Nút mạch điều trị chảy máu cấp khối u vùng đầu mặt cổ: Nhân 3 trường hợp
Các vật liệu để nút mạch hiện nay có thể là các
hạt nhựa (PVA-polyvinyl alcohol, embospheres),
vòng xoắn kim loại (Coils), giá đỡ kim loại (stent),
chất tắc mạch tạm thời (Gelfoam), keo sinh học
(histoacryl). việc lựa chọn vật liệu nút mạch tùy theo
tính chất, vị trí của tổn thương và khẩu kính lòng mạch
cấp máu cho u. Trường hợp BN thứ 1 và thứ 2 đã giới
thiệu, chúng tôi sử dụng vật liệu tắc mạch bằng hạt
PVA do chảy máu xuất phát từ các nhánh mạch nhỏ
tách ra từ động mạch cảnh ngoài, kích thước hạt với
BN thứ nhất có nguồn cấp máu cho u từ động mạch
hàm là 300-500 micron, với BN thứ 2 khối u được
cấp máu từ nhánh động mạch lưỡi chúng tôi sử dụng
hạt kích thước 350 micron với mục đích chính là gây
tắc tại cuống mạch để cầm máu, không gây hoại tử.
Theo một số tác giả việc sử dụng microcatheter là
cần thiết để chọn lọc được tới gần nhất mạch máu
cấp máu cho u và gây chảy máu, các hạt ban đầu
có thể sử dụng kích thước từ 150-250 micron để tắc
được các nhánh nhỏ sau đó có thể dùng các hạt lớn
hơn và/ hoặc Gelfoam. Các hạt kích thước nhỏ hơn
150 micron cần thận trọng vì có thể tắc các nhánh
mạch xa, có nguy cơ hoại tử vùng nút mạch và cần
kiểm soát tốt trong quá trình bơm hạt [2].
Trường hợp BN thứ 3 của chúng tôi là một chảy
máu cấp tính mức độ nhiều làm thay đổi huyết động
của BN trong một thời gian ngắn, trường hợp này nằm
trong bệnh cảnh của hội chứng chảy máu ồ ạt động
mạch cảnh (Carotid blowout syndrome-CBS), đây
được coi là biến chứng nghiêm trọng nhất của bệnh
lý u vùng đầu mặt cổ, tỉ lệ tử vong liên quan tới biến
chứng này theo các báo cáo trung bình khoảng 50%
[3]. Theo Maran AG và cộng sự, hội chứng chảy máu
ồ ạt động mạch cảnh là do sự ăn mòn, xâm lấn của
khối u vào động mạch cảnh hoặc các nhánh bên của
nó, hội chứng này chiếm khoảng 4,3% BN đã điều trị
ung thư vùng đầu mặt cổ [4]. Thông thường hội chứng
này xuất hiện ở những BN ung thư tế bào vảy và hầu
hết đã trải qua điều trị tia xạ, do vùng u sau điều trị
da khô, có thể hoại tử và thành mạch vùng này yếu
nên dễ vỡ, kể từ khi giới thiệu lần đầu vào khoảng năm
1990 thì can thiệp nội mạch đã trở thành phương pháp
điều trị chính cho hội chứng này [1]. BN của chúng tôi
tại vùng khối u đã hình thành lỗ rò ra ngoài da và vào
trong khoang miệng, khi chảy máu lượng máu mất
khá nhiều và chảy vào vùng hầu họng làm nguy cơ
ảnh hưởng tới hô hấp nên đã phải hút máu cục ra và
tiến hành đặt nội khí quản cấp cứu. Trong quá trình
chụp mạch thấy thuốc cản quang thoát ra rất nhiều ở
qua vị trí lỗ rò ra ngoài từ nhánh động mạch mặt bên
trái, chúng tôi đã sử dụng keo sinh học histoacryl pha
với lipiodol để gây tắc mạch chọn lọc hiệu quả rất tốt
và dừng chảy máu ngay sau khi gây tắc.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 6 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nút mạch điều trị chảy máu cấp khối u vùng đầu mặt cổ: Nhân 3 trường hợp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 27 - 3/201764
DIỄN ĐÀN
MEDICAL FORUM
NÚT MẠCH ĐIỀU TRỊ CHẢY MÁU CẤP
KHỐI U VÙNG ĐẦU MẶT CỔ:
NHÂN 3 TRƯỜNG HỢP
Transarterial embolization for control of acute
bleeding in three patients with head and neck cancer
Trịnh Tú Tâm*, Nguyễn Quốc Dũng*, Bùi Văn Giang**
SUMMARY
Acute bleeding tumor in the head and neck can lead to significant morbidity and mortality without appropriate
treatment. Estimates of the incidence of bleeding range between 6 and 14% of patients with advanced cancer,
and is the immediate cause of death in around 6% of cases. Previously, acute bleeding tumor not responding
to medical therapy, surgery is the first choice. In recent years, interventional radiology has a more important
position in the treatment. We report three cases cases of acute bleeding has been successfully treated at
Friendship Hospital as examples presenting the role of interventional radiology in the management of acute
bleeding tumors.
Keywords: Interventional radiology, Angiography, Embolization, Acute bleeding tumor in the head and neck.
* Khoa Chẩn đoán Hình ảnh Bệnh viện Hữu Nghị
** Bộ môn Chẩn đoán Hình ảnh - Đại học Y Hà Nội
GIỚI THIỆU
Chảy máu cấp tính khối u là một biến chứng
nghiêm trọng, có thể dẫn tới tử vong nếu không được
điều trị thích hợp. Nguyên nhân gây chảy máu có thể
do khối u phát triển xâm lấn các mạch máu, di chứng
sau hóa trị, xạ trị, phẫu thuật, các biến chứng toàn thân
của bệnh ung thư gây biến đổi các yếu tố tham gia vào
quá trình đông máu hay việc sử dụng các thuốc chống
đông, chống viêm không steroid trong điều trị và tình
trạng nhiễm trùng tại vị trí khối u... Những trường hợp
chảy máu cấp tính thường không đáp ứng với điều trị
nội khoa, trước đây phẫu thuật thắt mạch máu là lựa
chọn hàng đầu. Tuy nhiên, chảy máu cấp tính trong
nhiều trường hợp phẫu thuật khó có thể kiểm soát do
khối u tái phát xâm lấn, biến đổi giải phẫu sau phẫu
thuật, rò, nhiễm trùng, hoại tử, di chứng sau xạ trị [7].
Trong những năm gần đây nút mạch đã cho thấy là
một lựa chọn tốt hơn, tiến hành đơn giản và hiệu quả
hơn để điều trị chảy máu cấp tính các khối u nói chung
và u vùng đầu mặt cổ nói riêng.
CA LÂM SÀNG
• Trường hợp 1:
BN nam, 70 tuổi.
Vào viện với lý do đau nhiều góc hàm trái, sốt.
Chẩn đoán: Ung thư lợi hàm trái giai đoạn IV đã
điều trị hóa chất, tia xạ đồng thời.
Khám thấy góc hàm trái có hạch to, vùng tổn
thương góc lợi hàm trái có sưng loét, giả mạc.
7 ngày sau khi vào viện BN xuất hiện chảy máu
cấp vào khoang miệng.
Mạch, huyết áp vẫn ổn định. Xét nghiệm
Hemoglobin giảm từ 102 g/l xuống 82 g/l. Hội chẩn
chuyên khoa Răng hàm mặt và Ngoại không can
thiệp được.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 27 - 3/2017 65
DIỄN ĐÀN
• Trường hợp 2:
BN nam, 72 tuổi
Vào viện với lý do chảy máu lưỡi
Tiền sử: Hẹp động mạch vành đã đặt stent, đái
tháo đường
Chẩn đoán: U máu lưỡi chảy máu
BN đã được khám chuyên khoa răng hàm mặt
thấy nhiều máu cục trong khoang miệng, đã xử trí
khâu cầm máu tại hai điểm chảy máu phía phải lưỡi
và đặt miếng Spongel có tẩm Hemoban vào vùng
chảy máu nhưng không đỡ.
BN được tiến hành chụp hệ động mạch não,
thấy hình ảnh khối u lưỡi được cấp máu từ nhánh
động mạch lưỡi phải tách từ động mạch cảnh ngoài
phải. Chụp chọn lọc và nút nhánh động mạch lưỡi
phải bằng hạt PVA kích thước 250 - 355 micron.
Chụp kiểm tra thấy tắc hoàn toàn nhánh động
mạch lưỡi phải, ngừng chảy máu sau can thiệp và ra
viện sau 12 ngày.
BN được chỉ định truyền máu, chụp cắt lớp vi
tính và chụp mạch số hóa xóa nền cấp cứu. Trên hình
ảnh chụp mạch máu thấy khối u lợi hàm trái được cấp
máu từ nhánh động mạch hàm trong bên trái, không
thấy sự tham gia cấp máu của nhánh động mạch
cảnh ngoài phải và động mạch cảnh trong hai bên.
Chọn lọc nhánh động mạch hàm bên trái bằng
Microcatheter 2.7F (Terumo) sau đó bơm hạt PVA
(Polyvinyl Alcohol) kích thước 355-500 micron gây
tắc nhánh động mạch hàm trong bên trái.
BN đã ngừng tình trạng chảy máu khối u ngay
sau can thiệp và ra viện sau 9 ngày.
Chụp ĐM lưỡi phải tư thế thẳng (A ) và nghiêng (B) Động mạch lưỡi phải sau khi nút mạch
đã tắc cuống mạch (C)
Hình 1: hình ảnh chụp động mạch lưỡi bên phải trước và sau nút mạch bằng hạt PVA
Hình ảnh MRI khối u lợi hàm trái Khối u tăng sinh mạch từ nhánh
ĐM hàm trong trái
Sau nút cuống mạch ĐM hàm
trong trái
Hình 2: Hình ảnh MRI khối u lợi hàm trái (A) và DSA trước (B), sau nút mạch (C)
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 27 - 3/201766
DIỄN ĐÀN
• Trường hợp 3:
BN nam, 63 tuổi
Tiền sử: Ung thư niêm mạc má trái, đã phẫu
thuật, hóa chất và tia xạ; đái tháo đường; tăng huyết
áp; giảm tiểu cầu.
Khối u xâm lấn, hoại tử tạo lỗ rò ra ngoài da vùng
má trái và vào trong khoang miệng.
Vào viện vì chảy máu nhiều qua lỗ rò.
Tình trạng lúc vào BN tỉnh, huyết động ổn định
(mạch 83ck/p, huyết áp 140/80 mmHg), da niêm
mạc hồng.
Khoảng 2 giờ sau vào viện BN có dấu hiệu biến
đổi về huyết động (mạch 100 ck/p, huyết áp 90/60
mmHg), da niêm mạc nhợt.
Máu chảy nhiều ra ngoài qua lỗ rò và chảy vào
trong khoang miệng xuống vùng hầu họng.
BN đã được đặt nội khí quản cấp cứu và hội chẩn
các chuyên khoa ngoại, răng hàm mặt, chẩn đoán hình
ảnh, ung bướu và đề nghị tiến hành thủ thuật nút mạch.
Trên hình ảnh chụp mạch thấy thoát thuốc cản
quang mức độ nhiều từ nhánh động mạch mặt bên
trái qua vị trí lỗ rò ra ngoài da.
Tiến hành chọn lọc nhánh động mạch mặt trái
bằng Microcatheter 2.7F và nút mạch bằng 0,5 ml
keo sinh học (Histoacryl) pha với lipiodol tỉ lệ 1:3.
Nhánh động mạch mặt tắc hoàn toàn và BN
ngừng chảy máu ngay sau can thiệp.
Rút nội khí quản sau 01 ngày và tình trạng BN
tiến triển tốt, ra viện sau 10 ngày.
Hình ảnh CT khuyết xương hàm dưới trái
do u xâm lấn
Hình ảnh CT khuyết xương
hàm dưới trái do u xâm lấn
Tắc cuống ĐM mặt trái sau
nút bằng Histoacryl
Lỗ rò ra ngoài da vùng má trái đã
không còn chảy máu sau nút mạch
Hình ảnh MRI khối u niêm mạc má trái
Hình 3: Hình ảnh CT (A) và MRI (B) khối u niêm mạc má trái
Hình 4: Hình ảnh trước (A) và sau nút nhánh động mạch mặt bên trái (B, C)
C
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 27 - 3/2017 67
DIỄN ĐÀN
BÀN LUẬN
Tỉ lệ chảy máu trong u chiếm tỉ lệ khoảng 6-14%
tùy theo vị trí và kích thước u, trong đó khoảng 6%
số trường hợp là chảy máu cấp tính gây tử vong cho
người bệnh [5]. Trong những năm gần đây, tỉ lệ ứng
dụng can thiệp nội mạch trong điều trị u vùng đầu
mặt cổ ngày càng tăng, đặc biệt trong các trường hợp
chảy máu cấp tính. Điều trị chảy máu cấp tính vùng
đầu mặt cổ bằng tắc mạch qua da được mô tả đầu
tiên năm 1974 trong điều trị trường hợp BN chảy máu
cam không đáp ứng điều trị nội khoa [6]. Những năm
gần đây, nhờ sự phát triển về kỹ thuật và dụng cụ can
thiệp cũng như các vật liệu nút mạch nên can thiệp
nội mạch đã được áp dụng với các chỉ định rộng rãi
hơn nhiều từ những trường hợp nút mạch trước phẫu
thuật cắt u để giảm mất máu trong phẫu thuật đến
các trường hợp chảy máu cấp tính do loét mạch máu
trong ung thư, chảy máu mũi mức độ nhiều, chảy
máu sau cắt amidal... [7].
Các vật liệu để nút mạch hiện nay có thể là các
hạt nhựa (PVA-polyvinyl alcohol, embospheres),
vòng xoắn kim loại (Coils), giá đỡ kim loại (stent),
chất tắc mạch tạm thời (Gelfoam), keo sinh học
(histoacryl)... việc lựa chọn vật liệu nút mạch tùy theo
tính chất, vị trí của tổn thương và khẩu kính lòng mạch
cấp máu cho u. Trường hợp BN thứ 1 và thứ 2 đã giới
thiệu, chúng tôi sử dụng vật liệu tắc mạch bằng hạt
PVA do chảy máu xuất phát từ các nhánh mạch nhỏ
tách ra từ động mạch cảnh ngoài, kích thước hạt với
BN thứ nhất có nguồn cấp máu cho u từ động mạch
hàm là 300-500 micron, với BN thứ 2 khối u được
cấp máu từ nhánh động mạch lưỡi chúng tôi sử dụng
hạt kích thước 350 micron với mục đích chính là gây
tắc tại cuống mạch để cầm máu, không gây hoại tử.
Theo một số tác giả việc sử dụng microcatheter là
cần thiết để chọn lọc được tới gần nhất mạch máu
cấp máu cho u và gây chảy máu, các hạt ban đầu
có thể sử dụng kích thước từ 150-250 micron để tắc
được các nhánh nhỏ sau đó có thể dùng các hạt lớn
hơn và/ hoặc Gelfoam. Các hạt kích thước nhỏ hơn
150 micron cần thận trọng vì có thể tắc các nhánh
mạch xa, có nguy cơ hoại tử vùng nút mạch và cần
kiểm soát tốt trong quá trình bơm hạt [2].
Trường hợp BN thứ 3 của chúng tôi là một chảy
máu cấp tính mức độ nhiều làm thay đổi huyết động
của BN trong một thời gian ngắn, trường hợp này nằm
trong bệnh cảnh của hội chứng chảy máu ồ ạt động
mạch cảnh (Carotid blowout syndrome-CBS), đây
được coi là biến chứng nghiêm trọng nhất của bệnh
lý u vùng đầu mặt cổ, tỉ lệ tử vong liên quan tới biến
chứng này theo các báo cáo trung bình khoảng 50%
[3]. Theo Maran AG và cộng sự, hội chứng chảy máu
ồ ạt động mạch cảnh là do sự ăn mòn, xâm lấn của
khối u vào động mạch cảnh hoặc các nhánh bên của
nó, hội chứng này chiếm khoảng 4,3% BN đã điều trị
ung thư vùng đầu mặt cổ [4]. Thông thường hội chứng
này xuất hiện ở những BN ung thư tế bào vảy và hầu
hết đã trải qua điều trị tia xạ, do vùng u sau điều trị
da khô, có thể hoại tử và thành mạch vùng này yếu
nên dễ vỡ, kể từ khi giới thiệu lần đầu vào khoảng năm
1990 thì can thiệp nội mạch đã trở thành phương pháp
điều trị chính cho hội chứng này [1]. BN của chúng tôi
tại vùng khối u đã hình thành lỗ rò ra ngoài da và vào
trong khoang miệng, khi chảy máu lượng máu mất
khá nhiều và chảy vào vùng hầu họng làm nguy cơ
ảnh hưởng tới hô hấp nên đã phải hút máu cục ra và
tiến hành đặt nội khí quản cấp cứu. Trong quá trình
chụp mạch thấy thuốc cản quang thoát ra rất nhiều ở
qua vị trí lỗ rò ra ngoài từ nhánh động mạch mặt bên
trái, chúng tôi đã sử dụng keo sinh học histoacryl pha
với lipiodol để gây tắc mạch chọn lọc hiệu quả rất tốt
và dừng chảy máu ngay sau khi gây tắc.
KẾT LUẬN
Chảy máu cấp tính là một biến chứng nặng nề
đối với những BN ung thư vùng đầu mặt cổ. Điều trị
can thiệp nội mạch là một phương pháp có hiệu quả
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 27 - 3/201768
DIỄN ĐÀN
cao và hầu như không có biến chứng. Việc chọn lọc
bằng microcather đến gần vị trí tổn thương và lựa
chọn vật liệu tắc mạch phù hợp là rất quan trọng để
mang lại hiệu quả điều trị và tránh các biến chứng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chaloupka, J. C., et al. (1996), “Endovascular
therapy for the carotid blowout syndrome in head and
neck surgical patients: diagnostic and managerial
considerations”, AJNR Am J Neuroradiol. 17(5), pp.
843-52.
2. Cooke, D., et al. (2008), “Embolization in the
head and neck”, Semin Intervent Radiol. 25(3), pp.
293-309.
3. Haas, R. A. and Ahn, S. H. (2013),
“Interventional management of head and neck
emergencies: carotid blowout”, Semin Intervent
Radiol. 30(3), pp. 245-8.
4. Maran, A. G., Amin, M., and Wilson, J.
A. (1989), “Radical neck dissection: a 19-year
experience”, J Laryngol Otol. 103(8), pp. 760-4.
5. Pereira, J. and Phan, T. (2004), “Management
of bleeding in patients with advanced cancer”,
Oncologist. 9(5), pp. 561-70.
6. Sokoloff, J., et al. (1974), “Therapeutic
percutaneous embolization in intractable epistaxis”,
Radiology. 111(2), pp. 285-7.
7. Storck, K., et al. (2016), “Management and
prevention of acute bleedings in the head and neck area
with interventional radiology”, Head Face Med. 12, p. 6.
TÓM TẮT
Chảy máu cấp tính khối u vùng đầu mặt cổ có thể làm tình trạng bệnh nặng và tử vong nếu không được
điều trị thích hợp. Tỉ lệ chảy máu khối u chiếm tỉ lệ khoảng 6-14% , trong đó chảy máu cấp tính và là nguyên
nhân gây tử vong chiếm khoảng 6%. Trước đây, với các trường hợp chảy máu cấp tính không đáp ứng với điều
trị nội khoa thì phẫu thuật là phương pháp lựa chọn hàng đầu. Trong những năm gần đây điện quang can thiệp
có một vị trí ngày càng quan trọng trong việc điều trị. Nhân ba trường hợp khối u ác tính chảy máu cấp đã được
điều trị thành công tại Bệnh viện Hữu Nghị, chúng tôi muốn giới thiệu về vai trò của điện quang can thiệp trong
điều trị chảy máu cấp tính khối u.
Từ khóa: điện quang can thiệp, can thiệp, nút mạch, chảy máu cấp tính vùng đầu mặt cổ.
Người liên hệ: Trịnh Tố Tâm. Email: tutambvhn@gmail.com
Ngày nhận bài: 20.1.2017. Ngày chấp nhận đăng: 20.2.2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nut_mach_dieu_tri_chay_mau_cap_khoi_u_vung_dau_mat_co_nhan_3.pdf