Tác động của tài chính toàn diện và các
yếu tố vĩ mô – thể chế đến ổn định tài chính
đã thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên
cứu và hoạch định chính sách, và kết quả
thực nghiệm cho thấy kết quả tương đối đa
chiều. Nghiên cứu này được thực hiện góp
phần khẳng định thêm lập luận tài chính toàn
diện, đo lường bằng phương pháp PCA qua
ba chỉ số số lượng ATM, số lượng chi nhánh
NHTM và số lượng tài khoản tiền gửi trên
1.000 người trưởng thành có tác động tích
cực đến ổn định tài chính, thông qua tỷ lệ nợ
xấu ngân hàng giảm, xác suất vỡ nợ của các
tổ chức tài chính thấp hơn. Do đó, khuôn khổ
pháp lý cho mô hình đại lý ngân hàng (agent
banking) nhằm mở rộng phạm vi bao phủ
điểm cung cấp dịch vụ ngân hàng đến gần
với người dân nên được xem xét. Điều này sẽ
cho phép ngân hàng được giao đại lý cho các
chủ thể không phải ngân hàng làm đại lý,
cung ứng một số dịch vụ ngân hàng theo ủy
quyền của ngân hàng. Khi đó, khả năng tiếp
cận ngân hàng, sử dụng tài khoản thanh toán
và tiền gửi của công chúng trở nên thuận lợi
hơn, là bước đầu tiên để tiếp cận đến tất cả
các loại sản phẩm dịch vụ tài chính khác như
tiết kiệm, tín dụng, bảo hiểm và đầu tư.
Ngoài ra, kết quả thực nghiệm cho thấy các
tác động thuận chiều của chất lượng thể chế
đến ổn định tài chính thông qua giảm tỷ lệ nợ
xấu. Các quốc gia đang phát triển có hệ
thống tài chính chưa được tổ chức tốt cần
được tái cấu trúc, gắn với cải thiện tính toàn
vẹn của các định chế tài chính, cùng với
khung thể chế minh bạch và đồng bộ sẽ góp
phần ổn định tài chính. Kết quả trên cũng thể
hiện tỷ lệ tín dụng nội địa và lãi suất thực có
tác động nghịch chiều đến ổn định tài chính,
tỷ lệ nợ xấu tăng. Do đó, với các phát hiện
này, nghiên cứu đề xuất các nhà hoạch định
chính sách của các quốc gia đang phát triển,
trong đó có Việt Nam thực hiện các biện
pháp tài chính toàn diện, loại bỏ các ràng
buộc về khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính
ngân hàng cùng với sự hoàn thiện thể chế, cơ
sở hạ tầng tài chính, đồng thời với kiểm soát
tín dụng và lãi suất thực chặt chẽ sẽ góp phần
vào mục tiêu ổn định tài chính của quốc gia.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 318 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ổn định tài chính, tài chính toàn diện và chất lượng thể chế - Bằng chứng thực nghiệm từ các quốc gia đang phát triển tại châu Á, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
116
ỔN ĐỊNH TÀI CHÍNH, TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN VÀ CHẤT LƯỢNG
THỂ CHẾ - BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM TỪ CÁC QUỐC GIA
ĐANG PHÁT TRIỂN TẠI CHÂU Á
FINANCIAL STABILITY, FINANCIAL INCLUSION AND INSTITUTIONAL QUALITY –
EMPERICAL EVIDENCE FROM ASIAN DEVELOPING COUNTRIES
Ngày nhận bài: 21/08/2019
Ngày chấp nhận đăng: 30/12/2019
Nguyễn Thị Mỹ Linh
TÓM TẮT
Kể từ sau hậu quả của khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, những tác động của tài chính
toàn diện đến ổn định tài chính càng được chú trọng. Bài viết này đánh giá tác động của tài chính
toàn diện, thu nhập bình quân đầu người, tỷ lệ tín dụng nội địa cung cấp cho khu vực tư/GDP, lãi
suất thực, lạm phát và chất lượng thể chế đến ổn định tài chính tại các quốc gia đang phát triển ở
Châu Á bằng phương pháp thực nghiệm. Bài viết sử dụng kỹ thuật ước lượng GMM cho dữ liệu
bảng từ 16 quốc gia trong giai đoạn 2008 – 2017. Kết quả nghiên cứu cho thấy tài chính toàn diện
và chất lượng thể chế có tác động tích cực đến ổn định tài chính, tỷ lệ nợ xấu giảm. Trong khi đó
tỷ lệ tín dụng nội địa cung ứng cho khu vực tư và lãi suất có ảnh hưởng tiêu cực đến ổn định tài
chính, tỷ lệ nợ xấu tăng. Các phát hiện này đưa đến một số hàm ý chính sách cho chính phủ các
quốc gia đang phát triển tại khu vực này.
Từ khóa: Ổn định tài chính, tài chính toàn diện, chất lượng thể chế, GMM.
ABSTRACT
In the aftermath of the 2008 global financial crisis, the implications of financial inclusion for financial
stability has come under increased scrutiny. The objective of this study is to show how financial
inclusion, GDP per capita, propotion of domestic credit provided to private sector/GDP, real
interest rate, inflation and institutional quality affect financial stability in Asian developing countries
by employing Generalized Method of Moments (GMM) to analyse a panel data of 16 countries
spanning from 2008 to 2017. The regression results show that financial inclusion, and institutional
quality have significantly positive influences on financial stability, non-perfroming loan ratio
decreases. Meanwhile, proportion of domestic credit provided to private sector/GDP and real
interest rate have significantly negative impact on financial stability, non-performing ratio increases.
This results have several significant contributions to policy makers of these countries.
Keywords: Financial stablility, financial inclusion, institutional quality, GMM.
1. Giới thiệu
Khái niệm chính toàn diện là vấn đề được
đặt ra đầu tiên từ những năm 2000, sau các
kết quả nghiên cứu thực nghiệm về tác động
tích cực của nó đến mục tiêu xóa đói giảm
nghèo tại các quốc gia (Shiimi 2010). Sau đó,
tài chính toàn diện càng được quan tâm nhiều
hơn kể từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu
vào năm 2008. Các bằng chứng thực nghiệm
đã cho thấy sự ổn định tài chính góp phần vào
sự phát triển bền vững của các quốc gia và
ngược lại bất ổn tài chính cản trở nghiêm
trọng quá trình tăng trưởng của các nền kinh
tế đang phát triển lẫn phát triển (Creel và
cộng sự, 2015). Tuy nhiên cũng có những
bằng chứng cho thấy tài chính toàn diện
không tác động hoặc tác động nghịch chiều
đến ổn định tài chính. Mục tiêu nghiên cứu
của bài viết tập trung xem xét tác động của tài
chính toàn diện đến ổn định tài chính trong đó
có kiểm soát các yếu tố cấu trúc nền tảng vĩ
Nguyễn Thị Mỹ Linh, Trường Đại học Tài chính
– Marketing
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(04) - 2019
117
mô bao gồm tín dụng nội địa được cung ứng
cho khu vực tư, lạm phát, lãi suất và chất
lượng thể chế; trên một mẫu gồm 16 quốc gia
khu vực Châu Á giai đoạn 2008 – 2017 bằng
phương pháp GMM. Qua đó có cái nhìn tổng
thể giúp các quốc gia đang phát triển trong
khu vực và Việt Nam – vốn có mức độ tài
chính toàn diện khá thấp – nhận diện được
mức độ và chiều hướng tác động của các yếu
tố nhằm đưa ra các chính sách phù hợp để giữ
vững ổn định tài chính lâu dài. Phương pháp
GMM được sử dụng để có thể cho ra các hệ
số ước lượng vững, không chệch, phân phối
chuẩn và hiệu quả ngay cả trong điều kiện giả
thiết nội sinh bị vi phạm. Trong các yếu tố mà
bài viết kiểm định thì chất lượng thể chế được
quan tâm nhiều hơn do chưa có nghiên cứu
trong nước đề cập và không nhiều nghiên cứu
ngoài nước thực hiện. Chỉ tiêu đánh giá chất
lượng thể chế được các nghiên cứu sử dụng
khá đa dạng như bộ chỉ số của ICRG, BERI,
Polity IV, Freedom house hay quản trị công
toàn cầu do WB công bố. Riêng nghiên cứu
này sử dụng bộ chỉ số đo lường của Polity IV
mà một số các nghiên cứu sử dụng như
Almarzoqi và cộng sự (2015). Đối với yếu tố
tài chính toàn diện, các nghiên cứu sử dụng
các thước đo rất khác nhau. Riêng nghiên cứu
này sử dụng phương pháp phân tích thành
phần chính (PCA) để xây dựng chỉ tiêu đo
lường tài chính tài chính toàn diện dựa trên
việc tích hợp các chỉ tiêu thành phần (trong
giới hạn về tính sẵn có của dữ liệu) nhằm tối
ưu hóa thể hiện sự biến thiên của dữ liệu, bao
gồm số lượng máy rút tiền tự động/100.000
người trưởng thành, số lượng chi nhánh ngân
hàng thương mại/100.000 người trưởng
thành, số lượng tài khoản tiền gửi/1.000
người trưởng thành.
2. Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu thực
nghiệm
2.1. Định nghĩa ổn định tài chính và tài
chính toàn diện
2.1.1. Ổn định tài chính
Kể từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu
năm 2008, các nhà hoạch định chính sách đã
đặt mối quan tâm về phương thức đo lường
tổng thể vĩ mô nhằm giám sát và điều tiết tài
chính. Tuy nhiên, không có định nghĩa thống
nhất về ổn định tài chính do tính phức tạp
của hệ thống tài chính cùng tính đa dạng của
quy mô, thể chế, sản phẩm và thị trường.
Theo Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB)
ổn định tài chính là điều kiện trong đó hệ
thống tài chính, bao gồm các trung gian tài
chính, thị trường và cơ sở hạ tầng tài chính
có khả năng chịu được các cú sốc làm giảm
khả năng gián đoạn quá trình trung gian tài
chính phân bổ tiết kiệm cho các cơ hội đầu tư
sinh lời một cách đáng kể. ECB xác định ba
điều kiện cụ thể liên quan đến ổn định tài
chính: (i) Hệ thống tài chính có thể di chuyển
các nguồn lực từ người tiết kiệm sang nhà
đầu tư một cách hiệu quả và thuận lợi; (ii)
Rủi ro tài chính cần được đánh giá, định giá
hợp lý, chính xác và cần được quản lý tương
đối tốt; (iii) Hệ thống tài chính nằm trong
trạng thái có thể hấp thụ dễ dàng các cú sốc
kinh tế tài chính thực sự và bất ngờ.
Trong các điều kiện trên, điều kiện thứ ba
là quan trọng nhất do việc không thể hấp thụ
các cú sốc có thể dẫn đến một vòng xoáy đi
xuống, theo đó các trung gian tài chính tạo
nên các tác động dây chuyền trong hệ thống,
dẫn đến khủng hoảng tài chính tổng thể và
phá vỡ cơ chế trung gian tài chính một cách
rộng rãi.
Tương tự, Anatolyevna và Ramilevna
(2013) định nghĩa ổn định tài chính là điều
kiện hệ thống tài chính, bao gồm thị trường
tài chính, trung gian tài chính và cơ sở hạ
tầng thị trường tài chính có thể có thể chống
lại những cú sốc tài chính làm rối loạn hoạt
động phân phối tiết kiệm cho các cơ hội đầu
tư sinh lời. Định nghĩa này hàm ý ổn định tài
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
118
chính có liên kết chặt chẽ với việc giảm thiểu
các rủi ro và khả năng chống lại các cú sốc.
Khái niệm về sự ổn định tài chính có thể
khác nhau từ các nền kinh tế phát triển đến
các nền kinh tế đang phát triển. Tại các quốc
gia phát triển cùng với sự phát triển của hệ
thống tài chính, ổn định tài chính chủ yếu
được kết luận từ tình trạng của các tổ chức
tài chính phi ngân hàng như quỹ hưu trí, nhà
môi giới, quỹ đầu tưTuy nhiên, với các
nền kinh tế đang phát triển, thị trường chứng
khoán chưa hoàn thiện, các công ty bảo hiểm
và đầu tư chủ yếu phụ thuộc vào các khoản
vay ngân hàng. Do đó, các ngân hàng được
coi là trụ cột chính của ổn định tài chính và
cửa ngõ của ổn định kinh tế (Popovska
2014).
Như vậy, các định nghĩa trên cho thấy ổn
định tài chính nhấn mạnh đến khả năng phục
hồi của các trung gian tài chính trước những
cú sốc và khả năng tiếp tục thực hiện hiệu
quả chức năng cơ bản là trung gian tiết kiệm
và đầu tư, tiêu dùng trong nền kinh tế thực.
2.1.2. Tài chính toàn diện
Đối với định nghĩa về tài chính toàn diện,
nó được xác định và thừa nhận rộng rãi hơn.
Tại các quốc gia có thu nhập thấp, một bộ
phận lớn dân số và các công ty không tiếp
cận được các dịch vụ tài chính chính thức vì
nhiều lý do, bao gồm: mạng lưới chi nhánh
hạn chế của các ngân hàng và các tổ chức tài
chính; số lượng máy rút tiền tự động (ATM)
có giới hạn; các khoản tiền gửi và cho vay
nhỏ có chi phí tương đối cao; hạn chế về
nhận dạng tư cách cá nhân thỏa mãn; về tài
sản đảm bảo và thông tin tín dụng. Hannig và
Jansen (2010) cho rằng tài chính toàn diện
nhằm mục đích thu hút số lượng người chưa
sử dụng dịch vụ ngân hàng tham gia vào hệ
thống tài chính chính thức để họ có cơ hội
tiếp cận các dịch vụ tài chính từ tiết kiệm,
thanh toán đến tín dụng và bảo hiểm. Theo
Khan (2011), đây là quá trình đảm bảo khả
năng tiếp cận các dịch vụ tài chính tín dụng
kịp thời và đầy đủ khi cần của các nhóm chủ
thể dễ bị tổn thương là bộ phận nhóm người
có thu nhập thấp với chi phí có thể đủ trang
trải. Tài chính toàn diện cho phép khả năng
tiếp cận tài khoản ngân hàng được hỗ trợ bởi
bảo hiểm tiền gửi, khả năng tiếp cận nguồn
vốn tín dụng với chi phí phải chăng và tiếp
cận hệ thống thanh toán. Demirguc-Kunt và
Klapper (2012) cho rằng tài chính toàn diện
nhấn mạnh về khả năng tiếp cận tín dụng từ
một tổ chức tài chính chính thức, tuy nhiên
khái niệm này có nhiều chiều hơn. Tài khoản
chính thức bao gồm các khoản vay và tiền
gửi, có thể được xem xét từ quan điểm về tần
suất sử dụng, phương thức tiếp cận và mục
đích của các tài khoản. Bên cạnh đó còn có
các lựa chọn thay thế cho các tài khoản chính
thức, bao gồm tiền điện tử và các dịch vụ tài
chính chính khác ngoài ngân hàng là bảo
hiểm, đặc biệt là cho y tế và nông nghiệp.
Qua các định nghĩa trên, có thể nhận thấy
định nghĩa về tài chính toàn diện có trọng
tâm là việc công chúng dễ dàng tiếp cận và
sử dụng các dịch vụ tài chính an toàn với chi
phí hợp lý.
2.2. Cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa tài
chính toàn diện và ổn định tài chính
Nền tảng cho mối quan hệ này xuất phát
từ các lý thuyết trung gian tài chính, lý thuyết
tài chính – tăng trưởng, lý thuyết thông tin
bất cân xứng và lý thuyết cạnh tranh - ổn
định
Lý thuyết trung gian tài chính
Lý thuyết này được đề xuất bởi Diamond
(1984), giải thích cách thức các ngân hàng
hoạt động như một trung gian tài chính giữa
người đi vay và người tiết kiệm khi nó huy
động vốn và cho vay vốn, thu hẹp khoảng
cách giữa khách hàng thiếu hụt chi tiêu và
khách hàng thặng dư chi tiêu trên thị trường
(Ndebbio, 2004). Honohan (2008) cho rằng
vốn tích lũy cùng với thị trường tài chính
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(04) - 2019
119
không hoàn hảo là những yếu tố then chốt
quyết định mức độ mà khách hàng nghèo có
thể tiếp cận nguồn vốn để đầu tư vào tiêu
dùng và vốn vật chất. Do đó, tiến trình phát
triển tài chính, đổi mới, các mô hình tăng
trưởng và hội tụ thu nhập có liên quan chặt
chẽ trong việc hỗ trợ tài chính toàn diện.
Thông qua gia tăng mức độ tài chính tài
chính toàn diện, các ngân hàng nỗ lực giảm
chi phí giao dịch trong thị trường. Điều này
làm giảm tình trạng thông tin bất cân xứng,
do đó làm giảm sự không hoàn hảo của thị
trường giữa những người tham gia (Hannig
và Jansen, 2010).
Lý thuyết tài chính – tăng trưởng
Lý thuyết này được đề xuất bởi Bagehot
(1973), lập luận phát triển tài chính tạo nên
môi trường tăng trưởng kinh tế thuận lợi và
hiệu quả. Nếu một bộ phận lớn người dân
không dễ dàng tiếp cận các sản phẩm tài
chính trong khả năng hoàn trả sẽ dẫn đến bất
bình đẳng thu nhập và mất cân đối kéo dài,
làm chậm tốc độ tăng trưởng và phát triển
kinh tế. Demirguc-Kunt và Levine (2008)
cho rằng khả năng tiếp cận tài chính có vai
trò quan trọng đối với tăng trưởng và phát
triển kinh tế của bất kỳ quốc gia nào.
Bagehot (1973) lý giải việc các tổ chức tài
chính khi thực hiện các chức năng có hiệu
quả sẽ cải thiện hiệu quả kinh tế tổng thể, mở
rộng thanh khoản, huy động tiết kiệm, tăng
cường tích lũy vốn, dịch chuyển nguồn lực từ
khu vực truyền thống (không tăng trưởng)
sang khu vực tăng trưởng hiện đại. Sparatt và
Stephen (2013) cho rằng sự thành công của
tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào tài chính
toàn diện, cấu trúc và sự ổn định của các tổ
chức tài chính. Điều này thúc đẩy sự phản
hồi các hoạt động kinh doanh hiệu quả do đó
thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Lý thuyết thông tin bất cân xứng
Lý thuyết này được George đề xuất vào
năm 1970, cho rằng trong các hoạt động tiếp
thị dịch vụ tài chính, việc phân biệt giữa
người đi vay tốt và người đi vay xấu là một
thách thức bởi tình trạng thông tin bất cân
xứng phát sinh khi một người trong hợp đồng
tín dụng có nhiều như hiểu biết hoặc có
thông tin tốt hơn so với người kia. Lambert
(2011) quan sát thông tin bất cân xứng có thể
dẫn đến lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo
đức. Bofondi và Gobbi (2003) cho rằng bất
cân xứng thông tin làm tín dụng bị thu hẹp,
ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động và ổn
định định tài chính. Tài chính toàn diện có
đặc điểm là sự gia nhập của đông đảo khách
hàng mới, thiếu kinh nghiệm vào khu vực tài
chính chính thức (Hannig và Jansen, 2010)
đã tạo ra một thách thức trong thị trường nợ
vì người cho vay gặp khó khăn trong việc
xác định cho khách hàng nào đó vay có phải
là tốt hay không, từ đó đe dọa hiệu quả tài
chính và tiếp theo là ổn định tài chính. Do
đó, hoạt động của các ngân hàng trở nên khó
khăn trong việc bối cảnh tài chính toàn diện
đối mặt với tình trạng thông tin bất cân xứng.
Lý thuyết cạnh tranh - ổn định
Các nhà kinh tế học cho rằng tại các thị
trường có hệ thống ngân hàng cạnh tranh cho
thấy sự ổn định hơn so với những thị trường
có hệ thống ngân hàng kém cạnh tranh.
Keeley (1990) đề xuất giả thuyết giá trị ngân
hàng, cho rằng các ngân hàng có sức mạnh
thị trường có thể giảm mức độ rủi ro do đó
nó duy trì sự độc quyền tương đối. Khi cạnh
tranh tăng lên, sức mạnh thị trường sụt giảm,
làm giảm giá trị ngân hàng, thúc đẩy ngân
hàng theo đuổi các dự án và khách hàng rủi
ro hơn hàm ý rằng khi mức độ tài chính toàn
diện bao phủ hơn làm tăng nợ xấu và mức độ
rủi ro cuối cùng làm suy yếu sự ổn định.
Ngược với giả thuyết giá trị ngân hàng, Boyd
và De-Nicole (2005) quan sát cạnh tranh có
thể là một mô hình dịch chuyển rủi ro. Khi
sức mạnh thị trường của các ngân hàng tăng
lên, sẽ áp mức lãi suất cao cho những người
vay, sau đó lại gặp khó khăn trả nợ. Các
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
120
doanh nghiệp phải đối mặt với lãi suất cao
cuối cùng làm tăng rủi ro cho các dự án đầu
tư của họ, một thực tế dẫn đến các khoản vay
có vấn đề. Ahamed và Mallick (2017) cho
rằng mức độ tài chính toàn diện phụ thuộc rất
nhiều vào mức độ cạnh tranh của ngân hàng
trên thị trường. Tiếp theo, cạnh tranh ngân
hàng lại là yếu tố chính quyết định sự ổn
định ngân hàng. Do đó, nghiên cứu này xem
xét sự ảnh hưởng của tài chính toàn diện đối
với sự ổn định của hệ thống bởi tính cạnh
tranh trên thị trường.
Như vậy bốn lý thuyết trên đã giải thích
vai trò của toàn diện tài chính đến ổn định tài
chính với các lập luận khác nhau. Lý thuyết
trung gian tài chính (Diamond, 1984) cho
rằng sự không hoàn hảo của thị trường tài
chính quyết định mức độ trung gian của các
ngân hàng. Tài chính toàn diện làm giảm sự
không hoàn hảo của thị trường để mang các
chủ thể ban đầu bị loại trừ tham gia tiếp cận
các dịch vụ tài chính. Với vai trò là trung
gian tài chính, kênh thúc đẩy tài chính toàn
diện trong nền kinh tế, ngân hàng phân bổ
quỹ cho vay, tạo nên sự liên kết trong xã hội,
tạo ra lợi nhuận và hoạt động ổn định. Lý
thuyết tài chính - tăng trưởng (Bagehot,
1973) kết luận một tổ chức tài chính ổn định
thực hiện vai trò cung cấp dịch vụ tài chính
hiệu quả, cho phép công dân tiếp cận các
dịch vụ tài chính, do đó thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế tổng thể. Tiếp theo, lý thuyết thông
tin bất cân xứng của George (1970) kết luận
rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghịch xuất
phát từ sự bất cân xứng thông tin làm gia
tăng mâu thuẫn trong cho vay, gây ảnh
hưởng đến hiệu quả và sự ổn định ngân hàng.
Bên cạnh đó, lý thuyết giải thích sự ảnh
hưởng của các chính sách tài chính toàn diện
đối với hiệu quả ngân hàng để giảm thông tin
thiếu rõ ràng, từ đó kích thích cạnh tranh
ngân hàng và ổn định ngân hàng. Cuối cùng,
giả thuyết cạnh tranh - ổn định của Keeley
(1990) cho rằng các ngân hàng có sức mạnh
thị trường giảm được rủi ro. Ngược lại Boyd
(2005) quan sát khi sức mạnh thị trường của
ngân hàng tăng dẫn đến lãi suất cao và làm
tăng nợ xấu, rủi ro của ngân hàng tăng. Tác
động của tài chính toàn diện phụ thuộc vào
vào khả năng cạnh tranh trên thị trường và
sức cạnh tranh là một trong những yếu tố
quan trọng quyết định sự ổn định của ngân
hàng.
2.3. Các nghiên cứu thực nghiệm
Trên nền tảng lý thuyết, các nghiên cứu
thực nghiệm đã được tiến hành, cho thấy
chiều hướng tác động tích cực lẫn tiêu cực
của tài chính toàn diện đến ổn định tài chính.
Những kết quả đa chiều này tạo nên đường
dẫn cho các nhà nghiên cứu khám phá và
thiết lập mối quan hệ nhân quả giữa chúng.
Morgan and Pontines (2014) sử dụng kỹ
thuật ước lượng GMM cho dữ liệu bảng giai
đoạn 2005 – 2011 xem xét tác động của tài
chính toàn diện thông qua các thước đo là dư
nợ cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa/tổng dư
nợ cho vay của ngân hàng, số lượng doanh
nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) đi vay/tổng số
người đi vay ngân hàng (cùng với một số
biến kiểm soát) đối với ổn định tài chính đo
lường bằng tỷ lệ nợ xấu và điểm số Z của
ngân hàng. Bằng chứng cho thấy tỷ lệ cho
vay DNNVV tăng lên giúp ổn định tài chính,
làm giảm tỷ lệ nợ xấu và xác suất phá sản
của các tổ chức tài chính. Bên cạnh đó, thu
nhập bình quân đầu người tăng làm tăng tính
ổn định tài chính, trong khi tỷ lệ cấp tín dụng
của ngân hàng tư/GDP tăng làm giảm ổn
định tài chính. Kết quả này đồng nhất với cả
hai ước đo ổn định tài chính là tỷ lệ nợ xấu
và điểm số Z của ngân hàng.
Almarzoqi và cộng sự (2015) nghiên cứu
trên mẫu 85 quốc gia giai đoạn 1998 – 2011
nhằm xác định các yếu tố quyết định đến
phát triển tài chính được đo lường theo ba
góc độ: chiều sâu, hiệu quả và sự ổn định.
Thông qua sử dụng khung phân tích đa khía
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(04) - 2019
121
cạnh của tài chính, nghiên cứu phân chia các
yếu tố quyết định phát triển tài chính thành
hai loại: nền tảng cấu trúc và các yếu tố
chính sách, thể chế. Với kỹ thuật ước lượng
OLS, FE, GMM và kiểm tra tính vững của
mô hình, nghiên cứu cho thấy tăng trưởng
thu nhập bình quân đầu người, lạm phát,
dòng tiền kiều hối, chất lượng thể chế có tác
động tích cực tới ổn định tài chính (đo bằng
độ lệch giữa giá trị tiêu chuẩn trừ giá trị gốc
trên giá trị tiêu chuẩn của tỷ lệ nợ xấu ngân
hàng), khi độ lệch này giảm. Trong khi đó,
độ mở thương mại và biến giả khủng hoảng
kinh tế có tác động nghịch chiều đến độ lệch
này.
Siddik và cộng sự (2018) sử dụng dữ liệu
bảng đa quốc gia giai đoạn 2001-2013 điều
tra ảnh hưởng của tài chính toàn diện đến ổn
định tài chính đo bằng điểm số Z. Kết quả
thực nghiệm bằng phương pháp GMM cho
thấy các biến tài chính toàn diện với thước đo
tương tự với nghiên cứu của Morgan and
Pontines (2014) có đóng góp tích cực đáng
kể cho sự ổn định tài chính. Các kết quả cũng
chỉ ra rằng GDP bình quân đầu người, thanh
khoản, tỷ lệ tín dụng tư nhân/GDP có ảnh
hưởng tích cực và tỷ lệ tín dụng nội địa cung
cấp cho khu vực tư/GDP và khủng hoảng tài
chính có ảnh hưởng nghịch chiều đến ổn định
tài chính. Như vậy các chính sách hướng tới
tài chính toàn diện sẽ có tác dụng dẫn đến sự
ổn định tài chính lớn hơn.
Anthony Orji (2019) nghiên cứu mối quan
hệ giữa ổn định tài chính, chất lượng thể chế
và tài chính toàn diện tại Nigeria thông qua
sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian theo quý giai
đoạn 1986 - 2013 với kỹ thuật ước lượng mô
hình tự hồi quy phân phối trễ và hiệu chỉnh
sai số không giới hạn (ARDL – UECM). Kết
quả cho thấy bằng chứng ổn định tài chính có
tác động đến tài chính toàn diện trong dài
hạn. Chất lượng thể chế có tác động đến tài
chính toàn diện cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Dựa trên kết quả ổn định tài chính và chất
lượng thể chế có ảnh hưởng tích cực đến tài
chính toàn diện trong dài hạn, nghiên cứu đề
xuất các nhà lập chính sách theo đuổi chương
trình toàn diện tài chính cần tập trung vào
yếu tố thể chế bên cạnh các yếu tố tài chính
và kinh tế khác do chúng sẽ tương tác với
nhau trong việc tạo ra một quỹ đạo phát triển
hài hòa và bền vững. Tại một quốc gia mà
các thể chế kinh tế, pháp lý, tư pháp và chính
trị còn yếu, nhiều hộ gia đình (người tiết
kiệm) và các công ty (người đi vay/nhà đầu
tư) có thể không được bảo vệ khi phát sinh
các vấn đề liên quan đến việc thực thi hợp
đồng tài chính hoặc các phá vỡ thỏa thuận
trong nền kinh tế.
Bên cạnh các kết quả thực nghiệm tài
chính toàn diện thúc đẩy ổn định tài chính,
các bằng chứng khác cho thấy tài chính toàn
diện là mối đe dọa đối với ổn định tài chính.
Mehrotra và Yetman (2015) lập luận khi tín
dụng được mở rộng một cách nhanh chóng
và liều lĩnh, tài chính toàn diện nhiều không
đảm bảo tính chắc chắn cho ổn định tài
chính. Lợi ích của tài chính toàn diện vào
thời điểm tốt chuyển thành ngoại ứng tiêu
cực trong thời kỳ khủng hoảng (Torre và
cộng sự, 2013). Sahay và cộng sự (2015)
quan sát từ dữ liệu bảng đa quốc gia nhận
thấy tác động tiêu cực của tài chính toàn diện
đến ổn định tài chính. Các tác giả lập luận
khi không có sự giám sát thích hợp, mở rộng
tín dụng làm tăng rủi ro ổn định tài chính. An
toàn tài chính có xu hướng giảm khi khả
năng tiếp cận tín dụng tăng và càng suy giảm
hơn ở các quốc gia giám sát ngân hàng kém.
Ngược lại, các quốc gia có sự giám sát hiệu
quả sẽ hưởng lợi ổn định tài chính với khả
năng tiếp cận tín dụng nhiều hơn.
3. Mô hình và phương pháp nghiên cứu
3.1. Mô hình nghiên cứu
Trên cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu
trước, mô hình thực nghiệm được thể hiện
như sau:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
122
i = 1, N; t = 1, , T
Trong đó FS là biến phụ thuộc, phản ánh
mức độ ổn định tài chính. FI là biến chính,
đo lường tài chính toàn diện, X là tập hợp
vectơ biến kiểm soát, cụ thể được mô tả
trong Bảng 1.
Loại
biến
Ký hiệu
biến
Mô tả Nguồn
Biến
phụ
thuộc
FS Ổn định tài chính,
Tỷ lệ nợ xấu/tổng
dư nợ của ngân
hàng
WDI
Biến
độc
lập
FI Tài chính toàn diện,
chỉ số được xác
định bằng phương
pháp PCA dựa trên
thước đo số lượng
ATM, số lượng chi
nhánh NHTM và số
lượng tài khoản tiền
gửi trên 1.000 người
trưởng thành
WDI
Biến
kiểm
soát
LGDPpc Logarit tự nhiên của
thu nhập bình quân
đầu người
WDI
DOP Tín dụng nội địa
được cung ứng cho
khu vực tư/GDP
WDI
INF Tỷ lệ lạm phát (%
chỉ số giá tiêu dùng
theo năm)
WDI
INT Lãi suất thực (%
năm)
WDI
INS Chất lượng thể chế,
thước đo mã hóa
chế độ chính trị của
quốc gia theo
Jaggers và Gurr
(1995); Marshall và
Jaggers (2002), dao
động từ -10 đến 10,
với 10 đại diện cho
một nền dân chủ
toàn diện
Polity
IV
Project
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Dữ liệu được thu thập cho 16 quốc gia
đang phát triển thuộc khu vực Châu Á giai
đoạn 2008 – 2017 bao gồm Việt Nam,
Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Indonesia,
Philippines, Afghanistan, Armenia, Bhutan,
Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh, Pakistan,
Georgia, Kazakhstan, Kyrgyz Republic (các
quốc gia khác trong khu vực không nằm
trong mẫu nghiên cứu do số liệu có giới hạn
và có tính chất đột biến).
Để đánh giá mức độ ổn định tài chính,
nhiều chỉ tiêu đo lường đã được sử dụng như
điểm số Z của ngân hàng, biến động thị
trường chứng khoán, dự phòng rủi ro tín
dụngTuy nhiên dữ liệu thống kê chưa cập
nhật. Do đó, dựa trên tính khả dụng của dữ
liệu, nghiên cứu sử dụng thước đo cho ổn
định tài chính là tỷ lệ nợ xấu của khu vực
ngân hàng. Đây là thước đo khá phổ biến,
được sử dụng trong các nghiên cứu của
Morgan & Pontines (2014), Almarzoqi và
cộng sự (2015). Tỷ lệ nợ xấu thấp hơn cho
thấy một xác suất thấp hơn về tính không ổn
định và tỷ lệ nợ xấu cao hơn cho thấy xác
suất vỡ nợ cao hơn của khu vực ngân hàng,
khi đó khu vực ngân hàng càng kém ổn định.
Tương tự như ổn định tài chính, tài chính
toàn diện có khá nhiều thước đo khác nhau.
Bài viết sử dụng phương pháp phân tích
thành phần chính PCA từ ba dẫn xuất (theo
tính chất sẵn có của dữ liệu) là số lượng
ATM, số lượng chi nhánh NHTM và số
lượng tài khoản tiền gửi trên 1.000 người
trưởng thành để cho ra chỉ số phản ánh mức
độ tài chính toàn diện tối ưu hơn. Phương
pháp này cũng được sử dụng trong nghiên
cứu của Almarzoqi và cộng sự (2015).
Việc đưa các biến kiểm soát vào mô hình
có tầm quan trọng nhất định. Đối với yếu tố
thu nhập bình quân đầu người, được kỳ vọng
sẽ có tác động tích cực đến sự ổn định tài
chính thông qua tài chính toàn diện. Thu
nhập bình quân đầu người tăng làm gia tăng
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(04) - 2019
123
mức độ tài chính toàn diện, tới lượt nó, tài
chính toàn diện thúc đẩy sự ổn định tài chính,
tỷ lệ nợ xấu thấp. Tiếp theo, tỷ lệ tín dụng
nội địa cung cấp cho khu vực tư nhân trên
GDP cũng được xem xét. Khi tỷ lệ này lớn,
nguồn lực tài chính được cung cấp cho khu
vực tư nhân nhiều hơn, có thể dẫn đến sự bất
ổn về tài chính bởi phần lớn nguồn lực này
tập trung cung ứng cho một khu vực cụ thể.
Do đó yếu tố này được kỳ vọng mang tác
động tiêu cực đến ổn định tài chính theo
Morgan và Pontines (2014), Siddik và cộng
sự (2018). Lãi suất cũng là một yếu tố được
quan sát cho thấy có mối quan hệ nhân quả
với tăng trưởng (Akbas, 2015; Sanogo và
Moussa 2017). Khi lãi suất càng thấp các chủ
thể trong nền kinh tế càng dễ dàng tiếp cận
các dịch vụ tín dụng, mang đến tác động tích
cực cho ổn định tài chính. Ngoài ra, điều cần
thiết cho sự vận hành trơn tru của hệ thống
tài chính chính là sự ổn định kinh tế vĩ mô.
Lạm phát cao hơn làm giảm lợi nhuận thực tế
làm cho đầu tư và tiết kiệm kém hấp dẫn.
Boyd và cộng sự (2001) nhận thấy các quốc
gia đối mặt với lạm phát trải qua mức độ phát
triển tài chính thấp hơn đáng kể. Rousseau và
Wachtel (2006) tương tự quan sát mức lạm
phát thấp hỗ trợ cho phát triển tài chính và
mối quan hệ tăng trưởng – tài chính bị phá
vỡ ở các nền kinh tế với tỷ lệ lạm phát luôn
vượt mức 13%. Cuối cùng, môi trường thể
chế và pháp lý là một trong những yếu tố
đóng góp sự phát triển lành mạnh của hệ
thống tài chính. La Porta và cộng sự (1997),
Levine và cộng sự (2000) cho rằng phát triển
tài chính mạnh hơn ở các nền kinh tế mà thể
chế bảo vệ, thực thi các quyền tài sản và
củng cố quyền của các chủ nợ tốt hơn. Các
quốc gia áp đặt sự tuân thủ pháp luật một
cách hiệu quả và thực thi các hợp đồng có xu
hướng phát triển các định chế tài chính trung
gian tốt hơn nhiều so với các quốc gia mà
việc tuân thủ lỏng lẻo hơn. Acemoglu và
cộng sự (2005), Demetriades và Andrianova
(2005) kết luận chất lượng của thể chế giảm
thiểu khủng hoảng đáng kể và góp vào thành
công của cải cách tài chính.
3.2. Phương pháp ước lượng
Bài viết sử dụng phương pháp ước lượng
GMM do một số vấn đề sau đây có thể phát
sinh và dẫn đến các kết quả ước lượng
phương trình (1) bị chệch:
(i) Do tính chất các biến nghiên cứu đều
là các biến số kinh tế vĩ mô nên chúng
thường có tác động hai chiều, biến FI có thể
là biến nội sinh khi nó tác động tới FS và
ngược lại FS cũng tác động tới FI. Do đó
việc hồi qui các biến này có thể dẫn đến sự
tương quan với sai số và một số biến khác có
những thuộc tính tương tự.
(ii) Các đặc tính quốc gia bất biến theo
thời gian như địa lý, văn hóa và nhân chủng
học có thể tương quan với các biến giải thích
(các tác động cố định). Các tác động cố định
này hiện diện trong đại lượng sai số của các
phương trình thực nghiệm.
(iii) Sự hiện diện của biến trễ của biến
phụ thuộc FSit-1 đưa đến khả năng tự tương
quan cao.
(iv) Dữ liệu bảng có thời gian quan sát 9
năm ít hơn số lượng các đơn vị bảng (các
quốc gia) là 16.
Các vấn đề nêu trên có thể khiến hồi quy
OLS không nhất quán và ước lượng bị chệch,
hay vấn đề nội sinh của các biến chưa thể xử
lý triệt để bằng các phương pháp như FEM,
REM hay 2SLS. Phương pháp hồi quy GMM
sai phân được phát triển bởi Arellano và
Bond (1991) có thể xử lí tốt hơn các vấn đề
trên. Tính phù hợp của các biến công cụ
trong ước lượng GMM sai phân dữ liệu bảng
được đánh giá thông qua thống kê Sargan và
thống kê Arellano-Bond. Kiểm định Sargan
với giả thuyết H0: biến công cụ có tính ngoại
sinh, nghĩa là nó không tương quan với sai
số. Vì thế P-value của thống kê Sargan càng
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
124
lớn càng tốt. Kiểm định Arellano-Bond được
dùng để phát hiện tự tương quan chuỗi ở sai
phân bậc 1. Vì thế, kết quả kiểm định tương
quan chuỗi bậc một AR(1) không cần quan
tâm, trong khi tự tương quan chuỗi bậc hai
AR(2) được kiểm định dựa trên chuỗi sai
phân bậc 1 của sai số để phát hiện hiện tượng
tự tương quan bậc một của nó.
4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
4.1. Thống kê mô tả
Bảng 2. Thống kê mô tả giá trị của các biến trong mô hình
Các biến Obs Mean Std.Dev. Min Max
FS 60 5.3166 4.2623 0.9536 20.9306
FI 60 0 .3685 0.7919 -2.3472 2.6666
LGDPpc 60 7.7534 0.8748 6.0210 9.4017
DOP 60 56.6028 41.451 3.5903 157.5671
INT 60 6.0507 5.5595 -5.6163 21.7404
INF 60 5.5332 5.0778 -6.8111 26.4186
INS 54 2.8506 5.5055 -7 9
Nguồn: Tính từ phần mềm Stata 15.0
Bảng 3. Ma trận tương quan các biến trong mô hình nghiên cứu
FS FI LGDPpc DDOP IINT IINF IINS
FS 1,0000
FI -0.0598 1,0000
LGDPpc -0.1115 -0.0137 1,0000
DOP -0.4896 0.2177 0.5160 1,0000
INT -0.0283 0.1894 -0.3538 -0.3478 1,0000
INF 0.2459 -0.3133 -0.3085 -0.3013 -0.3188 1,0000
INS -0.0880 0.0516 -0.1742 -0.4487 0.2461 -0.0782 1,0000
Nguồn: Tính từ phần mềm Stata 15.0
Bảng 2 thể hiện giá trị các biến trong mô
hình nghiên cứu, ổn định tài chính đo bằng tỷ
lệ nợ xấu ngân hàng trung bình ở các quốc
gia trong mẫu đạt giá trị dương 5.3%. Chỉ số
tài chính toàn diện trung bình là 0.3. Chỉ số
chất lượng thể chế ở các quốc gia đạt giá trị
dương 2.8 cho thấy chất lượng thể chế không
cao và có sự chênh lệch khá đáng kể từ -7
đến 9. Các hệ số tương quan trong Bảng 3
đều không quá 0.5 nên chưa xuất hiện hiện
tượng đa cộng tuyến trong mô hình.
Bảng 4. Kết quả ước lượng GMM
Coef Prob
FS(-1) 2.1153*** 0.000
(0.4350)
FI -1.6700** 0.030
(0.7706)
LGDPpc -2.5193 0.668
(5.8800)
DOP 0.1523** 0.018
(0.0641 )
INT 0.4142* 0.074
(0.2319)
INF 0.16493 0.355
(0.1783)
INS -1.0971** 0.041
( 0.5357)
AR(2) test 0.73
Sargan test 0.76
Nguồn: Tính toán từ phần mềm Stata 15.0. Dấu *,
**, *** có các mức ý nghĩa thống kê lần lượt là
10%, 5%, 1%; số liệu trong () là sai số chuẩn.
Kết quả ước lượng tại Bảng 4 cho thấy
các biến giải thích trong mô hình ngoại trừ
LGDPpc và INF có ý nghĩa thống kê tới ổn
định tài chính. Biến trễ phụ thuộc FS(-1) có ý
nghĩa thống kê, ngụ ý rằng GMM là một
phương pháp ước lượng thích hợp và có thể
dựa vào kết quả thực nghiệm để thực hiện
suy luận thống kê. Cụ thể tài chính toàn diện
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(04) - 2019
125
tác động âm có mức ý nghĩa 5% tới tỷ lệ nợ
xấu, tức ổn định tài chính tăng, tương đồng
với lập luận của lý thuyết trung gian tài
chính, thông tin bất cân xứng, tài chính –
tăng trưởng và cạnh tranh - ổn định và đồng
nhất với kết luận của Morgan and Pontines
(2014) và phần lớn các nghiên cứu thể hiện
xu hướng tích cực của tài chính toàn diện đến
ổn định tài chính khác. Tỷ lệ tín dụng nội địa
cung ứng cho khu vực tư/GDP tác động
dương có ý nghĩa tới tỷ lệ nợ xấu ở mức ý
nghĩa 1%, tức khi tỷ lệ này tăng sẽ làm suy
yếu ổn định tài chính, đúng như kỳ vọng và
tương đồng với kết quả nghiên cứu của
Morgan and Pontines (2014), Siddik và cộng
sự (2018) về mối quan hệ nghịch chiều giữa
hai yếu tố này. Đối với lãi suất thực, nó có
tác động dương có ý nghĩa đến ổn định tài
chính ở mức 10%, tương đồng với nghiên
cứu của Sango và Moussa (2017), Siddik và
cộng sự (2018). Lãi suất thực tăng lên làm
giảm khả năng trả nợ của các doanh nghiệp,
dẫn đến tình trạng nợ quá hạn tăng, mức độ
ổn định tài chính suy giảm. Đặc biệt, chất
lượng thể chế có tác động âm đến tỷ lệ nợ
xấu với mức ý nghĩa 5%, tương đồng với
Almarzoqi và cộng sự (2015). Theo Creane
và cộng sự (2004), tại các quốc gia đang phát
triển, được cho là có hệ thống tư pháp kém,
bộ máy chính quyền tham nhũng sẽ gây cản
trở cho quá trình mở rộng tín dụng, kiểm soát
và thu nợ một khi mà khoản cho vay đó đã
được phê duyệt. Đặc biệt, sự tồn tại của tham
nhũng đã gây tác động tiêu cực đến mức độ
cạnh tranh của thị trường và vì vậy dẫn đến
việc cung ứng tín dụng không hiệu quả.
Johnson và Wilson (2000) cho rằng trong
những xã hội ít truyền thống dân chủ và kỷ
luật xã hội, những người ra quyết định đứng
trước các mối liên hệ không chính thức và
các áp lực từ những nhóm người tìm kiếm lợi
ích kinh tế bất hợp pháp. Trong trường hợp
này, những quyết định cho vay bị ảnh hưởng
bởi cường độ áp lực từ việc vận động hành
lang của các nhóm quyền lợi khác nhau. Các
khoản cho vay vì vậy đạt được bởi các công
ty với mối quan hệ chính trị vững chắc nhưng
có thể là chất lượng thấp. Tác động của môi
trường thể chế lên nợ xấu được báo cáo là có
ý nghĩa thống kê trong nghiên cứu phân tích
về nợ xấu của Boudriga và cộng sự (2010),
Tanaskovic và Jandric (2014).
4.2. Kết luận và hàm ý chính sách
Tác động của tài chính toàn diện và các
yếu tố vĩ mô – thể chế đến ổn định tài chính
đã thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên
cứu và hoạch định chính sách, và kết quả
thực nghiệm cho thấy kết quả tương đối đa
chiều. Nghiên cứu này được thực hiện góp
phần khẳng định thêm lập luận tài chính toàn
diện, đo lường bằng phương pháp PCA qua
ba chỉ số số lượng ATM, số lượng chi nhánh
NHTM và số lượng tài khoản tiền gửi trên
1.000 người trưởng thành có tác động tích
cực đến ổn định tài chính, thông qua tỷ lệ nợ
xấu ngân hàng giảm, xác suất vỡ nợ của các
tổ chức tài chính thấp hơn. Do đó, khuôn khổ
pháp lý cho mô hình đại lý ngân hàng (agent
banking) nhằm mở rộng phạm vi bao phủ
điểm cung cấp dịch vụ ngân hàng đến gần
với người dân nên được xem xét. Điều này sẽ
cho phép ngân hàng được giao đại lý cho các
chủ thể không phải ngân hàng làm đại lý,
cung ứng một số dịch vụ ngân hàng theo ủy
quyền của ngân hàng. Khi đó, khả năng tiếp
cận ngân hàng, sử dụng tài khoản thanh toán
và tiền gửi của công chúng trở nên thuận lợi
hơn, là bước đầu tiên để tiếp cận đến tất cả
các loại sản phẩm dịch vụ tài chính khác như
tiết kiệm, tín dụng, bảo hiểm và đầu tư.
Ngoài ra, kết quả thực nghiệm cho thấy các
tác động thuận chiều của chất lượng thể chế
đến ổn định tài chính thông qua giảm tỷ lệ nợ
xấu. Các quốc gia đang phát triển có hệ
thống tài chính chưa được tổ chức tốt cần
được tái cấu trúc, gắn với cải thiện tính toàn
vẹn của các định chế tài chính, cùng với
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
126
khung thể chế minh bạch và đồng bộ sẽ góp
phần ổn định tài chính. Kết quả trên cũng thể
hiện tỷ lệ tín dụng nội địa và lãi suất thực có
tác động nghịch chiều đến ổn định tài chính,
tỷ lệ nợ xấu tăng. Do đó, với các phát hiện
này, nghiên cứu đề xuất các nhà hoạch định
chính sách của các quốc gia đang phát triển,
trong đó có Việt Nam thực hiện các biện
pháp tài chính toàn diện, loại bỏ các ràng
buộc về khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính
ngân hàng cùng với sự hoàn thiện thể chế, cơ
sở hạ tầng tài chính, đồng thời với kiểm soát
tín dụng và lãi suất thực chặt chẽ sẽ góp phần
vào mục tiêu ổn định tài chính của quốc gia.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Acemoglu, Daron, Simon Johnson, and James A. Robinson. "Institutions as a fundamental
cause of long-run growth." Handbook of economic growth 1 (2005): 385-472.
Ahamed, M. M., & Mallick, S. K. (2017). Is financial inclusion good for bank stability?
International evidence. Journal of Economic Behavior & Organization.
Akbas, Y. E. (2015). Financial development and economic growth in emerging market:
bootstrap panel causality analysis. Theoretical & Applied Economics, 22(3).
Almarzoqi, R., Naceur, M. S. B., & Kotak, A. (2015). What matters for financial
development and stability? (No. 15-173). International Monetary Fund.
Anatolyevna, M. I., & Ramilevna, S. L. (2013). Financial stability concept: main
characteristics and tools. World Applied Sciences Journal, 22(6), 856-858.
Anthony-Orji, O. I., Orji, A., Ogbuabor, J. E., & Nwosu, E. O. (2019). Do financial stability
and institutional quality have impact on financial inclusion in developing economies?
A new evidence from Nigeria. International Journal of Sustainable Economy, 11(1),
18-40.
Arellano, M., & Bond, S. (1991). Some tests of specification for panel data: Monte Carlo
evidence and an application to employment equations. The review of economic
studies, 58(2), 277-297.
Bagehot, W., & Street, L. (1915). A description of the money market. Murray.
Bofondi, M., & Gobbi, G. (2003). Bad loans and entry in local credit markets. Bank of Italy.
Boudriga, A., Taktak N. B., Jellouli, S. (2010). Bank specific, business and institutional
environment determinants of banks nonperforming loans: Evidence from Mena
countries. Economics research forum, Working Paper 547
Boyd, J. H., & De Nicolo, G. (2005). The theory of bank risk taking and competition
revisited. The Journal of finance, 60(3), 1329-1343.
Boyd, John H., Ross Levine, and Bruce D. Smith. "The impact of inflation on financial
sector performance." Journal of monetary economics 47.2 (2001): 221-248.
Creane, S., R. Goyal, A. M. Mobarak and R. Sab. 2004. “Evaluating Financial Sector
Development in the Middle East and North Africa: New Methodology and Some New
Results”. Topics in MENA; Proceedings of the Middle East Economic Association,
Volume 6.
Creel, J., Hubert, P., & Labondance, F. (2015). Financial stability and economic
performance. Economic Modelling, 48, 25-40.
Demirguc-Kunt, A., & Klapper, L. (2012). Measuring financial inclusion: The global findex
database. The World Bank. Policy Research Working Paper, No. 6025
Diamond, D. W. (1984). Financial intermediation and delegated monitoring. The review of
economic studies, 51(3), 393-414.
TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 7(04) - 2019
127
George, A. (1970). The market for ‘Lemons’: Quality uncertainty and the market
mechanism. Quarterly Journal of Economics, 84(3), 488-500.
Hannig, A., & Jansen, S. (2010). Financial inclusion and financial stability: Current policy
issues. ADBI Working Paper 259.
Keeley, M. C. (1990). Deposit insurance, risk, and market power in banking. The American
economic review, 1183-1200.
Khan, H. R. (2011). Financial inclusion and financial stability: are they two sides of the
same coin? Address by Shri HR Khan, Deputy Governor of the Reserve Bank of India,
at Bancon 2011, organized by the Indian Bankers Association and Indian Overseas
Bank, Chennai, 4 November 2011.
La Porta, Rafael, Florencio Lopez-De-Silanes, Andrei Shleifer, and Robert W. Vishny.
"Legal Determinants of External Finance." Journal of finance (1997): 1131-1150.
Lambert, R. A., Leuz, C., & Verrecchia, R. E. (2011). Information asymmetry, information
precision, and the cost of capital. Review of Finance, 16(1), 1-29.
Levine, R., & Zervos, S. (1999). Stock market development and long-run growth. The
World Bank.
Levine, Ross, Norman Loayza, and Thorsten Beck. "Financial intermediation and growth:
Causality and causes." Journal of monetary economics 46.1 (2000): 31-77.
Morgan, P., & Pontines, V. (2014). Financial stability and financial inclusion. ADBI
Working Paper No.488
Mehrotra, A. N., & Yetman, J. (2015). Financial inclusion-issues for central banks. BIS
Quarterly Review March.
Ndebbio, J. E. U. (2004). Financial deepening, economic growth and development:
Evidence from selected sub-Saharan African Countries. African Economic Research
Consortium (AERC) Research Paper Working Paper No. 142.
Popovska, J. (2014). Modelling financial stability: The case of the banking sector in
Macedonia. Journal of Applied Economics and Business, 2(1), 68-91.
Rousseau, Peter L., and Paul Wachtel. "Inflation thresholds and the finance–growth nexus."
Journal of international money and finance 21.6 (2002): 777-793.
Sahay, R., Cihak, M., N'Diaye, P. M. B. P., Barajas, A., Mitra, S., Kyobe, A., & Yousefi, S.
R. (2015). Financial inclusion: can it meet multiple macroeconomic goals? (No.
15/17). Washington, DC: International Monetary Fund.
Sanogo, V., & Moussa, R. (2017). Financial reforms, financial development, and economic
growth in the Ivory Coast. Economies, 5(1), 7.
Shiimi, I. (2010). Financial inclusion–an imperative towards Vision 2030. annual address
by the Governor of the Reserve Bank of Namibia, 28.
Siddik, M., Alam, N., & Kabiraj, S. (2018). Does Financial Inclusion Induce Financial
Stability? Evidence from Cross-country Analysis. Australasian Accounting, Business
and Finance Journal, 12(1), 34-46.
Sparatt, S. (2013). Financial Regulation in Low Income Countries. Banking Growth with
Stability (5th Edition) Prentice Hall London.
Tanaskovic, S., & Jandric, M. (2015). Macroeconomic and institutional determinants of
non-performing loans. Journal of Central Banking Theory and Practice, 4(1), 47-62.
Torre, A. D. L., Feyen, E., & Ize, A. (2013). Financial development: structure and
dynamics. the world bank economic review, 27(3), 514-541.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- on_dinh_tai_chinh_tai_chinh_toan_dien_va_chat_luong_the_che.pdf