KẾT LUẬN
1. Ở Việt Nam loài bọ xít Triatoma
rubrofasciata (De Geer, 1773) phân bố ở 21 tỉnh
thành trong cả nước.
2. Bọ xít Triatoma rubrofasciata trưởng thành
có khả năng phát tán vào nhà từ tầng I đến tầng
VI. Khi vào nhà bọ xít thường đậu ở bất cứ vật
dụng nào, trước khi bò đi tìm mồi. Thời gian
hoạt động kiếm mồi, hút máu của bọ xít chủ yếu
vào ban đêm. Tổ bọ xít thường là các đống củi
gỗ có khối lượng trên 0,5 m3, để cố định nhiều
tháng và có chuột sống trong đó. Ở miền Bắc
loài bọ xít này xuất hiện quanh năm, nhưng
nhiều nhất từ tháng VI - IX.
3. Bọ xít Triatoma rubrofasciata có thể đốt ở bất
kỳ vị trí nào trên cơ thể người, đặc biệt những
nơi không được che kín. Khi bị bọ xít đốt
thường gây sưng, ngứa hay sốt trong thời gian
2-5 ngày.
4. Chưa phát hiện được ký sinh trùng
Tripanosoma cruzi ở những người đã bị bọ xít đốt
và trong máu dạ dày bọ xít thu thập tại các điểm
nghiên cứu
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 30 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân bố, tập tính sinh thái và tác hại của loài bọ xít hút máu triatoma rubrofasciata (de geer, 1773) ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 220
PHÂN BỐ, TẬP TÍNH SINH THÁI VÀ TÁC HẠI CỦA LOÀI BỌ XÍT HÚT MÁU
TRIATOMA RUBROFASCIATA (DE GEER, 1773) Ở VIỆT NAM
Nguyễn Văn Châu*, Vũ Đức Chính* , Lê Thành Đồng**, Nguyễn Xuân Quang***, Mai Đình Thắng**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Bệnh Chagas chủ yếu ở Mexico, Trung và Nam Mỹ. Mầm bệnh là đơn bào đường máu
Tripanosoma cruzi, chủ yếu được truyền từ phân của bọ xít truyền qua vết đốt của chúng. Đầu năm 2010, ở Việt
Nam đã xuất hiện bọ xít hút máu ở nhiều địa phương làm xôn xao dư luận.
Mục tiêu: Tìm hiểu phân bố, tập tính sinh thái và tác hại của loài bọ xít hút máu Triatoma rubrofasciata (De
Geer, 1773).
Phương pháp nghiên cứu: Điều tra cắt ngang và thu thập thụ động loài bọ xít hút máu Triatoma
rubrofasciata (De Geer, 1773) trên địa bàn cả nước, từ năm 2010-2012.
Kết quả: Đã thu thập được 1.720 cá thể bọ xít Triatoma rubrfasciata, tại 237 điểm, thuộc 20 tỉnh, thành. Bọ
xít xuất hiện nhiều nhất từ tháng VI - IX; chúng hoạt động hút máu chủ yếu vào ban đêm và thường làm tổ
trong các đống củi gỗ, có chuột sống. Chúng đốt người ở bất cứ vị trí nào trên cơ thể, vết đốt gây sưng, ngứa.
Chưa phát hiện được ký sinh trùng Tripanosoma cruzzi ở những người bị bọ xít đốt và ở bọ xít.
Kết luận: Bọ xít Triatoma rubrofasciata (De Geer, 1773) phân bố ở 21 tỉnh, thành. Bọ xít xuất hiện quanh
năm, nhiều nhất từ tháng VI – IX. Bọ xít trưởng thành có thể vào nhà từ tầng I đến tầng VI. Chúng hoạt động
kiếm mồi, hút máu chủ yếu vào ban đêm và thường làm tổ trong các đống củi gỗ. Chưa phát hiện được ký sinh
trùng Tripanosoma cruzi ở người và ở bọ xít tại các điểm nghiên cứu.
Từ khóa: bọ xít Triatoma rubrofasciata, phân bố, sinh thái, Viet Nam
ABSTRACT
DISTRIBUTION, ECOLOGICAL BEHAVIOR AND THE HARM OF BLOODSUCKING BUGS
TRIATOMA RUBROFASCIATA (DE GEER, 1773) IN VIETNAM
Nguyen Van Chau, Vu Duc Chinh, Le Thanh Dong, Nguyen Xuan Quang, Mai Dinh Thang * Y Hoc
TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 220 - 225
Background: Chagas disease distributed mainly in Mexico, Central and South America. Pathogens are
blood parasitic Protozoan Tripanosoma cruzi, which transmitted by fecal of bloodsucking bugs through the bite. In
early 2010, in Vietnam appeared bloodsucking bugs in many locations that were causing disturbance and worry
for people.
Objectives: To understand the distribution, ecological behavior and harm of bloodsucking bugs Triatoma
rubrofasciata (De Geer, 1773).
Method: Active cross-sectional survey and passive collected species bloodsucking bugs Triatoma
rubrofasciata (De Geer, 1773) in the whole country, from 2010-2012.
Results: 1,720 individual Triatoma rubrfasciata bugs have been collected in 237 places belong to 20
provinces. Most bugs appear from June to September; their bloodsucking activities mainly at night and they nest
in wood piles, where rats are living. Bugs bited people at any slocation on the body, the bite causes swelling,
itching. Tripanosoma parasite has not yet found in people who have bitten by bugs as well as in bug bodies.
* Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng Trung Ương
** Viện sốt rét KST - CT TP HCM; *** Viện sốt rét KST - CT Quy Nhơn
Tác giả liên lạc: PGS. TS. Nguyễn Văn Châu, ĐT: 0982331949, Email: vanchaunimpe@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 221
Conclusion: Triatoma rubrofasciata (De Geer, 1773) distributes in 21 provinces and cities of Vietnam. Bugs
have been collected throughout the year, but most of them are collected from June to September. Adult bugs can
enter buildings from ground floor to fifth floor. Their activities for hosts and sucking blood mainly at night and
nestting in wood piles. Tripanosoma parasite has not yet found in people who have bitten by bugs as well as in
bug bodies.
Key words: Triatoma rubrofasciata bugs, distribution, ecological behavior, Vietnam
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh Chagas hay còn gọi là bệnh
Trypanosomiasis, chủ yếu ở Mexico, Trung và
Nam Mỹ, rất hiếm ở bắc Mỹ(5,7). Tác nhân gây
bệnh là đơn bào đường máu Trypanosoma
cruzi(8). Mầm bệnh từ chất thải của bọ xít
truyền qua vết đốt của bọ xít thuộc phân họ
Triatominae, hoặc lây lan bằng truyền máu,
mẹ truyền sang con, do phẫu thuật, cấy ghép
nội tạng, tai nạn phòng thí nghiệm v.v..(6) Ước
tính có 8 đến 10 triệu người Mexico, Trung và
Nam Mỹ mang bệnh Chagas. Một số lượng
khá lớn người đã di chuyển từ nông thôn ra
thành thị của vùng châu Mỹ Latin và các
vùng khác trên thế gới, nên làm tăng phân bố
địa lý của bệnh(7). Đầu năm 2010 đã xuất hiện
bọ xít hút máu ở nhiều địa phương, đặc biệt ở
Hà Nội, làm xôn xao dư luận, người dân rất lo
sợ và hoang mang, đặc biệt những người bị
bọ xít đốt.
Nhằm góp phần cung cấp thông tin về bọ xít
hút máu ở Việt Nam, chúng tôi đã tiến hành
nghiên cứu về “Phân bố, tập tính sinh thái và tác
hại của loài bọ xít hút máu Triatoma rubrofascista (De
Geer, 1773) ở Việt Nam”.
Mục tiêu: Tìm hiểu về “Phân bố, tập tính
sinh thái và tác hại của loài bọ xít hút máu
Triatoma rubrofascista (De Geer, 1773) ở Việt
Nam”.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Loài bọ xít hút máu Triatoma rubrofascista (De
Geer, 1773), thuộc họ Triatomidae, bộ cánh khác
Hemiptera.
Phương pháp
Chủ động điều tra cắt ngang và thu thập bọ
xít thụ động do người dân mang đến các Trung
tâm y tế dự phòng, Trung tâm phòng chống sốt
rét tỉnh trên địa bàn cả nước, từ năm 2010 - 2012.
Xử lý, bảo quản mẫu vật bọ xít theo phương
pháp của Scott, 1962. Định loại bọ xít dựa vào
đặc điểm hình thái, theo tài liệu của các tác giả
(Lent & Wygodzinsky, 1979)(4), (Trương Xuân
Lam, 2004)(2). Các mẫu bọ xít sau khi định tên
được gửi sang Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh
vật để thẩm định v.v
Lấy máu ngoại vi giọt mỏng và giọt dày
những người bị bọ xít đốt sau những người bị
bọ xít đốt sau 7-10 ngày và máu trong dạ dày bọ
xít nhuộm giemsa tìm ký sinh trùng đường máu
Tripanosoma cruzi theo phương pháp của (Gracia
L.S)(3), (WHO, 2008)(6).
Xác định máu vật chủ trong dạ dày bọ xít:
Bằng kỹ thuật phản ứng ngưng kết huyết thanh
khếch tán trên thạch của Ouchterlony (1940).
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Số lượng và phân bố bọ xít Triatoma
rubrofasciata tại Việt Nam
Bảng 1. Số lượng bọ xít/số địa điểm và thời gian thu
thập tại các tỉnh và thành phố
TT Tên tỉnh Năm
2010
Năm
2011
Năm
2012
Cộng
1 Hà Nội 710/112 246/36 33/16 989/164
2 Lạng Sơn 2/1 0 0 2/1
3 Quảng Ninh 4/2 0 0 4/2
4 Bắc Giang 10 0 2/2 12/2
5 Bắc Ninh 3/2 200/1 0 203/3
6 Hải Dương 1/1 0 0 1/1
7 Nam Định 1/1 1/1 0 2/2
8 Nghệ An 2/2 4/1 0 6/3
9 Thanh Hóa 4/2 0 2/1 6/3
10 Hải Phòng 0 1/1 0 1/1
11 Vĩnh Phúc 1/1 0 0 1/1
12 TThiên-Huế 6/4 1/1 0 7/5
13 TP. Đà Nẵng 14/13 0 0 14/13
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 222
TT Tên tỉnh Năm
2010
Năm
2011
Năm
2012
Cộng
14 Q. Nam 3/2 0 0 3/2
15 Q. Ngãi 1/1 0 0 1/1
16 Bình Định 10/10 0 1/1 11/11
17 Phú Yên 2/1 0 0 2/1
18 TP.Hồ Chí Minh 72/11 107/2 4/2 183/15
19 Bà Rịa-Vũng
Tàu
2/1 0 0 2/1
20 Cần Thơ 2/1 0 0 2/1
Tổng cộng 850/171 828/43 42/22 1720/236
Trong ba năm (2010 – 2012), chúng tôi đã thu
thập được 1720 cá thể bọ xít hút máu Triatoma
rubrofasciata (De Geer, 1773) ở 236 địa điểm thuộc
20 tỉnh, thành phố. Số lượng bọ xít thu thập
được chủ yếu tại Hà Nội (164 điểm, 989 cá thể,
chiếm tỷ lệ 57,3%); Bắc Ninh (203 bọ xít ở 3
điểm) và Tp. Hồ Chí Minh (183 bọ xít ở 15
điểm); các tỉnh thành khác bọ xít thu được
không đáng kể. Số lượng bọ xít chủ yếu thu
được trong năm 2010 và 2011 (bảng 1).
Các điểm thuộc quận, huyện, (tỉnh) như
sau: Từ Liêm, Thanh Trì, Thanh Xuân, Cầu Giấy,
Hai Bà Trưng, Đống Đa, Hoàn Kiếm, Ba Đình,
Tây Hồ, Gia Lâm, Đông Anh, Hoài Đức, Thạch
Thất, Thanh Oai và Mê Linh (Hà Nội), TP. Lạng
Sơn (tỉnh Lạng Sơn), TP. Hạ Long (tỉnh Quảng
Ninh), Lạng Giang, TP. Bắc Giang (tỉnh Bắc
Giang), Tiên Du, Từ Sơn (tỉnh Bắc Ninh), Vĩnh
Tường (tỉnh Vĩnh Phúc), TP. Thanh Hóa, Hoằng
Hóa (tỉnh Thanh Hóa), TP. Vinh (tỉnh Nghệ An),
Tp. Huế (tỉnh Thừa Thiên-Huế), Sơn Trà, Liên
Chiểu, Hải Châu, Thanh Khê (Tp. Đà Nẵng),
Núi Thành, Hòa Cường Bắc (tỉnh Quảng Nam),
Nghĩa Kỳ (Quảng Ngãi), Bình Định (Quy Nhơn
(11 điểm)), Phú Yên (Tuy Hòa), Phan Rang (tỉnh
Ninh Thuận), Quận I, Quận 8, Quận 10, Bình
Thạnh, Phú Nhuận, Tân Bình (TP. Hồ Chí
Minh), Vũng Tàu (tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu), Cần
Thơ (TP. Cần Thơ).
Ngoài 20 tỉnh đã thu thập được từ 2010 -
2012 trong nghiên cứu này, trước đó Trương
Xuân Lam (2004), đã thu thập được loài bọ xít
này tại tỉnh Hoà Bình (Mai Châu)(2). Như vậy, ở
Việt Nam loài bọ xít T. rubrofasciata phân bố ở 21
tỉnh thành trong cả nước.
Theo (Lent và Wygodzinski, 1979)(4), loài bọ
xít Triatoma rubrofasciata (De Geer, 1773) thuộc
giống Triatoma Laporte, 1832; phân họ
Triatominae Latreille, 1809; họ Reduviidae
Latreille 1807, phân bố hầu khắp thế giới. Tại
vùng Đông phương (Oriental Region), chúng
phân bố ở các đảo Andaman, Mianma,
Campuchia, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia,
Malaysia, Nhật Bản, Philippin, Singapore,
Srilanca, Thái Lan và Việt Nam.
Như vậy có thể nhận định rằng, phân bố của
Triatoma rubrofasciata ở Việt nam tương đối rộng
nhưng có mật độ cao tập trung nhất ở các khu
vực đô thị.
Một số tập tính sinh thái Triatoma
rubrofasciata (De Geer, 1773)
Thời gian hoạt động của bọ xít vào các tháng
trong năm tại miền Bắc*
Bảng 2. Số điểm và số bọ xít thu thập được vào các
tháng trong năm
Tháng
Số điểm thu thập bọ xít Số bọ xít thu thập
Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %
I 1 0,54 1 0,08
II 2 1,07 2 0,17
III 2 1,07 3 0,25
IV 4 2,15 5 0,42
V 5 2,69 7 0,59
VI 9 4,84 79 6,64
VII 54 29,03 648 54,45
VIII 47 25,27 280 23,53
IX 42 22,58 128 10,76
X 12 6,45 25 2,10
XI 6 3,23 10 0,84
XII 2 1,07 2 0,17
Cộng 186 100 1.190 100
*: Từ Nghệ An trở ra
Ở miền Bắc (Từ Nghệ An trở ra) bọ xít
Triatoma rubrofasciata xuất hiện quanh năm,
nhưng nhiều nhất từ tháng VI đến tháng IX , là
những tháng nhiệt độ cao nhất (bảng 2).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 223
Hình1. T. Rubrofasciata Hình 2. Nơi làm tổ cua bọ xít Hình 3. Bọ xít bắt trong một tổ
Phân bố theo độ cao của bọ xít Triatoma
rubrofasciata trong khu dân cư
Bảng 3. Kết quả thu thập bọ xít tại các căn hộ có độ
cao khác nhau ở Hà Nội
Độ cao
(tầng
nhà)
Số căn hộ có bọ xít Số bọ xít thu thập
Số lượng
Tỷ lệ % Số lượng
Tỷ lệ (%)
Tầng I 88 61,53 138 58,22
Tầng II 31 21,67 52 21,94
Tầng III 17 11,90 24 10,13
Tầng IV 3 2,10 14 5,92
Tầng V 2 1,40 7 2,95
Tầng VI 2 1,40 2 0,84
Cộng 143 100 237 100
Có thể phát hiện bọ xít T. rubrofasciata trong
nhà từ tầng I đến tầng VI tương đương độ cao
0 - 20m kể từ mặt đất (thông thường độ cao của
1 tầng nhà ở Hà Nội khoảng 3m), nhưng chủ
yếu từ tầng I và II. Số hộ có bọ xít bay vào tầng I
là 61,53% và số bọ xít bắt được ở các hộ tầng I
chiếm 58,22% so với tổng số cá thể bọ xít bắt
được ở tất cả các tầng. Càng lên cao số bọ xít thu
thập được càng giảm (bảng 3).
Thời điểm hoạt động ngày đêm của bọ xít
Triatoma rubrofasciata
Bảng 4. Số lượng bọ xít đốt người và số bọ xít bắt
được theo ngày, đêm
Thời
điểm
Số bọ xít đốt người Số bọ xít đã thu thập được
Số lượng Tỷ lệ% Số lượng Tỷ lệ%
Ngày 1 1,04 154 64,98
Đêm 95 98,96 83 35,02
Cộng 96 100 237 100
Kết quả ở bảng 4 cho thấy, 98,96% bọ xít T.
rubrofasciata hoạt động hút máu vào ban đêm.
Điều này phù hợp với nhận xét của một số tác
giả: “hoạt động vào ban đêm là tập tính chủ
yếu của nhiều loài bọ xít hút máu thuộc phân họ
Triatominae”(7). Do thu thập chủ yếu vào ban
ngày nên số lượng bọ xít thu thập được ban
ngày nhiều hơn ban đêm.
Nơi trú ẩn, bám đậu tạm thời của bọ xít
Bảng 5. Số lượng bọ xít thu thập tại các vị trí khác
nhau
TT Vị trí thu thập bọ xít Số bọ xít thu thập Tỷ lệ %
1 Trần nhà 2 1,67
2 Tường nhà 25 20,83
3 Nền nhà 10 8,33
4 Ngoài sân 3 2,50
5 Nhà tắm 8 6,67
6 Cầu thang 14 11,67
7 Cổng ra vào 1 0,83
8
Giường, chiếu, chăn,
màn
33 27,50
9
Tủ, bàn ghế và đồ vật
khác
24 20,00
Cộng 120 100
Số lượng thu thập được bọ xít T. rubrofasciata
vào nhà thường trú đậu tạm thời ở các đồ vật
trong nhà và ở giường chiếu, chăn, màn là
27,50%; trên tường vách là 20,83% nhiều hơn
những vị trí khác (bảng 5).
Nơi làm tổ của bọ xít
Bảng 6. Số lượng bọ xít thu thập được tại các loại tổ
Nơi làm tổ
của bọ xít
Số tổ
bọ xít
Số lượng bọ xít thu được
Trưởng
thành
Ấu
trùng
Tổng số Tỷ lệ (%)
Khe tường
nhà
1 4 6 10 1,19
Sàn gỗ gác
xép
1 5 19 24 2,86
Các đống
củi, gỗ
5 234 571 805 95,95
Cộng 7 243 596 839 100
Những nơi nào thu thập được cả bọ xít
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 224
trưởng thành và ấu trùng thì chính là nơi làm tổ,
sinh sản và phát triển của chúng. Trong 7 “tổ”
bọ xít đã được tìm thấy, 1 tổ là khe tường, 1 tổ là
sàn gỗ gác xép nơi giường ngủ phòng trọ và 5 tổ
là đống củi gỗ có khối lượng trên 0,5 m3 đã để
nhiều tháng và có chuột sống, làm tổ trong đó
(bảng 6, hình 2, 3). Đây là dẫn liệu thú vị giúp
chúng ta chủ động phát hiện các tổ bọ xít, là cơ
sở cho việc phòng ngừa bọ xít hút máu.
Các tổn do bọ xít đốt
Bảng 7. Vị trí bọ xít đốt và các dấu hiệu lâm sàng
Vị trí đốt
Số người
bị bọ xít
đốt
Tỷ lệ
%
Sưng,
ngứa
tại chỗ
Có
sốt
Nhiễm
trùng tại
chỗ
Ghi
chú
Mặt 5 3,25 4 1 1 Do gãi
Đầu 1 0,65 1 0 0
Cổ, gáy 5 3,25 5 1 0
Vai 7 4,55 7 0 0
Tay 40 25,97 40 0 0
Lưng 39 25,32 39 3 0
Bụng 1 0,65 1 0 0
Mông
2 1,30 2 0 0
1 trẻ
em
Chân 54 35,06 54 2 0
Cộng
154 100
153
(99,35
%)
7
(4,54
%)
1 (0,65%)
Theo dõi 154 người bị bọ xít đốt thấy rằng:
vết đốt hầu như từ đầu đến chân, nhưng chân
và tay là hai nơi bị đốt nhiều nhất (25,32 -
35,06%); các vị trí khác bị đốt ít hơn. Hiện tượng
sưng, ngứa tại vết đốt chiếm 99,35%. Hiện tượng
có sốt 4,54% (7/154), nhưng chỉ kéo dài 1 đến 2
ngày. Một trường hợp do ngứa và gải xước da
nên nhiễm trùng tại chỗ (0,65%) (bảng 9). Bọ xít
T. rubrofasciata đốt thường gây tổn thương tại
chỗ(7).
Vai trò truyền bệnh của bọ xít Triatoma
rubrofasciata
Bảng 8. Kết quả xét nghiệm tìm ký sinh trùng T.
cruzi trong máu người đã bị bọ xít đốt.
Tuổi và giới tính Số lượng Tỷ lệ % Kết quả
Trẻ em 22 17,05 (-)
Người lớn 115 80,95 (-)
Nam 52 35,29
(-)
Nữ 63 64,61
Cộng 137 100 (-)
Xét nghiệm lam máu tìm ký sinh trùng
Trypanosoma bằng phương pháp nhuộm giemsa
máu ngoại vi ở 137 người bị bọ xít đốt hay nghi
bị bọ xít đốt đều cho kết quả âm tính (-); gồm 22
trẻ em và 115 người lớn (nam 52, nữ 63 người)
(bảng 7).
Bảng 9. Kết quả xét nghiệm máu trong dạ dày bọ xít
TT
Nơi thu bọ xít
xét nghiệm máu
Số lượng bọ xít Kết quả
1 Trong tổ 230 (-)
2 Trong nhà 87 (-)
Cộng 317 (-)
Xét nghiệm máu trong dạ dày của 317 bọ xít,
gồm 230 con bắt trong tổ và 87 con bắt trong
nhà, kết quả đều âm tính (bảng 8).
Bảng 10. Kết quả xác định loại máu vật chủ trong dạ
dày bọ xít
Số bọ xít lấy
máu xét
nghiệm
Kháng huyết thanh
Người Chuột
Người +
chuột
Không xác
định
200 ( bọ xít ở
tổ)
2
1,00%
170
85,00%
11
7,50%
17
3,75
45 (bọ xít bắt
trong nhà)
24
53,33%
6
13,33%
5
11,11%
10
22,22
245 con 26 176 16 27
10,61% 71,84% 6,53% 11,02%
Xét nghiệm máu trong dạ dày 245 bọ xít T.
rubrofasciata (200 con bắt ở các tổ và 45 con bắt
trong nhà) cho thấy 85,0% số cá thể bọ xít bắt ở
tổ trong dạ dày chúng có máu chuột; 1,0% có
máu người và 7,50% vừa có máu chuột lẫn máu
người. Những bọ xít bắt trong nhà thì 53,33% cá
thể có máu người; 13,33% có máu chuột và
11,11% vừa có máu người vừa máu chuột. Kết
quả chung là: 10,61% bọ xít trong dạ dày có máu
người; 71,84% bọ xít trong dạ dày có máu chuột;
6,53% có máu người lẫn máu chuột và 11,02%
không xác định (bảng 10). Kết quả nghiên cứu
phù hợp với nhận xét của Sandoval et al. (2000,
2004): “hầu như các loài bọ xít Triatominae dinh
dưỡng bằng máu (haematophagous) động vật
có xương sống”(8).
KẾT LUẬN
1. Ở Việt Nam loài bọ xít Triatoma
rubrofasciata (De Geer, 1773) phân bố ở 21 tỉnh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ký Sinh Trùng 225
thành trong cả nước.
2. Bọ xít Triatoma rubrofasciata trưởng thành
có khả năng phát tán vào nhà từ tầng I đến tầng
VI. Khi vào nhà bọ xít thường đậu ở bất cứ vật
dụng nào, trước khi bò đi tìm mồi. Thời gian
hoạt động kiếm mồi, hút máu của bọ xít chủ yếu
vào ban đêm. Tổ bọ xít thường là các đống củi
gỗ có khối lượng trên 0,5 m3, để cố định nhiều
tháng và có chuột sống trong đó. Ở miền Bắc
loài bọ xít này xuất hiện quanh năm, nhưng
nhiều nhất từ tháng VI - IX.
3. Bọ xít Triatoma rubrofasciata có thể đốt ở bất
kỳ vị trí nào trên cơ thể người, đặc biệt những
nơi không được che kín. Khi bị bọ xít đốt
thường gây sưng, ngứa hay sốt trong thời gian
2-5 ngày.
4. Chưa phát hiện được ký sinh trùng
Tripanosoma cruzi ở những người đã bị bọ xít đốt
và trong máu dạ dày bọ xít thu thập tại các điểm
nghiên cứu.
LIỆU THAM KHẢO
1. Tạ Huy Thịnh, Lê Xuân Huệ, Đặng Đức Khương, Hoàng Vũ
Trụ.(2002). Nghiên cứu điều tra thành phần loài một số họ côn
trùng ở tỉnh Vĩnh Phúc. Hội nghị Côn trùng học toàn quốc lần
thứ 4: 443-446. Nxb. Nông nghiệp.
2. Trương Xuân Lam (2004). Hai loài bọ xít hút máu thuộc giống
Triatoma Laporte, 1832 (Heteroptera: Reduviidae: Triatoma)
được ghi nhận ở Vườn quốc gia Tam Đảo. Tạp chí sinh học . Tập
26 (3A):73-77
3. Garcia LS. (2007). Diagnostic Medical Parasitology, 5th ed, ASM
Press, Washington, DC. Section 9 parasitology. (2006) .
Combination thick and thin blood films: 9.8.4.
4. Lent H, and Wygodzinsky P (1979). Revision of the triatominae
(Hemiptera, Reduviidae), and their signifcace as vectors of
chagas’ disease. Bulletin of the American museum of natural
history . Volum 163: Article New york: 1979
5. Rassi A, Rassi A, Marin-Neto JA (2010). "Chagas disease". Lancet
375 (9723): 1388–402].
6. WHO (2008). Report WHO on Reduviidae 5-7 may 2008.
7. Rozedaal J, A. 1997. Triatominae Bugs. Vector control. WHO,
Geneva: Chapter: 210-237
8.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phan_bo_tap_tinh_sinh_thai_va_tac_hai_cua_loai_bo_xit_hut_ma.pdf