Một là, trong điều kiện hiện nay ở
nước ta, cần coi phân quyền, phân cấp là
nhiệm vụ chính trị quan trọng trong quá
trình cải cách hành chính, xây dựng nhà
nước pháp quyền và dân chủ hóa mọi mặt
đời sống nhà nước và xã hội, do đó cần có
quyết tâm chính trị của tất cả các cơ quan
nhà nước, các cấp, các ngành để hướng tới
xây dựng CQĐP tự quản, tự chịu trách
nhiệm, tránh những sự “ỷ lại” vào chính
quyền trung ương, đồng thời tránh sự “bao
biện làm thay” của các cơ quan nhà nước ở
trung ương đối với CQĐP.
Hai là, để thực hiện được những tư
tưởng về phân công, phân cấp trong Hiến
pháp và Luật Tổ chức CQĐP năm 2015,
trước hết cần phải rà soát lại toàn bộ các
luật, các văn bản dưới luật quy định về
nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà
nước ở trung ương, địa phương để xem xét,
đánh giá về sự hợp lý hay không hợp lý của
những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của
các cơ quan nhà nước; về phân quyền, phân
cấp cho CQĐP được quy định trong các luật,
văn bản QPPL dưới luật chuyên ngành. Để
phân quyền, phân cấp một cách hợp lý, khoa
học, bảo đảm sự thống nhất trong phân
quyền, phân cấp, tiến tới cần ban hành Luật
về phân quyền, phân cấp, trong đó cần quy
định những nguyên tắc phân quyền, phân
cấp; những vấn đề nào không được phân
quyền, phân cấp; những vấn đề nào cần
được phân quyền, phân cấp cho CQĐP.
Ba là, cần đánh giá tình hình thực tiễn,
nguồn lực, khả năng của địa phương để phân
quyền, phân cấp một cách hợp lý. Khi tiến
hành phân quyền, phân cấp, cần tránh cả hai
xu hướng, một là không dám phân quyền,
phân cấp cho CQĐP vì cho rằng CQĐP
không có khả năng thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn được phân quyền, phân cấp; hai
là phân cấp, phân quyền “tràn lan, cào bằng”
mà không tính đến khả năng, điều kiện các
nguồn lực của địa phương để thực hiện các
nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền,
phân cấp. Điều này có nghĩa là, phân quyền,
phân cấp phải có sự phân hóa giữa CQĐP ở
đô thị và nông thôn, có những vấn đề phân
quyền, phân cấp cho chính quyền đô thị, mà
không phân quyền, phân cấp cho chính
quyền ở nông thôn, và ngược lại, có những
vấn đề cần phân quyền và phân cấp cho
chính quyền ở đô thị và nông thôn, có những
vấn đề phân quyền, phân cấp cho chính
quyền nông thôn đồng bằng, mà không phân
quyền, phân cấp cho CQĐP ở miền núi, hải
đảo và ngược lại. Nói ngắn gọn, việc phân
quyền, phân cấp cần được tính toán một
cách khoa học phù hợp với từng loại CQĐP
nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
để tránh tình trạng: CQĐP muốn được phân
quyền, phân cấp, nhưng lại không được
phân quyền, phân cấp, nhưng có những vấn
đề không muốn được phân cấp, phân quyền
vì không có khả năng thực hiện, nhưng lại
được phân quyền, phân cấp.
Bốn là, cần coi ủy quyền là tiền đề
thực nghiệm cho phân cấp quản lý; phân cấp
là tiền đề, là thực nghiệm để dẫn đến phân
quyền cho CQĐP. Ở đây có sự chuẩn bị và
chiêm nghiệm trong thực tiễn quản lý nhà
nước từ thấp đến cao nhằm nâng cao hiệu
quả của quản lý nhà nước.
Năm là, khi phân quyền, phân cấp cần
tính đến khả năng thực hiện hoạt động kiểm
tra, giám sát của chính quyền trung ương đối
với CQĐP, giữa chủ thể phân quyền, phân
cấp và đối tượng được phân quyền, phân cấp
để đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống
quản lý nhà nước, trong quản lý nhà nước,
pháp chế và kỷ luật
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 241 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân công thực thi quyền lực Nhà nước và phân cấp trong hiến pháp năm 2013 và luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 05(333) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
PHÊN CÖNG THÛÅC THI QUYÏÌN LÛÅC NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHÊN CÊËP
TRONG HIÏËN PHAÁP NÙM 2013 VAÂ LUÊÅT TÖÍ CHÛÁC CHÑNH QUYÏÌN
ÀÕA PHÛÚNG NÙM 2015
Phạm Hồng Thái *
Nguyễn Thế Linh**
* GS,TS. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
** ThS. Công an TP. Hải Phòng.
Thông tin bài viết:
Từ khoá: phân công, phân
quyền, phân cấp, quyền lực nhà
nước
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 16/12/2016
Biên tập: 16/01/2017
Duyệt bài: 18/02/2017
Article Infomation:
Keywords: Assignments,
Separation, Decentralization,
State Power
Article History:
Received: 16 Dec. 2016
Edited: 16 Jan. 2017
Approved: 18 Feb. 2017
Tóm tắt:
Bài viết phân tích, luận giải về phân công, phân cấp thực thi quyền lực nhà
nước trong Hiến pháp Việt Nam năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền
địa phương (CQĐP) năm 2015, đưa ra một số giải pháp bảo đảm thực hiện
phân quyền, phân cấp giữa trung ương và CQĐP ở Việt Nam.
Abstract:
This article provides analysis and discussions of the ideas of assignments,
decentralization of state power in the Vietnamese Constitution of 2013 and
the Law on Organization of Local Governments of 2015, and also suggests
solutions to ensure the state power separation, state power decentralization
between the central authorities and the local ones in practices in Vietnam.
1 Phạm Hồng Thái (2014), “Làm rõ những quy định của Hiến pháp về vị trí, vai trò pháp lý của Chính phủ” trong sách:
“Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam - nền tảng chính trị, pháp lý cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước”,
Nxb. Lao động Xã hội, Hà Nội, tr. 300.
T ư tưởng phân quyền hình thành rấtsớm trong lịch sử tư tưởng chính trị- pháp lý của nhân loại, là phương
thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước,
nhằm chống lại sự chuyên quyền, hạn chế
quyền lực nhà nước, đồng thời là hiện thực
pháp lý và thực tiễn trong quản lý nhà nước
ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Sự phân công thực thi quyền lực đã
được thể hiện trong các Hiến pháp Việt Nam
năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp
năm 2013, thông qua các quy định của Hiến
pháp về vị trí chính trị - hiến pháp và các
nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà
nước1. Thuật ngữ phân quyền, phân cấp và
nội dung, nguyên tắc phân quyền, phân cấp
4
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 05(333) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
2 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2011. tr. 81.
thực thi quyền lực nhà nước giữa trung ương
và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới lần
đầu tiên được sử dụng chính thức trong Luật
Tổ chức CQĐP ở nước ta năm 2015. Bài
viết tập trung phân tích, luận giải tư tưởng
phân công, phân cấp thực thi quyền lực nhà
nước trong Hiến pháp năm 2013; phân
quyền, phân cấp trong Luật Tổ chức CQĐP
năm 2015 và đưa ra một số giải pháp bảo
đảm thực hiện phân công, phân quyền, phân
cấp ở nước ta hiện nay.
1. Hiến pháp năm 2013 quy định về phân
công, phân cấp giữa trung ương và địa
phương
Quan điểm “quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp”2 đã được ghi nhận trong Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Thể chế hoá quan điểm
này, Hiến pháp năm 2013 khẳng định cách
thức tổ chức quyền lực và kiểm soát quyền
lực nhà nước ở nước ta: “quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp” (Điều 2). Quy định này
đã được cụ thể hóa trước hết tại nhiều điều
khoản của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ
chức CQĐP năm 2015 về các nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan nhà nước cao
nhất của quyền lực nhà nước, của CQĐP.
Hiến pháp năm 2013 không sử dụng
thuật ngữ phân quyền, mà sử dụng “phân
công” thực thi quyền lực nhà nước giữa các
cơ quan cao nhất của quyền lực nhà nước
được thể hiện trong những quy định về địa
vị chính trị - hiến pháp của các cơ quan nhà
nước khi quy định: “Quốc hội là cơ quan
thực hiện quyền lập hiến, lập pháp”, Chính
phủ là cơ quan “...thực hiện quyền hành
pháp”, Tòa án nhân dân “...thực hiện quyền
tư pháp”, Viện kiểm sát nhân dân “...thực
hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp”. Những quy định này tạo nên cơ chế
phân công thực thi quyền lực nhà nước theo
chiều ngang được thực hiện thông qua các
quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc
hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm
sát nhân dân và các thiết chế (Chủ tịch nước,
Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà
nước), nhằm tạo nên cơ chế kiểm soát giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 đặt nền
tảng cho cơ chế phân công, phân cấp giữa
trung ương và địa phương, thông qua quy
định: “CQĐP tổ chức và bảo đảm việc thi
hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương;
quyết định các vấn đề của địa phương do
luật định; chịu sự kiểm tra của cơ quan nhà
nước cấp trên” (Điều 112).
Với quy định này, CQĐP có trách
nhiệm tự tổ chức thực hiện Hiến pháp và
pháp luật và đảm bảo việc thi hành Hiến
pháp và pháp luật tại địa phương bằng việc
tạo ra các điều kiện, tiền đề về chính trị, kinh
tế, văn hóa - xã hội, tổ chức - pháp lý, bằng
khả năng của địa phương, theo phương thức,
cách thức hợp pháp, hợp lý phù hợp với điều
kiện, đặc điểm ở địa phương, đồng thời có
quyền tự quyết định các vấn đề của địa
phương do luật định và chịu trách nhiệm về
các quyết định của mình trước nhân dân, cơ
quan nhà nước cấp trên.
Những vấn đề được quy định bởi luật
là những vấn đề có tính ổn định, lâu dài,
những vấn đề của địa phương là những vấn
đề có ý nghĩa địa phương, thuộc thẩm
quyền, trách nhiệm giải quyết của CQĐP,
khi CQĐP quyết định các vấn đề của địa
phương “chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ
quan nhà nước cấp trên”. Việc cơ quan nhà
nước cấp trên kiểm tra, giám sát đối với
CQĐP nhằm đảm bảo sự thống nhất trong
quản lý nhà nước, bảo đảm pháp chế, kỷ luật
trong quản lý, bảo đảm cho pháp luật được
thực hiện một cách nghiêm minh, thống
nhất. Kiểm tra, giám sát chứ không chỉ đạo,
điều hành hay can thiệp vào việc giải quyết
các vấn đề thuộc thẩm quyền của địa
phương, điều này nhằm tạo nên sự năng
động, sáng tạo, tự quyết, tự chịu trách nhiệm
của CQĐP đối với nhân dân địa phương.
Quan điểm này của Hiến pháp năm 2013 thể
hiện quan điểm xây dựng nhà nước pháp
quyền, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và
pháp luật. Những quy định của Hiến pháp
năm 2013 là nền tảng pháp lý cho sự hình
thành chế độ phân công và phân cấp ở nước
ta, đồng thời dần tạo nên cơ chế tự quản, tự
chịu trách nhiệm của CQĐP.
Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 còn
quy định nguyên tắc xác định nhiệm vụ,
quyền hạn của CQĐP phải dựa “... trên cơ
sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan
nhà nước ở trung ương và địa phương và
của mỗi cấp CQĐP” (khoản 2 Điều 112).
Từ quy định này có thể suy ra rằng: những
vấn đề gì đã thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của
cơ quan nhà nước ở trung ương sẽ không
thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của CQĐP,
những gì thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của
chính quyền cấp này sẽ không thuộc nhiệm
vụ, quyền hạn của chính quyền cấp khác.
Quy định của Hiến pháp năm 2013 thể hiện
rất rõ quan điểm phân định thẩm quyền theo
chiều dọc giữa trung ương và địa phương,
giữa CQĐP các cấp. Việc phân định thẩm
quyền được xác định trong các đạo luật
nhằm bảo đảm tính ổn định của hoạt động
nhà nước, hoạt động của các cấp chính
quyền, bảo đảm cho tính năng động, sáng
tạo và trách nhiệm của CQĐP.
Bên cạnh cơ chế phân định thẩm
quyền, Hiến pháp năm 2013 đặt cơ sở nền
tảng hiến định cho việc áp dụng cơ chế ủy
quyền trong hành chính: “Trong trường hợp
cần thiết, CQĐP được giao thực hiện một số
nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cấp trên với
các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ
đó” (khoản 3 Điều 112). Thực tiễn quản lý
nhà nước có những vấn đề phát sinh ở địa
phương, có ý nghĩa quốc gia, nhưng không
thuộc thẩm quyền giải quyết của CQĐP mà
thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà
nước cấp trên, để bảo đảm việc giải quyết
các công việc được thực hiện nhanh chóng,
kịp thời, phù hợp với điều kiện của địa
phương thì cơ quan nhà nước cấp trên có thể
giao cho CQĐP thực hiện. Chủ thể giao
quyền có thể là cơ quan nhà nước ở trung
ương, hay cơ quan thuộc chính quyền cấp
trên của cơ quan được giao nhiệm vụ. Bên
cạnh việc giao cho CQĐP thực hiện nhiệm
vụ của mình, cơ quan nhà nước cấp trên có
trách nhiệm phải bảo đảm đầy đủ điều kiện
để CQĐP thực hiện nhiệm vụ đó. Các điều
kiện có thể là nguồn lực tài chính, nguồn lực
con người, các phương tiện máy móc, kỹ
thuật, hay hỗ trợ các chuyên gia v.v.. Đây là
những điều kiện tiên quyết để cơ quan được
giao quyền thực hiện nhiệm vụ của cơ quan
nhà nước cấp trên - cơ quan giao quyền.
Tóm lại, những quy định của Hiến
pháp năm 2013 về địa vị chính trị - hiến định
của các cơ quan tối cao của quyền lực nhà
nước và phương thức phân định nhiệm vụ,
quyền hạn giữa các cơ quan nhà nước ở
trung ương và CQĐP, giữa CQĐP các cấp là
biểu hiện của sự phân công thực thi quyền
lực nhà nước theo chiều ngang, chiều dọc
giữa trung ương và CQĐP nhằm phân công
chức năng, phân định thẩm quyền giữa các
cơ quan nhà nước một cách khoa học, rành
mạch, nâng cao tính chủ động, sáng tạo và
trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
mình đã được xác lập bằng luật. Thực chất
đây là sự phân công lao động một cách khoa
học nhằm hạn chế sự trùng lắp về nhiệm vụ,
quyền hạn giữa các cơ quan nhà nước. Đồng
thời, đây cũng là cơ sở để hình thành, xác
lập mối quan hệ trách nhiệm giữa trung
5
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 05(333) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
ương và địa phương, giữa CQĐP các cấp,
nhằm loại trừ những tồn tại của cơ chế tập
trung quan, liêu bao cấp vốn đã hình thành,
tồn tại rất lâu trong quản lý nhà nước ở nước
ta, đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường,
hội nhập, xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân vì
nhân dân.
2. Phân quyền và phân cấp giữa trung
ương và địa phương theo Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015
Trên cơ sở tinh thần, tư tưởng của
Hiến pháp năm 2013 về phân công, phân
cấp giữa trung ương và địa phương, Luật Tổ
chức CQĐP năm 2015 lần đầu tiên đã chính
thức sử dụng thuật ngữ phân quyền, phân
cấp và phân biệt giữa phân quyền và phân
cấp - một hiện tượng gần gũi với phân
quyền, nhưng khác nhau về bản chất, coi
phân quyền và phân cấp là hình thức để
“phân định thẩm quyền giữa các cơ quan
nhà nước ở trung ương và địa phương và của
mỗi cấp CQĐP”. Điều 12 Luật này quy
định: “Việc phân quyền cho mỗi cấp CQĐP
phải được quy định trong các luật”. Như
vậy, luật là hình thức pháp lý, phương tiện,
công cụ để phân quyền. Phân quyền thể hiện
mối quan hệ giữa quyền lực chung quốc gia
với CQĐP - đại diện cho một cộng đồng
lãnh thổ địa phương, hay mối quan hệ giữa
cộng đồng lãnh thổ quốc gia với cộng đồng
lãnh thổ ở các đơn vị hành chính thuộc quốc
gia, giữa toàn thể nhân dân và nhân dân ở
các đơn vị hành chính. Quan hệ đó được xác
lập bằng luật do cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất - Quốc hội đại diện cho ý chí,
nguyện vọng của nhân dân cả nước ban
hành thể hiện quyền lực nhân dân, chủ
quyền nhân dân trong mối tương quan với
quyền lực của các cộng đồng lãnh thổ địa
phương. Phân quyền là cơ sở hình thành chế
độ tự quản địa phương, đồng thời nhằm
nâng cao trách nhiệm của CQĐP với nhân
dân địa phương về những vấn đề được phân
quyền.
Trong chế độ dân chủ và pháp quyền,
CQĐP có những quyền được phân quyền
độc lập với chính quyền trung ương. Vì vậy,
đối với các nhiệm vụ, quyền hạn được phân
quyền, CQĐP tự chủ, tự quản, tự chịu trách
nhiệm trong việc thực hiện, còn cơ quan
nhà nước cấp trên trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình có trách nhiệm kiểm
tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong
việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn
được phân quyền cho các cấp CQĐP. Kiểm
tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp nhằm
bảo đảm tính pháp quyền trong hoạt động
của CQĐP, bảo đảm pháp chế và kỷ luật
trong quản lý - một biểu hiện, đòi hỏi của
nhà nước pháp quyền, điều này có nghĩa là
cơ quan nhà nước cấp trên không kiểm tra
tính hợp lý của việc giải quyết các vấn đề
đã phân cấp cho CQĐP, không chỉ đạo, điều
hành CQĐP thực hiện những vấn đề đã
phân quyền cũng là nhằm hạn chế tình trạng
bao biện, làm thay của các cơ quan nhà
nước cấp trên.
Bên cạnh việc quy định chế độ phân
quyền, Luật Tổ chức CQĐP còn quy định về
phân cấp, theo Điều 13 của Luật này, cơ
quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương
có quyền phân cấp cho CQĐP hoặc cơ quan
nhà nước cấp dưới thực hiện một cách liên
tục, thường xuyên một hoặc một số nhiệm
vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của mình
căn cứ vào yêu cầu công tác, khả năng thực
hiện và điều kiện, tình hình cụ thể của địa
phương. Việc phân cấp phải được quy định
trong văn bản quy phạm pháp luật (QPPL)
của cơ quan nhà nước phân cấp, trong đó
xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn phân cấp
cho CQĐP hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới,
trách nhiệm của cơ quan nhà nước phân cấp
và cơ quan nhà nước được phân cấp. Như
vậy, bản chất của phân cấp là việc cơ quan
nhà nước cấp trên “chuyển giao” nhiệm vụ,
quyền hạn của mình cho CQĐP, hay cơ quan
nhà nước cấp dưới thực hiện một cách
thường xuyên, liên tục việc phân cấp được
quy định trong văn bản QPPL do cơ quan
6
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 05(333) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
nhà nước phân cấp quy định. Từ đây có thể
suy ra rằng, những cơ quan nào không có
quyền ban hành văn bản QPPL thì không có
quyền phân cấp trong quản lý nhà nước.
Khi cơ quan nhà nước phân cấp cho
CQĐP hoặc cơ quan cấp dưới phải có trách
nhiệm bảo đảm nguồn lực và điều kiện cần
thiết khác để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
mà mình phân cấp; hướng dẫn, kiểm tra việc
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đã phân cấp
và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn mà mình phân cấp, còn
cơ quan nhà nước được phân cấp chịu trách
nhiệm trước cơ quan nhà nước đã phân cấp
về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được
phân cấp. Căn cứ tình hình cụ thể ở địa
phương, cơ quan nhà nước ở địa phương có
thể phân cấp tiếp cho CQĐP hoặc cơ quan
nhà nước cấp dưới thực hiện các nhiệm vụ,
quyền hạn đã được cơ quan nhà nước cấp
trên phân cấp nhưng phải được sự đồng ý
của cơ quan nhà nước đã phân cấp.
Bên cạnh việc quy định về phân
quyền, phân cấp, Luật Tổ chức CQĐP năm
2015 còn quy định về ủy quyền. Do đặc thù
của hệ thống các cơ quan hành chính nhà
nước, nên Luật chỉ quy định về chế độ ủy
quyền của cơ quan hành chính nhà nước.
Điều 14 Luật này quy định:
“ 1. Trong trường hợp cần thiết, cơ
quan hành chính nhà nước cấp trên có thể
ủy quyền bằng văn bản cho Ủy ban nhân
dân (UBND) cấp dưới hoặc cơ quan, tổ chức
khác thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ,
quyền hạn của mình trong khoảng thời gian
xác định kèm theo các điều kiện cụ thể.
2. Cơ quan hành chính nhà nước cấp
trên khi ủy quyền cho UBND cấp dưới hoặc
cơ quan, tổ chức khác phải bảo đảm các
nguồn lực và điều kiện cần thiết khác để
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà mình ủy
quyền; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn đã ủy quyền và chịu
trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn mà mình đã ủy quyền.
3. Cơ quan, tổ chức được ủy quyền
phải thực hiện đúng nội dung và chịu trách
nhiệm trước cơ quan hành chính nhà nước
cấp trên về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn mà mình được ủy quyền. Cơ quan, tổ
chức nhận ủy quyền không được ủy quyền
tiếp cho cơ quan, tổ chức khác thực hiện các
nhiệm vụ, quyền hạn đã được cơ quan hành
chính nhà nước cấp trên ủy quyền”.
Như vậy, chế độ ủy quyền chỉ có thể
được thực hiện trong hệ thống cơ quan hành
chính nhà nước giữa cơ quan hành chính cấp
trên với cơ quan hành chính cấp dưới; cơ
quan, tổ chức khác ở đây chỉ có thể được
hiểu là những cơ quan, tổ chức thuộc bộ
phận cơ cấu của cơ quan hành chính nhà
nước, hay những cơ quan, tổ chức có quan
hệ trực thuộc với cơ quan hành chính nhà
nước ủy quyền; hình thức ủy quyền là văn
bản; thời hạn ủy quyền luôn được xác định
trong văn bản ủy quyền.
Từ những vấn đề trên có thể thấy giữa
phân quyền và phân cấp, ủy quyền khác
nhau ở những điểm căn bản sau đây:
Chủ thể có quyền phân quyền chỉ có
thể là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất
- Quốc hội. Phân quyền thể hiện mối quan
hệ giữa nhà nước với cộng đồng lãnh thổ,
phân quyền được thể hiện dưới hình thức
pháp lý - luật.
Cấp chính quyền được phân quyền có
toàn quyền và chịu trách nhiệm về việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền;
phân quyền tạo nên sự độc lập giữa CQĐP
và chính quyền trung ương ở những nội
dung được phân quyền, bảo đảm cho cấp
chính quyền được phân quyền là những
pháp nhân công quyền độc lập.
Cơ quan nhà nước cấp trên chỉ có thể
kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp
trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của CQĐP về những vấn đề được phân
quyền.
Chủ thể phân cấp là các cơ quan nhà
nước ở trung ương và CQĐP, đối tượng
7
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 05(333) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
được phân cấp là CQĐP và cơ quan nhà
nước ở cấp dưới; phân cấp được thực hiện
bằng việc ban hành văn bản QPPL của cơ
quan phân cấp.
Cơ quan phân cấp có trách nhiệm
hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của mình đã phân cấp, còn cơ
quan được phân cấp chịu trách nhiệm trước
cơ quan đã phân cấp về việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp. Giữa
cơ quan được phân cấp và cơ quan phân cấp
có mối quan hệ trực thuộc về tổ chức hoặc
trực thuộc về chức năng.
Cơ quan phân cấp có thể dựa vào thực
tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan được phân cấp mà có thể tiếp tục phân
cấp, hay “thu hồi sự phân cấp”. Việc phân
cấp không mang tính ổn định, lâu dài như
phân quyền, mà tùy thuộc vào thực tiễn khả
năng của cơ quan được phân quyền.
Chủ thể ủy quyền là cơ quan hành
chính cấp trên, cơ quan được ủy quyền có
thể là UBND cấp dưới, hay cơ quan, tổ chức
khác. Trong quan hệ hành chính, cơ quan
hành chính nhà nước cấp trên chỉ có thể ủy
quyền cho những cơ quan, tổ chức trực
thuộc mình về mặt tổ chức mà không thể ủy
quyền cho cơ quan không nằm trong mối
quan hệ trực thuộc về tổ chức, hay trực
thuộc về chức năng. Vì vậy, cơ quan, tổ chức
nhà nước khác ở đây có thể được hiểu là cơ
chuyên môn thuộc UBND, cơ quan được
thành lập theo chế độ tản quyền, hay tổ chức
- đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc hay
chịu sự quản lý nhà nước của cơ quan hành
chính nhà nước.
Ủy quyền chỉ là việc cơ quan hành
chính nhà nước cấp trên giao cho UBND, cơ
quan, tổ chức nhà nước khác thực hiện một
nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể nào đó, do đó
ủy quyền không mang tính thường xuyên,
liên tục, ủy quyền thường là ủy quyền theo
vụ việc cụ thể.
Bên cạnh những quy định về phân
quyền, phân cấp, ủy quyền, Luật Tổ chức
CQĐP năm 2015 còn quy định việc phân
định thẩm quyền được thực hiện trên cơ sở
những nguyên tắc, mục đích, các yêu cầu
sau đây:
a) Bảo đảm quản lý nhà nước thống
nhất về thể chế, chính sách, chiến lược và
quy hoạch đối với các ngành, lĩnh vực; bảo
đảm tính thống nhất, thông suốt của nền
hành chính quốc gia;
b) Phát huy quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của CQĐP ở các đơn vị hành
chính trong việc thực hiện các nhiệm vụ
quản lý nhà nước trên địa bàn theo quy định
của pháp luật;
c) Kết hợp chặt chẽ giữa quản lý theo
ngành với quản lý theo lãnh thổ, phân định
rõ nhiệm vụ quản lý nhà nước giữa CQĐP
các cấp đối với các hoạt động kinh tế - xã
hội trên địa bàn lãnh thổ;
d) Việc phân định thẩm quyền phải phù
hợp với điều kiện, đặc điểm nông thôn, đô thị,
hải đảo và đặc thù của các ngành, lĩnh vực;
đ) Những vấn đề liên quan đến phạm
vi từ hai đơn vị hành chính cấp xã trở lên thì
thuộc thẩm quyền giải quyết của CQĐP cấp
huyện; những vấn đề liên quan đến phạm vi
từ hai đơn vị hành chính cấp huyện trở lên
thì thuộc thẩm quyền giải quyết của CQĐP
cấp tỉnh; những vấn đề liên quan đến phạm
vi từ hai đơn vị hành chính cấp tỉnh trở lên
thì thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan
nhà nước ở trung ương, trừ trường hợp luật,
nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, nghị
định của Chính phủ có quy định khác...
(Điều 11).
Những yêu cầu này cũng là những yêu
cầu đối với việc phân quyền, phân cấp giữa
cơ quan nhà nước ở trung ương và CQĐP,
giữa các cấp CQĐP, giữa cơ quan cấp trên
và cấp dưới.
3. Thực hiện phân quyền, phân cấp
Phân quyền, phân cấp diễn ra như một
quy luật phát triển của đời sống nhà nước và
xã hội, là yêu cầu đòi hỏi khách quan nhằm
8
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 05(333) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp CQĐP,
phục vụ tốt các nhu cầu, lợi ích của nhân
dân, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đáp
ứng yêu cầu quản lý nhà nước, xã hội trong
điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập, xây
dựng nhà nước pháp quyền, phát huy dân
chủ. Để bảo đảm, thực hiện phân quyền,
phân cấp cần phải:
Một là, trong điều kiện hiện nay ở
nước ta, cần coi phân quyền, phân cấp là
nhiệm vụ chính trị quan trọng trong quá
trình cải cách hành chính, xây dựng nhà
nước pháp quyền và dân chủ hóa mọi mặt
đời sống nhà nước và xã hội, do đó cần có
quyết tâm chính trị của tất cả các cơ quan
nhà nước, các cấp, các ngành để hướng tới
xây dựng CQĐP tự quản, tự chịu trách
nhiệm, tránh những sự “ỷ lại” vào chính
quyền trung ương, đồng thời tránh sự “bao
biện làm thay” của các cơ quan nhà nước ở
trung ương đối với CQĐP.
Hai là, để thực hiện được những tư
tưởng về phân công, phân cấp trong Hiến
pháp và Luật Tổ chức CQĐP năm 2015,
trước hết cần phải rà soát lại toàn bộ các
luật, các văn bản dưới luật quy định về
nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà
nước ở trung ương, địa phương để xem xét,
đánh giá về sự hợp lý hay không hợp lý của
những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của
các cơ quan nhà nước; về phân quyền, phân
cấp cho CQĐP được quy định trong các luật,
văn bản QPPL dưới luật chuyên ngành. Để
phân quyền, phân cấp một cách hợp lý, khoa
học, bảo đảm sự thống nhất trong phân
quyền, phân cấp, tiến tới cần ban hành Luật
về phân quyền, phân cấp, trong đó cần quy
định những nguyên tắc phân quyền, phân
cấp; những vấn đề nào không được phân
quyền, phân cấp; những vấn đề nào cần
được phân quyền, phân cấp cho CQĐP.
Ba là, cần đánh giá tình hình thực tiễn,
nguồn lực, khả năng của địa phương để phân
quyền, phân cấp một cách hợp lý. Khi tiến
hành phân quyền, phân cấp, cần tránh cả hai
xu hướng, một là không dám phân quyền,
phân cấp cho CQĐP vì cho rằng CQĐP
không có khả năng thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn được phân quyền, phân cấp; hai
là phân cấp, phân quyền “tràn lan, cào bằng”
mà không tính đến khả năng, điều kiện các
nguồn lực của địa phương để thực hiện các
nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền,
phân cấp. Điều này có nghĩa là, phân quyền,
phân cấp phải có sự phân hóa giữa CQĐP ở
đô thị và nông thôn, có những vấn đề phân
quyền, phân cấp cho chính quyền đô thị, mà
không phân quyền, phân cấp cho chính
quyền ở nông thôn, và ngược lại, có những
vấn đề cần phân quyền và phân cấp cho
chính quyền ở đô thị và nông thôn, có những
vấn đề phân quyền, phân cấp cho chính
quyền nông thôn đồng bằng, mà không phân
quyền, phân cấp cho CQĐP ở miền núi, hải
đảo và ngược lại. Nói ngắn gọn, việc phân
quyền, phân cấp cần được tính toán một
cách khoa học phù hợp với từng loại CQĐP
nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
để tránh tình trạng: CQĐP muốn được phân
quyền, phân cấp, nhưng lại không được
phân quyền, phân cấp, nhưng có những vấn
đề không muốn được phân cấp, phân quyền
vì không có khả năng thực hiện, nhưng lại
được phân quyền, phân cấp.
Bốn là, cần coi ủy quyền là tiền đề
thực nghiệm cho phân cấp quản lý; phân cấp
là tiền đề, là thực nghiệm để dẫn đến phân
quyền cho CQĐP. Ở đây có sự chuẩn bị và
chiêm nghiệm trong thực tiễn quản lý nhà
nước từ thấp đến cao nhằm nâng cao hiệu
quả của quản lý nhà nước.
Năm là, khi phân quyền, phân cấp cần
tính đến khả năng thực hiện hoạt động kiểm
tra, giám sát của chính quyền trung ương đối
với CQĐP, giữa chủ thể phân quyền, phân
cấp và đối tượng được phân quyền, phân cấp
để đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống
quản lý nhà nước, trong quản lý nhà nước,
pháp chế và kỷ luật n
9
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 05(333) T3/2017
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phan_cong_thuc_thi_quyen_luc_nha_nuoc_va_phan_cap_trong_hien.pdf