Tình trạng mắc bệnh Thalassemia theo
tuổi và giới
Thalassemia là một trong những bệnh di
truyền thường gặp nhất trên thế giới. Tại Việt
Nam mỗi năm có khoảng trên 8000 trẻ sinh ra
mắc bệnh Thalassemia, hiện nước ta có khoảng
12 triệu người mang gen bệnh Thalassemia.
Bệnh gặp ở mọi lứa tuổi nhưng trẻ em chiếm tỷ
lệ cao. Nghiên cứu trên 287 trẻ tại BV Nhi Trung
ương, chúng tôi nhận thấy: tuổi mắc bệnh trung
bình là 3,3 ± 1,1 tuổi. Tỷ lệ mắc bệnh thalassemia
gặp nhiều ở trẻ < 5 tuổi chiếm tỷ lệ 73,9%, gặp
ít nhất ở trẻ >10 tuổi. Theo Đỗ Thị Quỳnh Mai
(2010), nghiên cứu ở trẻ mắc Thalassemia tại
Bệnh viện trẻ em Hải Phòng ghi nhận tuổi mắc
bệnh trung bình là 5,8 ± 3,5 tuổi [8]. Nghiên cứu
của Sarmi Palit trên 53 bệnh nhân tại huyện
Chittagong Bangladesh độ tuổi trung bình là
6,4 ± 2,6 tuổi[9]. Nghiên cứu 37 trẻ mắc bệnh
Thalassemia tại Bệnh viện Trung ương Huế,
Phan Hùng Việt ghi nhận tuổi mắc bệnh trung
bình là 8 ± 4,1, tần suất mắc bệnh nam và nữ là
ngang nhau [10]. Nghiên cứu của Bùi Văn Viên,
Phạm Thị Thuận (2009) ở bệnh nhi Thalassemia
tại khoa Huyết học Bệnh viện Nhi Trung ương,
tuổi trung bình trong nghiên cứu là 7,54 ± 4,46
tuổi [11]. Từ những kết quả trên cho thấy tuổi
mắc bệnh của trẻ trong nghiên cứu của chúng
tôi thấp hơn so với các nghiên cứu khác.
Tỷ lệ mắc bệnh Thalassemia trong nghiên cứu
của chúng tôi gặp ở trẻ nam nhiều hơn trẻ nữ
(54,3% và 45,7%), tần suất nam: nữ là 1,2:1 (Bảng
1). Kết quả này tương tự như kết quả nghiên cứu
của Nguyễn Công Khanh và Dương Bá Trực trên
217 trẻ tại Bệnh viện Nhi Trung ương năm 1981 -
1985, cho thấy tỷ lệ nam: nữ là 1,13:1 [7]. Còn trong
nghiên cứu của Đỗ Thị Quỳnh Mai lại ghi nhận tỷ lệ
trẻ trai mắc Thalassemia thấp hơn trẻ gái (1/1,07)
[8]. Không có sự khác biệt về tỷ lệ mắc Thalassemia
theo giới tính được ghi nhận trong một nghiên cứu
trên 315 trẻ tại Thái Lan của Montarat T (1,02/1). Sự
khác biệt về giới tính ở các nghiên cứu là không
đáng kể, điều này phù hợp với cơ chế di truyền của
bệnh Thalassemia là bệnh di truyền gen lặn trên
nhiễm sắc thể thường.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 30 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân loại Thalassemia ở trẻ em tại bệnh viện Nhi trung ương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tạp chí nhi khoa 2019, 12, 4
58
PHÂN LOẠI THALASSEMIA Ở TRẺ EM TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Khamkhanxay Mangnomek1, Nguyễn Thị Yến1,
Lê Thị Lan Hương1, Nguyễn Thị Mai Hương2
1Trường Đại học Y Hà Nội;
2Khoa Huyết học lâm sàng, Bệnh viện Nhi Trung ương
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả thực trạng bệnh nhân Thalassemia đến khám và theo dõi tại khoa Huyết học
lâm sàng, Bệnh viện Nhi Trung ương.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 287 bệnh nhân.
Kết quả: Tần suất mắc bệnh giữa nam và nữ là 1,2:1; độ tuổi có tỷ lệ mắc bệnh cao nhất là
dưới 5 tuổi chiếm 73,9%. Thể β-thalassemia chiếm 42,8%, E/β thalassemia chiếm 35,6% và
α-thalassemia chiếm 21,6%. Trên 80% là mức độ nhẹ và trung gian còn mức độ nặng phụ thuộc
truyền máu chiếm 16,7%. Thể bệnh β-thalassemia có tỷ lệ phụ thuộc truyền máu cao nhất chiếm
60,4%, E/β thalassemia chiếm 22,9% và α-thalassemia chiếm 16,7%.
Từ khoá: Thalassemia, trẻ em, truyền máu.
ABSTRACT
CLASSIfICATION THALASSEMIA ACCORdING TO THE SEVERITY,
dEPENdENT OR NON-dEPENdENT BLOOd TRANSfUSIONS
Objective: Describe the current situation Thalassemia patients to examination and monitoring in
Clinical Hematology Department, at the Vietnam National Children’s Hospital.
Methods: cross-sectional descriptive study on 287 patients.
Results: The frequency of the disease between boy and girl is 1,2:1, encounter rate below 5 years
old accounts for the highest of 73.9%. Accounting to the disease, β-thalassemia accounted for 42.8%,
E/β thalassemia accounted for 35.6% and α-thalassemia accounted for 21.6%. Over 80% is a mild and
intermediate, the major level depend blood transfusions accounted for 16.7%. β-thalassemia with the
highest rate of transfusion dependence accounted for 60.4%, E/β thalassemia accounted for 22.9%
and α-thalassemia accounted for 16.7%.
Keyword: Thalassemia, children, blood transfusion.
Nhận bài: 2-7-2019; Thẩm định: 5-8-2019; Chấp nhận: 15-8-2019
Người chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Thị Yến
Địa chỉ: Bộ môn Nhi, Đại học Y Hà Nội
59
phần nghiên cứu
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh rối loạn huyết sắc tố ảnh hưởng tới sức
khỏe ở 71% của 229 quốc gia trên thế giới. Hơn
330.000 trẻ sơ sinh bị rối loạn Hb được sinh ra
hàng năm trong đó 83% bệnh tế bào hình liềm,
17% thalassaemias [1]. Thalassemia là bệnh lý
huyết học di truyền phổ biến nhất trên thế giới.
Bệnh di truyền lặn trên nhiễm sắc thể thường.
Ước tính trên thế giới hiện có khoảng 7% dân
số mang gen bệnh; 1,1% các cặp vợ chồng có
nguy cơ sinh con bị bệnh; 0,27% trường hợp có
thai sinh ra con bị bệnh HST; mỗi năm có khoảng
300.000 - 500.000 trẻ sinh ra bị bệnh Thalassemia
mức độ nặng [1]. Bệnh phân bố khắp toàn cầu, tỷ
lệ cao ở vùng Địa Trung Hải, Trung Đông, châu Á -
Thái Bình Dương trong đó Việt Nam là một trong
những nước có tỷ lệ mắc bệnh và mang gen bệnh
cao. Mức độ phổ biến của bệnh tùy thuộc vào
từng quốc gia, từng khu vực. Hiện nay, nhờ tiến
bộ của công nghệ sinh học phân tử, các nhà khoa
học đã phát hiện hầu hết các đột biến gen gây
bệnh Thalassemia.
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu
đều thống nhất bệnh Hb phát hiện thấy là
α-thalassemia, β-thalassemia và HbE trong đó
β-thalassemia là bệnh di truyền phổ biến. Những
bệnh này phổ biến ở tất cả các tỉnh và các dân tộc
trong cả nước [2], [3].
Theo kết quả bước đầu khảo sát tình trạng
mang gen bệnh Thalassemia trên toàn quốc năm
2017, Việt Nam có khoảng trên 12 triệu người
mang gen bệnh. Người bị bệnh và mang gen
bệnh có ở tất cả các tỉnh/thành phố, ở tất cả các
dân tộc trên toàn quốc đặc biệt đồng bào dân
tộc có tỷ lệ mang gen và mắc bệnh khá cao. Hiện
nay, có trên 20.000 người bị Thalassemia cần phải
điều trị cả đời và mỗi năm có thêm khoảng 8.000
trẻ em sinh ra bị bệnh Thalassemia, trong đó có
khoảng 2.000 trẻ bị bệnh mức độ nặng [4].
Thalassemia là bệnh di truyền không thể chữa
khỏi được, vì vậy tư vấn di truyền để phòng bệnh
là rất quan trọng. Bệnh nhân Thalassemia có thể
có chất lượng cuộc sống tốt nếu như được điều trị
và theo dõi thường xuyên. Bệnh thalassemia có
nhiều cách phân loại như dựa vào mức độ nặng
nhẹ, có phụ thuộc truyền máu hay không phụ
thuộc truyền máu. Hàng năm các nghiên cứu về
bệnh cần phải cập nhật mới chính vì vậy chúng
tôi thực hiện nghiên cứu nhằm mục tiêu: Phân
loại thalassemia theo mức độ nặng nhẹ, phụ thuộc
và không phụ thuộc truyền máu ở trẻ em Bệnh viện
Nhi Trung ương..
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu: gồm 287 bệnh nhân
được chẩn đoán bệnh Thalassemia, điều trị và
theo dõi bệnh tại khoa Huyết học lâm sàng Bệnh
viện (BV) Nhi Trung ương (TƯ) từ ngày 1/11/2016
- 30/12/2018.
2.2. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu theo
phương pháp mô tả cắt ngang.
2.3. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu: Cỡ mẫu thuận
tiện, chọn tất cả các bệnh nhân đến khám và được
chẩn đoán mắc bệnh Thalassemia.
2.4. Phương pháp thu thập số liệu: Phòng vấn,
khám bệnh và tra cứu dữ liệu trong bệnh án của
khoa Huyết học lâm sàng, BV Nhi TƯ.
2.5. Biến số nghiên cứu
- Thể bệnh được phân loại dựa trên kết quả
điện di huyết sắc tố như sau [5], [6].
+ Thể bệnh α-thalassemia: HbA1 bình thường
hoặc giảm, HbH, có hoặc không Hb CS/PS. Thể
nặng có Hb Bart’s.
+ Thể bệnh β-thalassemia: HbA1 giảm, HbF
tăng hoặc HbA2 tăng. Thể nặng HbF tăng cao,
HbA2 tăng, HbA1 giảm hoặc không có.
+ Thể E/β-thalassemia: có HbE, có HbF, HbA1
giảm hoặc không có.
tạp chí nhi khoa 2019, 12, 4
60
- Hiện nay, dựa trên biểu hiện lâm sàng và
nhu cầu truyền máu, thalassemia được phân loại
thành 2 nhóm [5], [6]:
+ Nhóm phụ thuộc truyền máu: bệnh nhân
cần phải truyền máu thường xuyên để duy
trì sự sống, thường có biến chứng nặng. Gồm
β-thalassemia thể nặng, HbE/β-thalassemia thể
nặng và α-thalassemia thể nặng (Hb Bart’s).
+ Nhóm không phụ thuộc truyền máu: bệnh
nhân không cần truyền máu thường xuyên, chỉ
cần truyền máu trong một số trường hợp hoặc
trong một khoảng thời gian nhất định, đó là các
thể trung gian và thể nhẹ.
2.6. Phương pháp xử lý số liệu: Số liệu thu thập
được thống kê bằng phần mềm SPSS 2.0, Exell và
được xử lý bằng các thuật toán sử dụng trong y học.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu 287 bệnh nhân được chẩn đoán
Thalassemia tại khoa Huyết học lâm sàng BV Nhi
TƯ từ ngày 1/11/2016 – 30/12/2018, chúng tôi
thu được kết quả sau:
Bảng 1. Phân bố bệnh nhân theo tuổi và giới.
Nam Nữ Tổng
Tuổi n % n % n %
< 5 114 53,7 98 46,2 212 73,9
5 – 10 30 55,5 24 44,4 54 18,8
≥ 10 12 57,1 9 42,8 21 7,3
Tổng 156 54,3 131 45,7 287 100,0
Tỷ lệ mắc bệnh Thalassemia ở trẻ nam (54,3%) lớn hơn trẻ nữ (45,7%). Tỷ lệ nam : nữ là 1,2:1. Tuổi
trung bình là 3,3 ± 1,1 tuổi. Tỷ lệ mắc bệnh giảm dần theo tuổi. Lứa tuổi gặp nhiều nhất là < 5 tuổi
(73,9%), ít gặp nhất là ≥ 10 tuổi (7,3%).
Biểu đồ1. Phân bố bệnh theo dân tộc
Bệnh gặp ở trẻ người dân tộc Kinh chiếm tỷ lệ cao nhất 57,1%, dân tộc Thái 13,9%, Mường 10,5%,
Tày chiếm 9,8%, dân tộc Nùng chiếm tỷ lệ thấp nhất 5,9 %.
61
phần nghiên cứu
Bảng 2. Phân loại bệnh Thalassemia theo thể và mức độ bệnh
Thể bệnh
Mức độ bệnh
Tổng P
Nhẹ Trung gian Nặng
n % n % n % N %
<0,05
α-thalassemia 6 9,7 48 77,4 8 12,9 62 21,6
β-thalassemia 48 39,0 46 37,4 29 23,6 123 42,8
E/β-thalassemia 54 52,9 37 36,3 11 10,8 102 35,6
Tổng 108 37,6 131 45,6 48 16,7 287 100,0
Thể β-thalassemia có tỷ lệ mắc (42,8%) và tỷ lệ bệnh nặng cao nhất (23,6%).
Thể E/β-thalassemia chiếm 35,6%, hầu hết (90%) biểu hiện nhẹ và trung gian.
Thể α-thalassemia có tỉ lệ mắc thấp nhất, 87,1 % ở mức độ trung gian và nhẹ.
Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Bảng 3. Phụ thuộc và không phụ thuộc truyền máu theo thể bệnh
α-thalassemia β-thalassemia E/β-thalassemia Tổng
(n= 62) (n= 123) (n= 102) (n= 287)
Phụ thuộc TM 8 (16,7 %) 29 (60,4 %) 11 (22,9 %) 48 (16,7 %)
Không phụ thuộc TM 54 (22,6 %) 94 (39,3 %) 91 (38,1 %) 239 (83,3 %)
Có 48/ 287 bệnh nhân phụ thuộc truyền máu (chiếm 16,7%), trong đó thể β-thalassemia gặp tỷ
lệ cao nhất 60,4%, E/β-thalassemia 22,9% và α-thalassemia thấp nhất 16,7%. Sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p < 0,05.
4. BÀN LUẬN
4.1. Tình trạng mắc bệnh Thalassemia theo
tuổi và giới
Thalassemia là một trong những bệnh di
truyền thường gặp nhất trên thế giới. Tại Việt
Nam mỗi năm có khoảng trên 8000 trẻ sinh ra
mắc bệnh Thalassemia, hiện nước ta có khoảng
12 triệu người mang gen bệnh Thalassemia.
Bệnh gặp ở mọi lứa tuổi nhưng trẻ em chiếm tỷ
lệ cao. Nghiên cứu trên 287 trẻ tại BV Nhi Trung
ương, chúng tôi nhận thấy: tuổi mắc bệnh trung
bình là 3,3 ± 1,1 tuổi. Tỷ lệ mắc bệnh thalassemia
gặp nhiều ở trẻ < 5 tuổi chiếm tỷ lệ 73,9%, gặp
ít nhất ở trẻ >10 tuổi. Theo Đỗ Thị Quỳnh Mai
(2010), nghiên cứu ở trẻ mắc Thalassemia tại
Bệnh viện trẻ em Hải Phòng ghi nhận tuổi mắc
bệnh trung bình là 5,8 ± 3,5 tuổi [8]. Nghiên cứu
của Sarmi Palit trên 53 bệnh nhân tại huyện
Chittagong Bangladesh độ tuổi trung bình là
6,4 ± 2,6 tuổi[9]. Nghiên cứu 37 trẻ mắc bệnh
Thalassemia tại Bệnh viện Trung ương Huế,
Phan Hùng Việt ghi nhận tuổi mắc bệnh trung
bình là 8 ± 4,1, tần suất mắc bệnh nam và nữ là
ngang nhau [10]. Nghiên cứu của Bùi Văn Viên,
Phạm Thị Thuận (2009) ở bệnh nhi Thalassemia
tại khoa Huyết học Bệnh viện Nhi Trung ương,
tuổi trung bình trong nghiên cứu là 7,54 ± 4,46
tuổi [11]. Từ những kết quả trên cho thấy tuổi
mắc bệnh của trẻ trong nghiên cứu của chúng
tôi thấp hơn so với các nghiên cứu khác.
Tỷ lệ mắc bệnh Thalassemia trong nghiên cứu
của chúng tôi gặp ở trẻ nam nhiều hơn trẻ nữ
tạp chí nhi khoa 2019, 12, 4
62
(54,3% và 45,7%), tần suất nam: nữ là 1,2:1 (Bảng
1). Kết quả này tương tự như kết quả nghiên cứu
của Nguyễn Công Khanh và Dương Bá Trực trên
217 trẻ tại Bệnh viện Nhi Trung ương năm 1981 -
1985, cho thấy tỷ lệ nam: nữ là 1,13:1 [7]. Còn trong
nghiên cứu của Đỗ Thị Quỳnh Mai lại ghi nhận tỷ lệ
trẻ trai mắc Thalassemia thấp hơn trẻ gái (1/1,07)
[8]. Không có sự khác biệt về tỷ lệ mắc Thalassemia
theo giới tính được ghi nhận trong một nghiên cứu
trên 315 trẻ tại Thái Lan của Montarat T (1,02/1). Sự
khác biệt về giới tính ở các nghiên cứu là không
đáng kể, điều này phù hợp với cơ chế di truyền của
bệnh Thalassemia là bệnh di truyền gen lặn trên
nhiễm sắc thể thường.
4.2. Tình trạng mắc bệnh Thalassemia theo
dân tộc
Thalassemia là bệnh phổ biến ở khắp các
tỉnh trên cả nước, các tỉnh cao nguyên, miền
núi phổ biến hơn các tỉnh đồng bằng [3]. Trong
nghiên cứu của chúng tôi trẻ là người dân tộc
kinh chiếm tỷ lệ cao nhất 57,1%, Thái 13,9%,
Mường 10,5%, Tày 9,8% và Nùng 5,9% (biểu đồ 1).
Nghiên cứu của Nguyễn Công Khanh, Dương Bá
Trực cho thấy 67,8% là dân tộc kinh và 32,2% là
dân tộc ít người [7].
4.3. Phân loại thalassemia theo thể bệnh
Nghiên cứu 101 trẻ thiếu máu sống ở Metro
Manila, Philippin, Capanzana M.V và cộng sự [12]
nhận thấy nguyên nhân cơ bản thường gặp nhất
của thiếu máu là thiếu sắt (37,6%), sau đó là thiếu
máu do các nguyên nhân khác (34,7%) và bệnh
huyết sắc tố (27,8%). Thể bệnh phổ biến nhất của
bệnh huyết sắc tố là α-thalassemia (20,8%), tiếp
theo là beta thalassemia (5%), thiếu máu do thiếu
sắt với HbE đồng thời (1%) và β-thalassemia/HbE
(1%). Kết quả nghiên cứu cho thấy Thalassemia
là bệnh khá phổ biến gây thiếu máu ở trẻ em.
Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận trong các thể
thalassemia thì thể β-thalassemia có tỷ lệ cao
nhất chiếm 42,8%, E/β-thalassemia chiếm 35,6%,
α-thalassemia chiếm tỷ lệ thấp nhất 21,6%. Trên
80% bệnh nhân nghiên cứu ở mức độ nhẹ và trung
gian, thể nặng chiếm 16,7%. Thể α-thalassemia
chiếm tỷ lệ cao nhất ở mức độ trung gian 77,4%,
β-thalassemia mức độ nặng chiếm tỷ lệ cao nhất
là 23,6% và 90% E/β-thalassemia ở mức độ nhẹ
và trung gian (Bảng 2). Nghiên cứu 37 trẻ mắc
bệnh Thalassemia tại BV Trung ương Huế, Phan
Hùng Việt nhận thấy E/β-thalassemia có tỷ lệ cao
nhất chiếm 54,1%, β-thalassemia chiếm 29,7%,
α-thalassemia chiếm tỷ lệ thấp nhất 16,2% [10].
Nghiên cứu của Bùi Văn Viên và Phạm Thị Thuận cho
thấy tỷ lệ bệnh HbE/β-thalassemia, β-thalassemia
và α-thalassemia ở nhóm bệnh nhân truyền máu
ngoại trú tại Bệnh viện Nhi Trung ương lần lượt là
56,7%, 29,6% và 14,7% [11].
4.4. Phân loại phụ thuộc truyền máu và không
phụ thuộc truyền máu.
287 trẻ trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi
được phân làm 2 nhóm là nhóm phụ thuộc truyền
máu và không phụ thuộc truyền máu. Nhóm phụ
thuộc truyền máu có 48 bệnh nhân (chiếm tỷ lệ
16,7%), trong đó thể bệnh β-thalassemia chiếm tỷ
lệ cao nhất 60,4%, E/β-thalassemia chiếm 22,9%
và α-thalassemia chiếm 16,7% (Bảng 3). Nhóm
không phụ thuộc truyền máu có 239 trẻ gồm
β-thalassemia chiếm 39,3%, HbE/β-thalassemia
chiếm 38,1% và α-thalassemia 22,6%. Theo Nguyễn
Thu Hà nghiên cứu trên 211 trẻ tại Bệnh viện Nhi
trung ương năm 2016 - 2017 có 34,6% phụ thuộc
truyền máu bao gồm β-thalassemia và HbE/
β-thalassemia. Nhóm không phụ thuộc truyền
máu chiếm 65,4% [13].
5. KẾT LUẬN
Tần suất mắc bệnh Thalassemia giữa nam và
nữ là 1,2:1; độ tuổi có tỷ lệ mắc bệnh cao nhất
là dưới 5 tuổi chiếm 73,9%, tuổi trung bình
mắc bệnh là 3,3 ± 1,1 tuổi. Thể β-thalassemia
63
phần nghiên cứu
chiếm 42,8%, E/β-thalassemia chiếm 35,6% và
α-thalassemia chiếm 21,6%.
Trên 80% là mức độ nhẹ và trung gian còn
mức độ nặng phụ thuộc truyền máu chỉ chiếm
16,7% trong đó thể bệnh β-thalassemia có tỷ lệ
phụ thuộc truyền máu cao nhất chiếm 60,4%,
E/β-thalassemia chiếm 22,9% và α-thalassemia
chiếm 16,7%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Modell B. and darlison M. (2008). Global
epidemiology of haemoglobin disorders and
derived service indicators. Bull World Health
Organ, 86(6), 480-487.
2. Nguyễn Công Khanh (2008), Thalassemia -
Huyết học lâm sàng nhi khoa, xuất bản lần 2, Nhà
xuất bản Y học, 132-146.
3. Nguyễn Công Khanh (1993), “Tần số bệnh
Hemoglobin ở Việt Nam”, Tạp chí Y học Việt Nam,
tập 174. 8. 11-16.
4. https://moh.gov.vn/tin-noi-bat/-/asset_pub-
lisher/hwUjUacn23Hf/content/hoi-nghi-khoa-hoc-
ve-thalassemia-toan-quoc-lan-thu-iii (26/4/2019)
Hội nghị khoa học về Thalassemia toàn quốc lần
thứ 3, Hà Nội.
5. Brancaleoni V., Pierro E.d., Motta I., et al.
(2016). Laboratory diagnosis of thalassemia. Int J
Lab Hematol, 38(S1), 32-40.
6. Vip Viprakasit, Supachai Ekwattanakit
(2018), Clinical classification, screening and
diagnosis for thalassemia, Hematol oncol clin N
Am, 32, 193-211.
7. Nguyễn Công Khanh, dương Bá Trực, Lý
Tuyết Minh và CS (1987), “Sự lưu hành bệnh
huyết sắc tố ở một số dân tộc miền Bắc”. Y học
Việt Nam 4, 9-15.
8. Đỗ Thị Quỳnh Mai (2010), “Nghiên cứu thực
trạng bệnh Thalassemia ở Bệnh viện trẻ em Hải
Phòng”, luận văn thạc sĩ y khoa.
9, Palit S., Bhuiyan R.H., Aklima J., et al. (2012).
A study of the prevalence of thalassemia and its
correlation with liver function test in different
age and sex group in the Chittagong district of
Bangladesh. J Basic Clin Pharm, 3(4), 352-357.
10. Phan Hùng Việt (2016), ”Nghiên cứu đặc
điểm lâm sàng, xét nghiệm bệnh Thalassemia ở
trẻ em tại khoa Nhi Bệnh viện Trung ương Huế”
Tạp chí Y Dược học - ĐH Y Dược Huế, tập 6 (05),
104 - 111.
11. Bùi Văn Viên, Phạm Thị Thuận (2009),
“Nghiên cứu thực trạng truyền máu cho bệnh
nhân thalassemia tại Bệnh viện Nhi Trung ương ”,
Tạp chí y học Việt Nam, 373, 469-475.
12. Capanzana M.V., L Mirasol M.A., Smith G., et al.
(2018). Thalassemia and other hemoglobinopathies
among anemic individuals in Metro Manila,
Philippines and their intake of iron supplements.
Asia Pac J Clin Nutr, 27(3), 519-526.
13. Nguyễn Thu Hà (2017), “Nghiên cứu áp
dụng phân loại bệnh Thalassemia trẻ em theo
Liên đoàn Thalassemia Quốc tế (TIF) tại Bệnh viện
Nhi Trung ương”. Luận văn tốt nghiệp bác sĩ nội
trú, Đại học Y Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
phan_loai_thalassemia_o_tre_em_tai_benh_vien_nhi_trung_uong.pdf