Quản lý nhà nước
Hiến pháp và Luật tổ chức Chính phủ
ghi nhận vai trò của Chính phủ “thống nhất
quản lý” trên các mặt của đời sống xã hội:
về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế,
khoa học, công nghệ, môi trường, thông
tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội (Điều
96 Hiến pháp).
Luật tổ chức Chính phủ cũng ghi nhận
thẩm quyền thống nhất quản lý nhà nước của
Chính phủ về y tế, chăm sóc sức khỏe của
Nhân dân và dân số (Điều 14); về thực hiện
các chính sách xã hội (Điều 15); về quốc
phòng (Điều 18); quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội (Điều 20); về đối ngoại và hội nhập
quốc tế (Điều 22); tổ chức và hoạt động của
các hội, tổ chức phi chính phủ (Điều 23).
Nội dung của “thống nhất” quản lý đã
được thảo luận tại các diễn đàn. Khái niệm
này dẫn đến cách hiểu về sự nhất quán một
đầu mối, về điều chỉnh pháp luật, về cách
thức, quy trình thực hiện. Thực tiễn cho
thấy, có lĩnh vực đang được một số chủ thể
trong hệ thống chính trị quản lý (các cơ quan
của Đảng, Chủ tịch nước, các cơ quan của
Quốc hội). Vì vậy, cần xác định rõ phạm vi
quản lý của Chính phủ và đồng thời, hình
thành cơ chế phối hợp tương ứng, chẳng hạn
như lĩnh vực đối ngoại.
Hiến pháp giao Chính phủ “thống nhất
quản lý nền hành chính quốc gia”. Riêng
về lĩnh vực quản lý về cán bộ, công chức,
viên chức và công vụ và công tác thanh tra,
kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng,
chống quan liêu, tham nhũng, Chính phủ
thực hiện quản lý với phạm vi “trong các cơ
quan nhà nước” (Điều 96 Hiến pháp). Cụ thể
hóa quy định này, Luật tổ chức Chính phủ
giao Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước
về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, chế
độ công vụ, công chức, viên chức; thống
nhất quản lý nhà nước về cán bộ, công chức,
viên chức và công vụ trong các cơ quan nhà
nước, đơn vị sự nghiệp công lập; quản lý
biên chế công chức, số lượng người làm việc
trong các cơ quan hành chính nhà nước, đơn
vị sự nghiệp công lập từ trung ương đến địa
phương; thống nhất quản lý nhà nước và tổ
chức thực hiện chế độ tiền lương, phụ cấp và
các chế độ, chính sách khác đối với cán bộ,
công chức, viên chức trong các cơ quan nhà
nước từ trung ương đến địa phương; về công
tác thi đua, khen thưởng (Điều 23).
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 217 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan trong thực hiện quyền hành pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÂN CÔNG, PHỐI HỢP, KIỂM SOÁT GIỮA CÁC CƠ QUAN
TRONG THỰC HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP
Tóm tắt:
Bài viết nêu khái quát quy định của Hiến pháp năm 2013 và các
luật có liên quan (như Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính
phủ, Luật Cán bộ, công chức) về quyền hành pháp và cơ quan
thực hiện quyền hành pháp; nguyên tắc về mối quan hệ giữa các cơ
quan nhà nước trong thực hiện quyền lực nhà nước. Liên quan đến
mối quan hệ phân công, phối hợp và kiểm soát trong việc thực hiện
quyền hành pháp, bài viết tập trung phân tích các mối quan hệ này
trong ba hoạt động cơ bản là tổ chức thi hành pháp luật, hoạch định
chính sách và thẩm quyền quản lý nhà nước. Qua đó, bài viết nhấn
mạnh tầm quan trọng về vị trí, chức năng hành pháp của Chính phủ
và mối quan hệ phân công, phối hợp và kiểm soát trong việc thực
hiện quyền hành pháp hiện nay.
Hoàng Thị Ngân*
* TS. Vụ trưởng, Văn phòng Chính phủ.
Abstract
This article provides in brief the Constitution of 2013 and the
related laws (such as the Law on Organization of the National
Assembly, the Law on Organization of the Government, the Law
on Cadres and Public Employees, etc.) on executive powers and
executive agencies; on the principles of the relationship among
the state agencies in performance of the state power. In relation
to the assignment allocation, coordination and power controlling
in the execution of the executive power, the article focuses on
the analysis if relationships in three substantial activities of law
enforcement. Policy maning and public management. Thereby, the
article emphasizes the importance of the executive position and
function of the Government and the current relationship of power
allocation, coordination and controlling in the executive power.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: quyền hành pháp, thi hành
pháp luật, hoạch định chính sách, quản
lý nhà nước
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 01/06/2019
Biên tập : 10/06/2019
Duyệt bài : 17/06/2019
Article Infomation:
Keywords: executive power; law
enforcement; policy making; public
management
Article History:
Received : 01 Jun 2019
Edited : 10 Jun 2019
Approved : 17 Jun 2019
Mối quan hệ giữa các cơ quan trong quá trình thực hiện quyền hành pháp được xây dựng dựa trên nguyên tắc
Hiến định, luật định. Nội dung mối quan hệ
này dựa trên phạm vi và nội hàm của “quyền
hành pháp”.
1. Các quy định của Hiến pháp năm 2013
và các luật có liên quan về quyền hành pháp
và cơ quan thực hiện quyền hành pháp
Trên phương diện lý luận và thực
tiễn, quyền lực nhà nước được tổ chức và
thực hiện thông qua ba bộ phận quyền:
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3Số 13(389) T7/2019
quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền
tư pháp. Trong hệ thống này, quyền hành
pháp là một thành tố cấu thành, có vị trí
tương đối độc lập, có mối quan hệ thống
nhất tương đối, có sự tác động qua lại
với quyền lập pháp, quyền tư pháp, là đại
diện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực
hành pháp.
Hiến pháp năm 2013 đã chính thức ghi
nhận khái niệm quyền hành pháp như một bộ
phận của quyền lực nhà nước và giao Chính
phủ thực hiện. Đây có thể coi là một bước
phát triển trong lịch sử lập hiến của Việt
Nam, đánh dấu sự rành mạch và khoa học
trong phân công tổ chức thực hiện quyền lực
nhà nước thông qua việc ghi nhận vị thế cũng
như tính độc lập ở mức độ nhất định đối với
các nhánh quyền khác ngoài lập pháp.
Về mặt lý luận, quyền hành pháp bao
gồm quyền lập quy và quyền hành chính
được tiến hành để thực thi chính sách công,
triển khai pháp luật và tổ chức, điều hành các
hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Quyền lập
quy bao hàm quyền hoạch định chính sách
quốc gia, quyền xác lập, ban hành văn bản
pháp quy. Quyền hành chính bao hàm quyền
tổ chức, điều hành hoạt động kinh tế, văn
hóa, xã hội, triển khai chính sách, pháp luật
vào đời sống.
Một cách khái quát, quyền hành pháp
thể hiện ở các lĩnh vực hoạt động cụ thể: xác
lập đường lối, chính sách của Chính phủ về
đối nội và đối ngoại trên cơ sở Hiến pháp,
luật; tổ chức thi hành Hiến pháp và các luật,
trong đó có ban hành pháp luật; xây dựng và
duy trì hoạt động thường xuyên bộ máy công
quyền từ trung ương xuống địa phương, bảo
đảm trật tự an toàn xã hội; tổ chức và quản lý
dịch vụ công; kiểm tra, thanh tra việc chấp
hành pháp luật trong hệ thống cơ quan hành
chính nhà nước.
Những hoạt động cơ bản trên đây
phản ánh nội hàm của quyền hành pháp. Khi
nghiên cứu xây dựng các quy định về quyền
hành pháp trong chương quy định về Chính
phủ của Dự thảo Hiến pháp, cũng có ý tưởng
đề xuất xác định rõ nội dung của quyền hành
pháp được giao cho Chính phủ. Tuy nhiên,
qua tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, cân
nhắc về kỹ thuật lập hiến, Hiến pháp, Luật
tổ chức Chính phủ đã quy định khái quát về
quyền hành pháp thông qua chức năng của
Chính phủ, từng nội dung của hoạt động hành
pháp được thể hiện qua các quy định về thẩm
quyền của Chính phủ (Điều 96 Hiến pháp;
các Điều 6 - 25 Luật tổ chức Chính phủ).
2. Nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm
soát giữa các cơ quan trong thực hiện
quyền lực nhà nước
Điều 2 Hiến pháp đã khẳng định
nguyên tắc: Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Nguyên tắc này là kết quả của quá trình đổi
mới tư duy về tổ chức bộ máy nhà nước từ
tập quyền đến phân công rồi đến kiểm soát
việc thực hiện quyền lực nhà nước.
Việc phân công thực hiện quyền lực
nhà nước và ghi nhận chủ thể của mỗi nhánh
quyền là nội dung cốt yếu của đạo luật cơ bản
như một sản phẩm của chủ nghĩa lập hiến.
Với chức năng cổ điển là giới hạn quyền lực
nhà nước, Hiến pháp là văn bản chính thức
nhân danh Nhân dân ủy thác một số chức
năng của Nhà nước trong phạm vi nhất định
cho các thiết chế và được thể hiện trong nhiều
trường hợp bằng quy định “trao quyền”.
Một phương thức phổ biến được Hiến
pháp nhiều nước sử dụng là dành một số quy
định để trao quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp cho từng cơ quan. Dù theo cách quy
định nào hay theo mô hình phân quyền cứng
rắn hoặc mềm dẻo thì bên cạnh phân quyền,
Hiến pháp hình thành mối quan hệ tương tác
cũng như cơ chế kiểm soát quyền lực lẫn
nhau và qua đó, định hình mối quan hệ giữa
ba nhánh quyền lực chủ yếu. Để phân công
quyền lực, cần xác định vị trí, chức năng,
phạm vi, giới hạn hoạt động, cách thức phối
hợp, tương tác giữa các cơ quan trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp vốn đặc trưng cho chức năng cơ bản
của Nhà nước.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Số 13(389) T7/2019
Qua những lần sửa đổi Hiến pháp và
các luật, ở Việt Nam, mối quan hệ phân
quyền theo chiều ngang đã được hoàn thiện
từ cơ chế tập quyền sang phân công, phối
hợp rồi đến phân quyền, phân công, phối
hợp và kiểm soát quyền lực.
Vấn đề đặt ra hiện nay là cần bảo đảm
tính thống nhất giữa quy định chung mang
tính khái quát, chủ đạo này với các quy định
cụ thể về từng nhánh quyền (bao gồm cả về
địa vị pháp lý, chức năng, thẩm quyền và
mối quan hệ trong mỗi lĩnh vực hoạt động).
Tham khảo Hiến pháp các nước khi
nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp Việt Nam
cũng đã cho thấy, hầu hết chọn cách quy
định khái quát trao quyền hành pháp cho
một thiết chế tương tự Chính phủ1. Có Hiến
pháp quy định địa vị pháp lý của các cơ quan
thông qua hệ thống thẩm quyền và mối quan
hệ trong quá trình hoạt động2.
Hiến pháp 2013 đã xây dựng Điều 94
theo hướng vừa xác định chủ thể thực hiện
quyền hành pháp, vừa định hình vị trí của cơ
quan thực hiện quyền hành pháp trong mối
quan hệ với Quốc hội và với hệ thống hành
chính nhà nước (Chính phủ là cơ quan hành
chính nhà nước cao nhất của nước Cộng
hoà XHCN Việt Nam, thực hiện quyền hành
pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội
và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban
thường vụ Quốc hội (UBTVQH), Chủ tịch
nước). Như vậy, vấn đề quyền hành chính
và quyền hành pháp vẫn có thể tiếp tục được
đặt ra. Địa vị pháp lý của Chính phủ là “cơ
quan chấp hành của Quốc hội” không đặt
điểm dừng cho việc thảo luận về tính độc
lập của mỗi nhánh quyền trong cơ cấu quyền
lực nhà nước.
1 “Chính phủ Liên bang Nga thực thi quyền hành pháp ở Liên bang Nga” (Điều 110 Hiến pháp Liên bang Nga 1993);
“Nội các là cơ quan nắm giữ quyền hành pháp” (Điều 65 Hiến pháp Nhật 1946)
2 Hiến pháp Pháp quy định: Tổng thống chủ trì các phiên họp Hội đồng Bộ trưởng (Điều 9) và Chính phủ nắm giữ, điều
hành hệ thống hành chính và các lực lượng vũ trang (Điều 20).
“Quốc Vụ viện nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa còn gọi là Chính phủ nhân dân Trung ương là cơ quan hành pháp
của cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nước, là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất” (Điều 85 Hiến pháp Trung
Quốc 1982 đã sửa đổi, bổ sung).
3. Phân công, phối hợp và kiểm soát trong
thực hiện quyền hành pháp
Như trên đã nêu, quyền hành pháp
về cơ bản bao hàm các nội dung: xác lập
đường lối, chính sách của Chính phủ về
đối nội và đối ngoại; tổ chức thi hành Hiến
pháp và các luật, trong đó có ban hành pháp
luật; xây dựng và duy trì hoạt động thường
xuyên một bộ máy hành chính nhà nước từ
trung ương xuống địa phương, bảo đảm trật
tự an toàn xã hội; tổ chức và quản lý dịch
vụ công; kiểm tra, thanh tra việc chấp hành
pháp luật trong hệ thống cơ quan hành chính
nhà nước. Các nội dung này được thể hiện
trong hệ thống các thẩm quyền của Chính
phủ (Điều 96, Điều 100 Hiến pháp; Điều 6 -
25 Luật tổ chức Chính phủ).
Phân công, phối hợp và kiểm soát
trong thực hiện quyền hành pháp được tiến
hành trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ,
quyền hạn của Chính phủ và với mục đích
hoàn thành các nhiệm vụ đó do Hiến pháp
đặt ra trước Chính phủ, chủ thể mang quyền
hành pháp. Cụ thể như sau:
3.1 Tổ chức thi hành pháp luật
Một trong những thẩm quyền hiến
định của Chính phủ là tổ chức thi hành pháp
luật. Hiến pháp quy định nhiệm vụ, quyền
hạn của Chính phủ là “Tổ chức thi hành
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp luật, nghị quyết của UBTVQH, lệnh,
quyết định của Chủ tịch nước” (khoản 1
Điều 96), Thủ tướng Chính phủ có nhiệm
vụ: “Lãnh đạo tổ chức thi hành pháp luật”
(khoản 1 Điều 98); Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang Bộ có nhiệm vụ: “Tổ chức
thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật
liên quan đến ngành, lĩnh vực trong phạm vi
toàn quốc” (khoản 1 Điều 99); Chính quyền
địa phương có nhiệm vụ: “Tổ chức đảm bảo
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5Số 13(389) T7/2019
việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa
phương” (khoản 1 Điều 112); và Ủy ban
nhân dân (UBND) các cấp có nhiệm vụ: “Tổ
chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở
địa phương” (khoản 2 Điều 114).
Khác với Hiến pháp 1980 và 1992, nơi
quy định nhiệm vụ của Chính phủ về “bảo
đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật”,
Hiến pháp 2013 đã quy định: “tổ chức thi
hành pháp luật” thành một thẩm quyền có
tính độc lập và đặc trưng của hệ thống hành
pháp: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các
Bộ trưởng, chính quyền địa phương các cấp.
Hiến pháp đã xác định quyền lập pháp
do Quốc hội thực hiện và khẳng định vai trò
của tổ chức thi hành pháp luật như một hoạt
động mang tính xâu chuỗi của quá trình ban
hành văn bản lập pháp. Từ đó cho thấy, tổ
chức thi hành pháp luật là bảo đảm cho “đầu
ra” của sản phẩm lập pháp; tạo sự gắn kết
giữa chức năng làm luật của Quốc hội với
đưa pháp luật vào cuộc sống của quyền hành
pháp. Qua đó thể hiện mối quan hệ phân
công, phối hợp giữa hoạt động lập pháp với
hoạt động tổ chức thi hành pháp luật của
hai thiết chế mang quyền lập pháp và quyền
hành pháp.
Nội hàm của tổ chức thực hiện pháp
luật là ban hành văn bản quy định chi tiết,
hướng dẫn văn bản lập pháp; ban hành kế
hoạch triển khai thực hiện; phổ biến, giáo
dục pháp luật; kiểm tra việc thi hành luật,
3 “Điều 6. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong tổ chức thi hành Hiến pháp và pháp luật
1. Ban hành kịp thời và đầy đủ các văn bản pháp luật để thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh,
nghị quyết của UBTVQH, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước và để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao; bảo đảm
tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất trong các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và của chính quyền địa phương; kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử
lý các văn bản trái Hiến pháp và pháp luật.
2. Quyết định các biện pháp để tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của
UBTVQH, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; chỉ đạo triển khai và kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, nghị định,
chương trình công tác của Chính phủ.
3. Lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm điều kiện về cơ sở vật
chất, nhân lực và các nguồn lực khác để thi hành Hiến pháp và pháp luật; thống nhất quản lý công tác hành chính tư
pháp, bổ trợ tư pháp, bồi thường nhà nước, thi hành án.
4. Tổng hợp đánh giá tình hình thi hành Hiến pháp, pháp luật và báo cáo với Quốc hội, UBTVQH, Chủ tịch nước theo
quy định của pháp luật”.
4 Theo Điều 73 Hiến pháp Nhật Bản, Nội các ban hành sắc lệnh để thi hành Hiến pháp và đạo luật nhưng không được
quy định những quy tắc hình sự nếu không được ủy quyền theo quy định của pháp luật.
nghị quyết của Quốc hội; theo dõi việc thi
hành để kịp thời phát hiện những khó khăn,
bất hợp lý để kiến nghị điều chỉnh; sơ kết,
tổng kết việc tổ chức thi hành. Những nội
dung này về cơ bản đã được thể hiện tại Luật
tổ chức Chính phủ3.
Tổ chức thi hành pháp luật nhìn chung
được thực hiện qua hoạt động ban hành
văn bản quy định chi tiết và qua hoạt động
điều hành cụ thể. Hiến pháp các nước cũng
giao Chính phủ những nhiệm vụ tương tự4.
Nhìn một cách tổng thể, tuy đề cao giá trị
và hướng tới mức điều chỉnh toàn diện của
luật đối với mọi lĩnh vực đời sống, nhưng
Hiến pháp các nước vẫn ghi nhận vai trò và
duy trì quyền lập quy của Chính phủ như
một cách thức để triển khai luật. Có thể nhận
thấy sự thừa nhận gián tiếp về tính nguyên
tắc, khái quát của luật và nhu cầu quy định
chi tiết trong quá trình thực hiện.
Đối với Việt Nam, cách thể hiện tại
Khoản 1 Điều 6 Luật tổ chức Chính phủ
“ban hành kịp thời và đầy đủ” đã phản ánh
thực tế mối quan hệ giữa hai quyền lập pháp
và hành pháp trong công tác xây dựng pháp
luật. Về mặt lý thuyết, quan điểm chung là
cần bảo đảm chất lượng của luật, hạn chế
tối đa luật “khung” làm phát sinh yêu cầu
cần hướng dẫn từ phía Chính phủ. Tuy
nhiên, yếu tố thực tiễn đã trở nên ưu thế và
vì vậy, các nghị định quy định chi tiết luật,
nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Số 13(389) T7/2019
quyết của UBTVQH được nhấn mạnh tính
kịp thời, đầy đủ như điều kiện bảo đảm cho
công tác tổ chức thi hành pháp luật.
Quy định “ban hành kịp thời và đầy
đủ” văn bản quy định chi tiết với sự ghi nhận
vai trò và trách nhiệm của Chính phủ sẽ chỉ
là thích hợp trong giai đoạn nhất định, khi
mà yếu tố phối hợp mang tính trội. Trong
tương lai, hoạt động lập quy nói chung và
hướng dẫn luật, pháp lệnh sẽ cần được giảm
tải để cơ quan hành pháp tập trung nhiều hơn
cho công tác quản lý, điều hành, các biện
pháp tổ chức thi hành pháp luật như Khoản
2 Điều 6 Luật tổ chức Chính phủ. Qua đó,
tuy vẫn theo cơ chế phân quyền mềm dẻo
nhưng thể hiện rõ hơn khía cạnh phân công
giữa lập pháp - hành pháp.
Một trong những nhiệm vụ của Chính
phủ là “bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và
tính thống nhất trong các văn bản quy phạm
pháp luật (QPPL) của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ và của chính quyền địa phương;
kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử
lý các văn bản trái Hiến pháp và pháp luật”
(Khoản 1 Điều 6 Luật tổ chức Chính phủ).
Bằng công tác kiểm tra văn bản, thực tế đã
cho thấy ý nghĩa của công tác này trong
việc thực hiện nguyên tắc xây dựng, ban
hành văn bản QPPL là “bảo đảm tính hợp
hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn
bản QPPL trong hệ thống pháp luật” (Điều 5
Luật Ban hành văn bản QPPL).
Để bảo đảm tính hợp pháp và thống
nhất của văn bản QPPL do các cơ quan hành
chính nhà nước và chính quyền địa phương
ban hành, Luật đã giao Chính phủ thẩm
quyền kiểm tra, xử lý văn bản QPPL có dấu
hiệu trái pháp luật (Điều 165). Theo đó, Chính
phủ kiểm tra văn bản QPPL, xử lý văn bản
QPPL của bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng
nhân dân (HĐND) cấp tỉnh, UBND cấp tỉnh,
chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính
- kinh tế đặc biệt có dấu hiệu trái với Hiến
pháp, luật và văn bản QPPL của cơ quan nhà
nước cấp trên. Thủ tướng Chính phủ xem
xét, quyết định bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi
hành một phần hoặc toàn bộ văn bản QPPL
của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
bộ, UBND cấp tỉnh, chính quyền địa phương
ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt trái
với Hiến pháp, luật và văn bản QPPL của
cơ quan nhà nước cấp trên; đình chỉ việc thi
hành một phần hoặc toàn bộ nghị quyết của
HĐND cấp tỉnh trái với Hiến pháp, luật và
văn bản QPPL của cơ quan nhà nước cấp
trên, đồng thời đề nghị UBTVQH bãi bỏ.
Thực hiện quyền giám sát, Quốc hội
bãi bỏ văn bản QPPL của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ trái với Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội. UBTVQH đình
chỉ việc thi hành văn bản QPPL của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình
Quốc hội quyết định việc bãi bỏ văn bản đó
tại kỳ họp gần nhất; bãi bỏ văn bản QPPL
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái
với pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH
(Điều 164 Luật Ban hành văn bản QPPL).
Như vậy, việc giám sát, kiểm tra và
xử lý văn bản do Chính phủ thực hiện hoặc
được thực hiện đối với Chính phủ được tiến
hành bằng cơ chế hành chính.
Xung quanh việc giám sát, xử lý văn
bản sai trái, đã có ý kiến đề nghị sử dụng
cơ chế tư pháp để phán quyết về tính hợp
pháp của văn bản QPPL song song với kiểm
tra mang tính nội bộ hành chính. Như vậy,
vừa tạo cơ chế kiểm soát của quyền tư pháp
đối với quyền hành pháp theo xu hướng
chung, vừa tăng tính phối hợp giữa hai cơ
quan trong phòng ngừa và khắc phục biểu
hiện sai trái của văn bản không chỉ trong quá
trình tổ chức thực hiện mà cả khi giải quyết
tranh chấp phát sinh từ thực tế áp dụng pháp
luật. Với mục đích đó, cần nghiên cứu thêm
về chức năng, nhiệm vụ của quyền tư pháp.
3.2 Hoạch định chính sách
Quyền “hoạch định chính sách” với
mục đích đề xuất và thông qua chính sách
đối nội, đối ngoại đã được nghiên cứu trong
thời gian dài để có thể được thừa nhận
chung về mặt lý luận là một nội dung của
quyền hành pháp. Theo Điều 96 Hiến pháp,
Chính phủ có nhiệm vụ “đề xuất, xây dựng
chính sách trình Quốc hội, UBTVQH quyết
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7Số 13(389) T7/2019
định hoặc quyết định theo thẩm quyền để
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định
tại Điều này; trình dự án luật, dự án ngân
sách nhà nước và các dự án khác trước Quốc
hội; trình dự án pháp lệnh trước UBTVQH”.
Tinh thần của Điều này được cụ thể hóa tại
Luật tổ chức Chính phủ5.
Đề xuất chính sách là vấn đề nhận
được sự thống nhất cao khi coi đó là thẩm
quyền gắn với quyền hành pháp. Đối với
nhiệm vụ “quyết định” chính sách mà thực
chất là ban hành văn bản QPPL (ngoài các
văn bản quy định chi tiết luật, pháp lệnh đã
được nêu) thì trong nhiều thời gian và ngữ
cảnh, còn ý kiến chưa đồng nhất.
Luật Ban hành văn bản QPPL (Điều
19) đã cho phép tiếp tục duy trì hai loại
nghị định là hình thức thể hiện quyết sách
của Chính phủ để quy định các biện pháp tổ
chức thực hiện chính sách đã được Quốc hội
ban hành và để quy định các vấn đề thuộc
thẩm quyền quản lý, điều hành của Chính
phủ; hoặc để quy định những vấn đề chưa
đủ điều kiện xây dựng thành luật, pháp lệnh.
Thông tư của Bộ trưởng được ban hành để
quy định biện pháp thực hiện chức năng
quản lý nhà nước của mình (Điều 24 Luật
Ban hành văn bản QPPL).
Công tác Ủy quyền lập pháp hay hoạt
động lập quy độc lập mang tính sáng tạo của
Chính phủ tuy còn ý kiến khác nhau, tuy
nhiên, cho đến nay và một thời gian tới vẫn
cần duy trì để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà
nước được kiểm nghiệm trên thực tế. Xét về
phương diện lý thuyết phân quyền và dân
chủ đại diện thì hoạt động ban hành thể chế
cần tập trung tối đa vào Quốc hội là cơ quan
thể hiện ý chí chung và phản ánh ý chí đó
qua các văn bản lập pháp. Nếu coi lập quy
là hoạt động giải quyết yêu cầu thực tế trong
5 Điều 7. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong hoạch định chính sách và trình dự án luật, pháp lệnh
1. Đề xuất, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và các chương trình, dự án khác trình Quốc hội,
UBTVQH xem xét, quyết định.
2. Quyết định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và các chương trình, dự án khác theo thẩm quyền.
3. Xây dựng các dự án luật, dự thảo nghị quyết trình Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trình UBTVQH.
4. Báo cáo Quốc hội, UBTVQH ý kiến của Chính phủ về các dự án luật, pháp lệnh do các cơ quan, tổ chức, đại biểu
Quốc hội trình.
giai đoạn nhất định với cơ chế phân quyền
mềm dẻo thì vẫn cần xem xét thêm một số
vấn đề để phân định thẩm quyền giữa Quốc
hội và Chính phủ.
Các luật hiện hành sử dụng khái niệm
chính sách, nhiệm vụ “cơ bản” và các biện
pháp “cụ thể” để phân biệt phạm vi thẩm
quyền của Quốc hội và Chính phủ. Ví dụ,
Điều 7 Luật tổ chức Quốc hội quy định,
Quốc hội “quyết định mục tiêu, chỉ tiêu,
chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh
tế - xã hội dài hạn và hằng năm của đất
nước; quyết định chính sách cơ bản về tài
chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi
hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định chính
sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà
nước, chính sách cơ bản về đối ngoại của
Nhà nước”.
Luật tổ chức Chính phủ giao Chính
phủ quyết định chính sách cụ thể về tài chính,
tiền tệ quốc gia, tiền lương, giá cả; Quyết
định chính sách cụ thể thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế về
kinh tế, phát triển nông nghiệp và xây dựng
nông thôn mới; Quyết định chính sách cụ thể
khuyến khích doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế (Điều 8); Quyết định chính sách
cụ thể về bảo vệ, cải thiện và giữ gìn môi
trường (Điều 9); Quyết định chính sách cụ
thể về khoa học và công nghệ để phát triển
thị trường khoa học và công nghệ (Điều 10);
Quyết định chính sách cụ thể về giáo dục để
bảo đảm phát triển giáo dục phù hợp với yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội; ưu tiên đầu tư,
khuyến khích các nguồn lực để phát triển sự
nghiệp giáo dục và đào tạo, nâng cao dân trí,
đào tạo nguồn nhân lực, thu hút, bồi dưỡng
và trọng dụng nhân tài (Điều 11); Quyết định
chính sách cụ thể để xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Số 13(389) T7/2019
thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc,
nhân văn, dân chủ và khoa học; bảo vệ và
phát huy giá trị di sản văn hóa; khuyến khích
phát triển các tài năng sáng tạo văn hóa, nghệ
thuật, Quyết định chính sách cụ thể để phát
triển sự nghiệp thể dục, thể thao; ưu tiên
đầu tư, huy động các nguồn lực xã hội để
phát triển thể thao chuyên nghiệp, thể thao
thành tích cao (Điều 12); Quyết định chính
sách cụ thể nhằm phát triển nguồn nhân lực
(Điều 15); 2. Quyết định chính sách cụ thể
nhằm bảo đảm thực hiện chính sách các dân
tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp
nhau cùng phát triển; Quyết định chính sách
cụ thể, các biện pháp ưu tiên phát triển toàn
diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu
số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất
nước (Điều 16).
Một cách khái quát, Luật đã thể hiện
mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ
theo hướng: Chính phủ xây dựng, trình Quốc
hội quyết định chính sách cơ bản trong các
lĩnh vực và quyết định các biện pháp cụ thể
để thực hiện nhiệm vụ của mình. Ví dụ: xây
dựng và trình Quốc hội quyết định chính sách
cơ bản về đối ngoại; quyết định và chỉ đạo
việc thực hiện chính sách cụ thể về hợp tác
kinh tế, khoa học và công nghệ, giáo dục và
đào tạo, văn hóa và các lĩnh vực khác với các
quốc gia, vùng lãnh thổ và các tổ chức quốc
tế (Điều 22 Luật tổ chức Chính phủ).
Trong một số trường hợp, việc phân
định theo cách thức trên đây theo hướng định
tính, hơn nữa, chưa thể hiện nội dung thẩm
quyền của Chính phủ trong mối quan hệ với
các cơ quan khác cũng được trao quyền quyết
định biện pháp cụ thể như cơ quan ngang Bộ,
chính quyền địa phương. Theo Luật Tổ chức
chính quyền địa phương, HĐND cấp tỉnh
quyết định biện pháp để thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn do cơ quan nhà nước cấp trên phân
cấp hay quyết định biện pháp phát triển kinh
tế - xã hội trên địa bàn tỉnh theo quy định của
pháp luật (Điều 19).
Các quyết định về chính sách về cơ
bản được thể hiện dưới hình thứcvăn bản
QPPL. Như vậy, bước xác định nội dung và
phân định thẩm quyền tiếp theo sẽ thực hiện
theo Luật Ban hành văn bản QPPL.
Về nội dung Nghị định của Chính phủ,
Luật Ban hành văn bản QPPL vẫn tiếp tục
sử dụng cách thể hiện là quy định các biện
pháp cụ thể để tổ chức thi hành Hiến pháp,
luật, pháp lệnh (Điều 19). Bên cạnh đó, đã
xác định nội dung của luật, nghị quyết của
Quốc hội để xác định ranh giới giữa lập pháp
- lập quy.
Với địa vị pháp lý cơ quan lập pháp
với chức năng làm luật và sửa đổi luật, về
nguyên tắc, Quốc hội cần ban hành các văn
bản lập pháp bao gồm các luật và văn bản
có tính chất luật về các lĩnh vực. Trong giai
đoạn hiện nay, do nhu cầu phối hợp trong
hoạt động lập pháp, Chính phủ và UBTVQH
vẫn được ban hành một số văn bản theo lập
pháp uỷ quyền với mục đích đáp ứng yêu
cầu điều chỉnh pháp luật.
Pháp luật của một số nước thừa nhận
lập pháp ủy quyền. Theo đó, Chính phủ
được ban hành văn bản có tính chất luật.
Thẩm quyền này giúp tăng cường quyền lực
cho Chính phủ và đồng nghĩa với việc giảm
quyền lực của Nghị viện. Về quy trình, văn
bản do Nghị viện ban hành sẽ kéo dài hơn
về thời gian và chặt chẽ về thủ tục. Vấn đề
đặt ra là cần kiểm soát việc ban hành loại
văn bản này và cũng chính là kiểm soát hành
pháp khi tham gia vào hoạt động lập pháp.
Ở góc độ lý luận, có thể nói rằng, duy
trì lập pháp ủy quyền là thừa nhận sự thiếu
triệt để trong phân định thẩm quyền giữa hai
nhánh quyền lực, là sự chia sẻ quyền hạn và
trách nhiệm trong “làm luật”. Hệ quả là sẽ
có thêm chủ thể được ban hành văn bản tuy
không gọi là lập pháp nhưng có tính chất,
nội dung như luật. Vì vậy, đã có ý kiến cho
rằng ủy quyền lập pháp có khả năng tạo ra
gánh nặng cho cơ quan hành pháp vì “phải
làm thay công việc của cơ quan lập pháp”
trong khi Chính phủ cần tập trung thực hiện
chức năng quản lý nhà nước vốn đã hết sức
phức tạp.
Ủy quyền trong thực hiện quyền lực
nhà nước sẽ không hoàn toàn như ủy quyền
trong các lĩnh vực quan hệ pháp luật khác.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9Số 13(389) T7/2019
Về nguyên tắc, Quốc hội cần thực hiện đầy
đủ thẩm quyền lập pháp của mình với bộ
máy tham mưu, giúp việc hiệu quả cùng với
cơ chế thu hút nguồn lực xã hội tham gia
xây dựng pháp luật. Trước mắt, trong khi
nhu cầu ủy quyền lập pháp là hiện hữu thì
cần phân định rõ phạm vi ủy quyền và kiểm
soát các văn bản ban hành theo thủ tục đặc
biệt này.
Về lâu dài, hướng tới Quốc hội chuyên
nghiệp, việc ủy quyền lập pháp sẽ phải giảm
đến mức tối đa. Nếu duy trì, cần phân định
giới hạn ủy quyền tại ngay Hiến pháp cùng
với cơ chế kiểm soát chặt chẽ.
3.3 Quản lý nhà nước
Hiến pháp và Luật tổ chức Chính phủ
ghi nhận vai trò của Chính phủ “thống nhất
quản lý” trên các mặt của đời sống xã hội:
về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế,
khoa học, công nghệ, môi trường, thông
tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội (Điều
96 Hiến pháp).
Luật tổ chức Chính phủ cũng ghi nhận
thẩm quyền thống nhất quản lý nhà nước của
Chính phủ về y tế, chăm sóc sức khỏe của
Nhân dân và dân số (Điều 14); về thực hiện
các chính sách xã hội (Điều 15); về quốc
phòng (Điều 18); quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội (Điều 20); về đối ngoại và hội nhập
quốc tế (Điều 22); tổ chức và hoạt động của
các hội, tổ chức phi chính phủ (Điều 23).
Nội dung của “thống nhất” quản lý đã
được thảo luận tại các diễn đàn. Khái niệm
này dẫn đến cách hiểu về sự nhất quán một
đầu mối, về điều chỉnh pháp luật, về cách
thức, quy trình thực hiện. Thực tiễn cho
thấy, có lĩnh vực đang được một số chủ thể
trong hệ thống chính trị quản lý (các cơ quan
của Đảng, Chủ tịch nước, các cơ quan của
Quốc hội). Vì vậy, cần xác định rõ phạm vi
quản lý của Chính phủ và đồng thời, hình
thành cơ chế phối hợp tương ứng, chẳng hạn
như lĩnh vực đối ngoại.
Hiến pháp giao Chính phủ “thống nhất
quản lý nền hành chính quốc gia”. Riêng
về lĩnh vực quản lý về cán bộ, công chức,
viên chức và công vụ và công tác thanh tra,
kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng,
chống quan liêu, tham nhũng, Chính phủ
thực hiện quản lý với phạm vi “trong các cơ
quan nhà nước” (Điều 96 Hiến pháp). Cụ thể
hóa quy định này, Luật tổ chức Chính phủ
giao Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước
về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, chế
độ công vụ, công chức, viên chức; thống
nhất quản lý nhà nước về cán bộ, công chức,
viên chức và công vụ trong các cơ quan nhà
nước, đơn vị sự nghiệp công lập; quản lý
biên chế công chức, số lượng người làm việc
trong các cơ quan hành chính nhà nước, đơn
vị sự nghiệp công lập từ trung ương đến địa
phương; thống nhất quản lý nhà nước và tổ
chức thực hiện chế độ tiền lương, phụ cấp và
các chế độ, chính sách khác đối với cán bộ,
công chức, viên chức trong các cơ quan nhà
nước từ trung ương đến địa phương; về công
tác thi đua, khen thưởng (Điều 23).
Theo Luật Cán bộ, công chức, Chính
phủ được giao thống nhất quản lý nhà nước
về công chức; cơ quan có thẩm quyền của
Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức chính trị
- xã hội trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ
của mình thực hiện việc quản lý công chức
theo phân cấp của cơ quan có thẩm quyền
và theo quy định của Chính phủ (Điều 67).
Đối với việc quản lý cán bộ, Luật quy định:
Việc quản lý cán bộ, công chức được thực
hiện theo quy định của Luật này, các quy
định khác của pháp luật có liên quan, điều lệ
của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức chính
trị - xã hội và văn bản của cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền.
Xuất phát từ quy định nêu trên, việc
quản lý biên chế như một nội dung quan
trọng của quản lý cán bộ, công chức được
Luật phân định: thẩm quyền quyết định biên
chế cán bộ được thực hiện theo quy định
của pháp luật và cơ quan có thẩm quyền của
Đảng Cộng sản Việt Nam; UBTVQH quyết
định biên chế công chức của Văn phòng
Quốc hội, Kiểm toán Nhà nước, Tòa án nhân
dân, Viện kiểm sát nhân dân; Chủ tịch nước
quyết định biên chế công chức của Văn
phòng Chủ tịch nước; Chính phủ quyết định
biên chế công chức của bộ, cơ quan ngang
(Xem tiếp trang 19)
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Số 13(389) T7/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phan_cong_phoi_hop_kiem_soat_giua_cac_co_quan_trong_thuc_hie.pdf