Nút mạch điều trị u máu gan khổng lồ báo cáo 2 ca
Các nghiên cứu ngày nay đề cao vai trò của
TAE trong việc chủ động điều trị hiệu quả các khối u
mạch máu có hoặc không có triệu chứng, các khối u
mạch máu phát triển tăng dần và các khối u có nguy
cơ xuất huyết. Tuy nhiên, sử dụng kĩ thuật TAE như
một biện pháp thay thế cho phẫu thuật trong việc
điều trị các khối u gan vỡ vẫn còn gây tranh cãi bởi
e ngại gây ra chứng thiếu máu cục bộ, xuất huyết
hoặc nhiễm trùng trong u. Sử dụng thành công kĩ
thuật TAE trước phẫu thuật cắt bỏ u mạch máu gan
vỡ được báo cáo lần đầu tiên bởi Yamamoto và
CS năm 1991. Kể từ đó, thêm 3 ca thành công nữa
được báo cáo trong tài liệu, mà không có BN nào
tử vong.
Trong hai ca của chúng tôi, tổn thương là dưới
bao và khu trú ở hạ phân thùy IV của thùy trái và
khối u to chiếm toàn bộ gan phải. Chụp CT Scanner
tổn thương cho thấy ngấm thuốc cản quang hướng
tâm đã càng củng cố chẩn đoán u mạch máu và điều
được xác nhận qua chụp Xquang mạch. Sự lựa chọn
các chất liệu gây tắc mạch tùy thuộc vào hình ảnh
chụp Xquang mạch ban đầu và kinh nghiệm của bác
sĩ điện quang can thiệp. Nhiều chất liệu khác nhau
như spongel, polyvinyl alcohol (hạt PVA), contour
cũng như dây xoắn thép, đã được sử dụng. Chúng
tôi sử dụng hạt contour để gây tắc mạch mà không
gây ra bất kỳ biến chứng đáng kể nào.
Theo tác giả Suzuki trường hợp khối u vỡ, TAE
dẫn đến cầm máu hoặc làm giảm chảy máu, do đó
cải thiện tình trạng chung của BN, vì vậy khiến cho
phẫu thuật cắt gan sau đó trở thành một quy trình
an toàn hơn. Suzuki và CS đã theo dõi thấy sự tăng
cường đáng kể các tác nhân đông máu và giảm mất
máu trong quá trình mổ, phù hợp với bệnh đông máu
liên quan đến
đông máu nội mạch trong u mạch máu, mà đã
được xử trí với kĩ thuật TAE tiền phẫu thuật.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 12 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nút mạch điều trị u máu gan khổng lồ báo cáo 2 ca, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 05 - 01 / 201252
nghiÊn CỨU KhoA hỌC
SCientiFiC reSeArCh
SUMMARy
Objective: present 2 cases giant hemangiomas treated by
selected arterial embolization.
Materiel and method: 2 hepatic hemangiomas, 16 x 17cm
and 6 x 9cm were diagnosed with cT scanner and embolized with
pVA particles.
Result and Discussion: No severe complication is noted
exempt fever and pain covered by medicaments. Short and long
time follow-up, 4 years, prove the pain was removed and reducing
the tumor dimension. Many authors have determined the effective
of this method in the literature.
Conclusion: Arterial embolization can be carried out in
conservative treatment of giant hepatic hemangioma against the
pain and reducing the tumor volume, together it can be used in pre-
operative for reducing the volume tumor to avoid hemorrhage and
give safety for operation.
NÚT MẠCH ĐIỀU TRỊ U MÁU GAN KHỔNG LỒ
BÁO CÁO 2 CA
Arterial embolization in the treatment
of giant hepatic hemangiomas
report 2 cases
Hoàng Văn Măng*, Đoàn Thế Mỹ*, Hoàng Văn Minh*,
Nguyễn Thế Toàn*, Đặng Huy Du*
*Bệnh viện Đa khoa Trung tâm
tỉnh Lạng Sơn
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 05 - 01 / 2012 53
nghiên CỨU KHoa HỌC
i. MỞ đẦU
U mạch máu là u lành tính thường gặp nhất
ở gan và thường không có triệu chứng, phần lớn
được phát hiện một cách tình cờ. Nguyên nhân vẫn
chưa rõ, cho tới nay chưa có một loại thuốc nào có
tác dụng làm mất hoặc giảm kích thước của khối u.
Người ta chỉ điều trị khi khối u lớn và gây các triệu
chứng như đau nhiều bằng nút mạch gan hoặc phẫu
thuật cắt một phần của gan. Vỡ tự phát là hiếm xảy
ra nhưng hậu quả sẽ nghiêm trọng nếu không được
xử trí kịp thời. Cắt gan cấp cứu cũng là một khả năng
nhưng có tỉ lệ tử vong phẫu thuật cao. Gây tắc động
mạch gan (Transcatheter Arterial Embolization TAE)
chủ động trước phẫu thuật hoặc nhằm thay thế phẫu
thuật có thể nâng cao đáng kể kết quả cho bệnh
nhân (BN).
ii. đối tƯỢng Và PhƯƠng PhÁP
Chúng tôi báo cáo hai trường hợp u mạch máu
gan lớn nhập viện với tình trạng đau tức vùng bụng
hạ sườn phải có kích thước lớn, có nguy cơ vỡ cao.
Phương tiện chẩn đoán là siêu âm và chụp cắt lớp vi
tính. Nút mạch siêu chọn lọc qua đường động mạch
với hạt PVA Ivalon.
Ca lâm sàng 1: BN nam 39 tuổi, có cảm giác
đau ở hạ sườn phải, không có tiền sử
bệnh nặng trong quá khứ. αFP ở ngưỡng bình
thường. BN đã được siêu âm và chụp CT Scanner
ổ bụng có tiêm thuốc cản quang. Chụp CT cho thấy
tổn thương ở toàn bộ thùy phải của gan (Hình 1).
Kích thước lớn nhất của tổn thương là 12 x 16 x
17cm. Trên hình CT Scanner, tổn thương cho thấy
ngấm thuốc cản quang hướng tâm, đặc trưng của u
máu gan. Nhu mô gan còn lại là bình thường, không
có tổn thương khu trú nào khác. Dựa trên hình chụp
CT, đã đưa ra chẩn đoán u máu gan lớn, BN đã được
chuyển qua chụp Xquang động mạch gan và điều trị
bằng điện quang can thiệp.
Chụp Xquang động mạch gan cho thấy kết quả
chụp mạch Xquang điển hình của u máu gan với sự
tích tụ và hoà lẫn thuốc cản quang ở tổn thương gan
phải (Hình 2). U máu gan đã được nút lại trong một
lần duy nhất, đầu tiên là sử dụng hạt PVA để gây tắc
khối u. Hạt PVA 355 - 500 mi-crô-mét (Contour của
hãng Boston - USA) được sử dụng để gây mạch và
được đưa vào bằng một Microcatherter qua catheter
Cobra, kiểm tra chụp động mạch gan cho thấy bít
tắc hoàn toàn, không thoát cản quang ra ngoài mạch
(Hình 3).
Ca lâm sàng 2: BN nữ Hoàng Sáy L.71 tuổi,
tự nhiên đau bụng đột ngột vùng mũi ức, BN không
có tiền sử bệnh. Chụp cộng hưởng từ ổ bụng, gan
trái có khối kích thước 6,2 x 9cm, nghi khối u máu
(Hình 4) được chuyển sang chụp động mạch gan
và gây tắc mạch bằng Contour 355-500 mi-crô-
met. Chụp Xquang động mạch gan cho thấy hình
chụp mạch điển hình của u máu gan với sự tích tụ
và hoà lẫn thuốc cản quang ở tổn thương gan phải
(Hình 2). U máu gan đã được nút trong một lần
duy nhất, đầu tiên là sử dụng hạt PVA để gây tắc
khối u. Hạt PVA 355 - 500 mi-crô-mét (Contour của
hãng Boston - USA) được sử dụng để gây mạch
và được đưa vào bằng một Microcatherter qua
catheter Cobra. Kiểm tra chụp động mạch gan cho
thấy bít tắc hoàn toàn, không bị thoát cản quang
ngoài mạch (Hình 3).
iii. KẾt QUẢ Và Bàn LUận
Bn thứ 1: Sau nút mạch tình trạng chung của
BN ổn định, không xảy ra biến cố gì lớn, ngoại trừ
sốt nhẹ và cảm giác tức nhẹ vùng hạ sườn phải. BN
đã hồi phục hoàn toàn và xuất viện sau khi nút mạch
1 tuần. Kiểm tra lại sau 6 tháng khối u giảm thể tích
nhiều.
Bn thứ 2: Sau nút mạch cũng không có biến cố
gì lớn. Sau 4 năm chụp CT Scanner gan mật, kiểm
tra lại thấy khối u hoại tử và teo nhỏ lại tạo thành
nang dịch (Hình 5).
U mạch máu gan là u gan lành tính thường gặp
nhất và thường được phát hiện ngẫu nhiên khi chiếu
chụp, siêu âm vùng bụng đối với những chỉ định lâm
sàng không liên quan. Hầu hết chúng đều nhỏ và
không có triệu chứng bệnh, không cần đến bất kỳ
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 05 - 01 / 201254
nghiên CỨU KHoa HỌC
sự can thiệp nào. U mạch lớn là những u mạch có
đường kính lớn hơn 4cm được coi là u máu khổng
lồ. U mạch máu gan có tỉ lệ từ 0,4 đến 7,4% trong
các nghiên cứu mổ tử thi. Hiếm gặp (1-4%) nhưng
thường gây biến chứng tử vong là vỡ khối u dẫn đến
tràn máu ổ bụng, có tỉ lệ tử vong cao từ 60 đến 75%.
Trong một tài liệu đánh giá gần đây, tỉ lệ tử vong
phẫu thuật của u mạch máu vỡ là 36.4%. Kĩ thuật
nút động mạch tiền phẫu thuật (TAE) mang đến kết
quả tốt đẹp mà không có trường hợp tử vong đối với
4 BN vỡ tự phát u máu gan cho đến lúc báo cáo.
Thường chỉ định phẫu thuật tuyệt đối với u mạch
máu gan là vỡ tự phát hoặc vỡ gây đau đớn với tràn
máu ổ bụng, xuất huyết nội u. Vỡ khối u mạch với
tràn máu màng ruột là biến chứng đáng sợ nhất và
thường gây tử vong nếu không được xử trí kịp thời.
Ca vỡ tự phát của u mạch máu gan đầu tiên được
Van Haefen mô tả vào năm 1898 trong một ca mổ tử
thi. Năm 1961, Swell và Weiss đã đánh giá 12 ca vỡ
tự phát u mạch máu gan từ tài liệu và đã báo cáo tỉ
lệ tử vong lên đến 75%.
Toni Green, J.D.Emilia (2008 New Jersey) mô tả
1 BN nữ 56t đau thượng vị, bụng mềm, CLVT thấy
khối 6 x 10cm thùy gan phải xác định là u máu. Điều
trị nút động mạch có biến chứng thoát thuốc ở thùy
gan trái nhưng điều trị ổn định. Mohan và CS (2007)
cũng nút mạch điều trị u máu lớn 11,6 x 12,5cm ở 1
BN nam 36t, đau và cảm giác đầy ở vùng thượng
vị với hạt Ivalon. 7 ngày sau khỏi ra viện, theo dõi 6
tháng sau hết đau, u giảm kích thước. Nobuhisa A
và CS (2010) cũng báo cáo 1 trường hợp u máu gan
khổng lồ, đường kính tới 43cm, khối xuống tận hạ
vị, không đau. Khối sát với tĩnh mạch chủ dưới, mổ
sẽ khó và không an toàn. Nút mạch khối trước mổ
làm khối thu nhỏ, mổ cắt 3 thùy gan có u dễ dàng.
Deutsch và CS (2001) điều trị u máu bằng nút động
mạch gan cho 3 BN, 1 nam 73 tuổi, 2 BN nữ 49 tuổi,
u có kích thước 11 x 19cm, kết quả tốt không có tai
biến gì, tác giả cho phương pháp là chọn lọc và hiệu
quả.
Các nghiên cứu ngày nay đề cao vai trò của
TAE trong việc chủ động điều trị hiệu quả các khối u
mạch máu có hoặc không có triệu chứng, các khối u
mạch máu phát triển tăng dần và các khối u có nguy
cơ xuất huyết. Tuy nhiên, sử dụng kĩ thuật TAE như
một biện pháp thay thế cho phẫu thuật trong việc
điều trị các khối u gan vỡ vẫn còn gây tranh cãi bởi
e ngại gây ra chứng thiếu máu cục bộ, xuất huyết
hoặc nhiễm trùng trong u. Sử dụng thành công kĩ
thuật TAE trước phẫu thuật cắt bỏ u mạch máu gan
vỡ được báo cáo lần đầu tiên bởi Yamamoto và
CS năm 1991. Kể từ đó, thêm 3 ca thành công nữa
được báo cáo trong tài liệu, mà không có BN nào
tử vong.
Trong hai ca của chúng tôi, tổn thương là dưới
bao và khu trú ở hạ phân thùy IV của thùy trái và
khối u to chiếm toàn bộ gan phải. Chụp CT Scanner
tổn thương cho thấy ngấm thuốc cản quang hướng
tâm đã càng củng cố chẩn đoán u mạch máu và điều
được xác nhận qua chụp Xquang mạch. Sự lựa chọn
các chất liệu gây tắc mạch tùy thuộc vào hình ảnh
chụp Xquang mạch ban đầu và kinh nghiệm của bác
sĩ điện quang can thiệp. Nhiều chất liệu khác nhau
như spongel, polyvinyl alcohol (hạt PVA), contour
cũng như dây xoắn thép, đã được sử dụng. Chúng
tôi sử dụng hạt contour để gây tắc mạch mà không
gây ra bất kỳ biến chứng đáng kể nào.
Theo tác giả Suzuki trường hợp khối u vỡ, TAE
dẫn đến cầm máu hoặc làm giảm chảy máu, do đó
cải thiện tình trạng chung của BN, vì vậy khiến cho
phẫu thuật cắt gan sau đó trở thành một quy trình
an toàn hơn. Suzuki và CS đã theo dõi thấy sự tăng
cường đáng kể các tác nhân đông máu và giảm mất
máu trong quá trình mổ, phù hợp với bệnh đông máu
liên quan đến
đông máu nội mạch trong u mạch máu, mà đã
được xử trí với kĩ thuật TAE tiền phẫu thuật.
KẾt LUận
Nút mạch trong điều trị u máu gan khổng lồ
được coi là phương pháp an toàn và hiệu quả, có
thể áp dụng trong điều trị bảo tồn u máu gan hoặc áp
dụng tiền phẫu thuật để làm giảm thể tích u khiến mổ
dễ dàng và an toàn.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 05 - 01 / 2012 55
nghiên CỨU KHoa HỌC
hình ảnh minh họa:
Hình 2. BN nam 39 tuổi chụp động mạch gan.
Trước nút mạch
Hình 3. BN nam 39 tuổi. Sau nút mạch
Hình 4. Hoàng Say L.71 tuổi.
Hình ảnh u máu gan bằng chụp cộng hưởng từ,
năm 2006 trước nút mạch
Hình 5. Hoàng Say L.75 tuổi.
Hình ảnh khối u teo nhỏ tạo thành nang dịch,
năm 2010 sau 4 năm nút mạch
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 05 - 01 / 201256
nghiên CỨU KHoa HỌC
1. Jain V, Ramachandran V, Garg R, pal S,
Gamanagatti SR, Srivastava DN (2010). “Spontaneous
rupture of a giant hepatic hemangioma-sequential
management with transcatheter arterial embolization
and resection”. Saudi J Gastroenterol, 2010 Nov 23;
16:116-9.
2. Suzuki H, Nimura Y, Kamiya J, Kondo S, Nagino
M, Kanai M et al (1997). “Preoperative transcatheter
arterial embolisation for giant cavernous hemangioma
of the liver with consumption coagulopathy”. Am J
Gastroentero 92: 688-9.
3. Haefen V (1998). “Inaugural dissertation”.
Wurzbung. Yamamoto.
4. Sewell JH, Weiss K. “Spontaneous rupture
of hemangioma of the liver”. (1961). “A review of the
literature and presentation of illustrative case”. Arch
Surg 83:729-33.
5. K. Vassiou, H. Rountas. “Embolization of giant
hepatic hemagioma prio to urgent live resection”. (2007)
“Case report and review of the literature”. Cardiovas.
Intervent. Radiol. 30:800 - 802. DOI 10.107/s00270 - 007
- 9057 – y.
6.Tonin Green, John D.Emilia(2008). “Managing
a spontaneously ruptured giant hepatic hemangioma
nonoperatively”. Published Online: Wednesday, January
1, 2008.
7. Deutsch GS, Yeh KA, Bates WB 3rd, Tannehill
WB (2001). “Embolization for management of hepatic
hemangiomas”. Am surgery. Feb 67(2),159-64.
Department of Surgery, Medical college of Georgia,
Augusta 30912, USA.
8. Mohan S, Gupta A, Verma A et al (2007). “Non
surgical management of a giant liver hemangioma”. Indian
J Radiol G. mht. Interventional Radiology,vol.1, 81-83.
9. Nobuhisa Akamatsu, Yasuhiko Sugawara,
Masahiko Komagome et al (2010). “Giant liver
hemangioma resected by trisectorectomy after efficient
volume reduction by transcatheter arterial embolization:
a case report”. J.of Medical cases reports. http.//www
jmedicalcasereports.com/content/4/1/283.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÓM TẮT
Mục đích: Giới thiệu 2 trường hợp u máu gan kích thước lớn được điều trị bảo tồn bằng nút động mạch gan
siêu chọn lọc.
Đối tượng và phương pháp: 2 BN 1 có khối u máu 16 x 17cm, 1 có khối 6 x 9cm được định nghĩa là u máu
khổng lồ, chẩn đoán bằng chụp cắt lớp vi tính tiếp theo nút động mạch chon lọc với hạt PVA.
Kết quả và bàn luận: Sau điều trị không có tai biến nào đáng kể ngoài đau và sốt khống chế được bằng thuốc.
Kết quả gần 6 tháng và sau 4 năm cho thấy khối nhỏ đi và hết triệu chứng đau. Trên thế giới đã có 1 số công trình
công bố hiệu quả của phương pháp đối với u máu khổng lồ.
Kết luận: Nút động mạch gan có thể áp dụng cho u máu gan lớn trong điều trị bảo tồn làm hết đau tức và giảm kích
thước khối, có thể áp dụng làm giảm kích thước khối trước mổ tránh tai biến chảy máu và giúp phẫu thuật an toàn.
NGƯỜI THẨM ĐỊNH: PGS. Vũ Long
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nut_mach_dieu_tri_u_mau_gan_khong_lo_bao_cao_2_ca.pdf