguyễn Việt Tuân, Phạm 1. Mạnh Hùng, et al. Tình Hình Bệnh Tim Mạch Tại Viện Tim Mạch Trrong 5 năm. Tạp chí Tim Mạch Học VIệt Nam. 2010:55. Viên Văn Đoan, et al. Tình hình Thấp Tim 2. Tại Cộng Đồng. Tạp Chí Tim Mạch Học Việt Nam. 2006: 47. Phạm Mạnh Hùng, et al. Kết Quả Nong Van 3. Hai Lá sớm và trung hạn. Tạp chí Tim Mạch Học Việt Nam. 2004. Kawakita S. Rheumatic fever and rheumatic heart 4. disease in Japan. Jpn Circ J. 1986; 50: 1241–1245. Zhimin W, Yubao Z, Lei S, Xianliang Z, Wei Z, Li 5. S, Hao W, Jianjun L, Detrano R, Rutai H. Preva- lence of chronic rheumatic heart disease in Chi- nese adults. Int J Cardiol. 2006; 107: 356–359. Yoon HS PM, Shin WY, Sco BS, Cha SH. Chang-6. es of clinical patt erns of the acute rheumatic fever in Korea (compared report of 1973–1985 with that of 1986–1992) [in Korean]. J Korean Pediatr Soc. 1995; 38: 470–481. Ahemad MZ JP, Narayanan SN. Rheumatic cho-7. rea in children: a study of prevalence of clinical and echocardiographic valvular involvement. Indian Heart J. 1999; 51: 694. Abstract. Ahmed J, Mostafa Zaman M, Monzur Hassan 8. MM. Prevalence of rheumatic fever and rheu- matic heart disease in rural Bangladesh. Trop Doct. 2005; 35: 160–161. Inoue K, Owaki T, Nakamura T, Kitamura F, Mi-9. yamoto N. Clinical application of transvenous mitral commissurotomy by a new balloon cathe- ter. J Thorac Cardiovasc Surg. 1984; 87: 394–402. Lock JE, Khalilullah M, Shrivastava S, Bahl V, 10. Keane JF. Percutaneous catheter commissuro- tomy in rheumatic mitral stenosis. N Engl J Med. 1985; 313: 1515–1518. Al Zaibag M, Ribeiro PA, Al Kasab S, Al Fagih 11. MR. Percutaneous double-balloon mitral val- votomy for rheumatic mitral-valve stenosis. Lancet. 1986; 1: 757–761. Rihal CS, Holmes DR Jr. Percutaneous balloon 12. mitral valvuloplasty: issues involved in compar- ing techniques. Cathet Cardiovasc Diagn. 1994; (suppl 2): 35–41. Hogan K, Ramaswamy K, Losordo DW, Isner 13. JM. Pathology of mitral commissurotomy per- formed with the Inoue catheter: implications for mechanisms and complications. Cathet Cardiovasc Diagn. 1994; (suppl 2): 42–51. Turi ZG, Reyes VP, Raju BS, Raju AR, Kumar 14. DN, Rajagopal P, Sathyanarayana PV, Rao DP, Srinath K, Peters P. Percutaneous balloon ver- sus surgical closed commissurotomy for mi- tral stenosis: a prospective, randomized trial. Circulation. 1991; 83: 1179–1185. Arora R, Nair M, Kalra GS, Nigam M, Khali-15. lullah M. Immediate and long-term results of balloon and surgical closed mitral valvotomy: a randomized comparative study. Am Heart J. 1993; 125: 1091–1094. Dean LS. Percutaneous transvenous mitral com-16. missurotomy: a comparison to the closed and open surgical techniques. Cathet Cardiovasc Di- agn. 1994; (suppl 2): 76–81. Bonow RO, Carabello BA, Kanu C, de Leon AC 17. Jr, Faxon DP, Freed MD, Gaasch WH, Lytle BW, Nishimura RA, O’Gara PT, O’Rourke RA, Ott o TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 57 - 2011 97 CM, Shah PM, Shanewise JS, Smith SC Jr, Jacobs AK, Adams CD, Anderson JL, Antman EM, Fax- on DP, Fuster V, Halperin JL, Hiratzka LF, Hunt SA, Lytle BW, Nishimura R, Page RL, Riegel B. ACC/AHA 2006 guidelines for the management of patients with valvular heart disease: a report of the American College of Cardiology/Ameri- can Heart Association Task Force on Practice Guidelines (writing committ ee to revise the 1998 Guidelines for the Management of Patients With Valvular Heart Disease): developed in collabora- tion with the Society of Cardiovascular Anesthe- siologists. Circulation. 2006; 114: e84–e231. Vahanian A, Baumgartner H, Bax J, Butchart 18. E, Dion R, Filippatos G, Flachskampf F, Hall R, Iung B, Kasprzak J, Nataf P, Tornos P, Tor- racca L, Wenink A. Guidelines on the manage- ment of valvular heart disease: the Task Force on the Management of Valvular Heart Disease of the European Society of Cardiology. Eur Heart J. 2007; 28: 230–268. Wilkins GT, Weyman AE, Abascal VM, Block PC, 19. Palacios IF. Percutaneous balloon dilatation of the mitral valve: an analysis of echocardiographic variables related to outcome and the mechanism of dilatation. Br Heart J. 1988; 60: 299–308. Iung B, Cormier B, Ducimetiere P, Porte JM, 20. Nallet O, Michel PL, Acar J, Vahanian A. Im- mediate results of percutaneous mitral com- missurotomy: a predictive model on a series of 1514 patients. Circulation. 1996; 94: 2124–2130. Vahanian A. How to do a mitral valvuloplasty. 21. Int J Cardiol. 1996; 55: 1–7. Nobuyoshi M, Hamasaki N, Kimura T, Nosaka 22. H, Yokoi H, Yasumoto H, Horiuchi H, Nakashi- ma H, Shindo T, Mori T. Indications, complica- tions, and short-term clinical outcome of percu- taneous transvenous mitral commissurotomy. Circulation. 1989; 80: 782–792. Chen CR, Cheng TO. Percutaneous balloon 23. mitral valvuloplasty by the Inoue technique: a multicenter study of 4832 patients in China. Am Heart J. 1995; 129: 1197–1203. Palacios IF, Sanchez PL, Harrell LC, Weyman 24. AE, Block PC. Which patients benefi t from per- cutaneous mitral balloon valvuloplasty? Preval- vuloplasty and postvalvuloplasty variables that predict long-term outcome. Circulation. 2002; 105: 1465–1471. Arora R, Kalra GS, Singh S, Mukhopadhyay S, 25. Kumar A, Mohan JC, Nigam M. Percutaneous transvenous mitral commissurotomy: imme- diate and long-term follow-up results. Cath- eter Cardiovasc Interv. 2002; 55: 450–456. Fawzy ME, Shoukri M, Al Buraiki J, Hassan W, El 26. Widaal H, Kharabsheh S, Al Sanei A, Canver C. Seventeen years’ clinical and echocardiographic follow up of mitral balloon valvuloplasty in 520 patients, and predictors of long-term outcome. J Heart Valve Dis. 2007; 16: 454–460. Fawzy ME, Shoukri M, Hassan W, Nambiar V, 27. Stefadouros M, Canver CC. The impact of mi- tral valve morphology on the long-term out- come of mitral balloon valvuloplasty. Catheter Cardiovasc Interv. 2007; 69: 40–46. Kim MJ, Song JK, Song JM, Kang DH, Kim 28. YH, Lee CW, Hong MK, Kim JJ, Park SW, Park SJ. Long-term outcomes of signifi cant mitral regurgitation aft er percutaneous mitral valvu- loplasty. Circulation. 2006; 114: 2815–2822. Kim JB, Ha JW, Kim JS, Shim WH, Kang SM, 29. Ko YG, Choi D, Jang Y, Chung N, Cho SY, Kim SS. Comparison of long-term outcome aft er mitral valve replacement or repeated balloon mitral valvotomy in patients with restenosis aft er previous balloon valvotomy. Am J Car- diol. 2007; 99: 1571–1574. de Souza JA, Martinez EE, Jr., Ambrose JA, 30. Alves CM, Born D, Buff olo E, Carvalho AC. Percutaneous balloon mitral valvuloplasty in comparison with open mitral valve commis- surotomy for mitral stenosis during pregnan- cy. J Am Coll Cardiol. 2001; 37: 900–903. Elkayam U, Bitar F. Valvular heart disease and 31. pregnancy part I: native valves. J Am Coll Car- diol. 2005; 46: 223–230. Esteves CA, Munoz JS, Braga S, Andrade J, Me-32. neghelo Z, Gomes N, Maldonado M, Esteves V, Sepetiba R, Sousa JE, Palacios IF. Immediate and long-term follow-up of percutaneous bal- loon mitral valvuloplasty in pregnant patients with rheumatic mitral stenosis. Am J Cardiol. 2006; 98: 812–816.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnong_van_hai_la_bang_bong_qua_da_tai_sao_khi_nao_nhu_the_nao.pdf
Tài liệu liên quan