Về biến chứng muộn xảy ra trong thời gian
theo dõi từ 1 – 4 năm, trong 176 trường hợp
được theo dõi từ 1 – 4 năm, các trường hợp
BPTNMT và/hoặc có kết hợp với lao phổi cũ xơ
hang, thường có biểu hiện khó thở khi gắng sức
nên rất khó đánh giá dấu hiệu khó thở như là
một biến chứng sau LDMP bằng talc. Chúng tôi
chỉ ghi nhận được 15 trường hợp TKMPTP
nguyên phát có cảm giác khó thở khi gắng sức
nhiều và hết cảm giác khó thở khi nghĩ ngơi.
Ngoài ra, 75 trường hợp (42,61%) có biểu hiện
đau ngực nhẹ xảy ra khi gắng sức, khi làm việc
nặng nhưng không ảnh hưởng đáng kể đến sinh
hoạt và lao động hàng ngày của bệnh nhân.
Triệu chứng này cải thiện nhanh chóng khi dùng
thuốc giảm đau thông thường. Ngoài ra, có 16
trường hợp (15,7%) tử vong được tính cộng dồn
trong thời gian theo dõi từ 1 – 4 năm. Đa số các
trường hợp này tử vong do bệnh lý phổi cơ bản
(ung thư phổi, BPTNMT và lao phổi cũ xơ hang)
và do tuổi thọ cao (trên 78 tuổi) là chủ yếu.
Nguyên nhân gây tử vong không liên quan đến
LDMP bằng talc. Theo y văn(1-5), tỉ lệ tử vong do
TKMPTP là 15% – 20% ở bệnh nhân BPTNMT
và TKMPTP xảy ra trên bệnh nhân BPTNMT
được xem là tiên lượng xấu. Mặt khác, chúng tôi
không ghi nhận trường hợp nào biến chứng
muộn khác xảy ra trong suốt thời gian theo dõi 1
– 4 năm sau LDMP bằng talc.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 169 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích biến chứng và tỉ lệ tái phát tràn khí màng phổi sau làm dính màng phổi bằng Talc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 1
PHÂN TÍCH BIẾN CHỨNG VÀ TỈ LỆ TÁI PHÁT TRÀN KHÍ
MÀNG PHỔI SAU LÀM DÍNH MÀNG PHỔI BẰNG TALC
Ngô Thanh Bình*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Phân tích các biến chứng sau làm dính màng phổi bằng bơm talc qua ống dẫn lưu ngực trong
điều trị tràn khí màng phổi tự phát (TKMPTP) biến chứng.
Phương pháp nghiên cứu: Thực nghiệm can thiệp điều trị lâm sàng
Kết quả: Từ 01/2002 đến 12/2006, có 197 trường hợp TKMPTP biến chứng (gồm 74 TKMPTP nguyên
phát và 123 TKMPTP thứ phát). Có 174 trường hợp nam và 23 trường hợp nữ. Tuổi trung bình là 51,83 (từ 17
– 85 tuổi). Phần lớn TKMPTP nguyên phát xảy ra ở lứa tuổi dưới 40 tuổi và ngược lại, TKMPTP thứ phát xảy
ra ở lứa tuổi trên 40 tuổi. TKMPTP tái phát gặp nhiều hơn TKMPTP lần đầu tiên nhưng không đáp ứng với đặt
ODLMP (thời gian đặt ODLMP kéo dài quá 7 – 10 ngày) (81,73% so với 18,27%). Tỉ lệ thành công của LDMP
bằng talc qua ODLMP (tính đến thời điểm xuất viện) là 95,94% với thời gian trung bình lưu ODLMP là 3,34
ngày (giới hạn từ 1 – 21 ngày). Ba biến chứng sớm là đau ngực (53,81%), sốt (26,9%) (xảy ra ngay trong vòng 4
giờ đầu tiên) và ho khan (29,95%) (xảy ra trong khoảng 4 – 12 giờ) sau bơm talc màng phổi. Ngoài ra, có 3
trường hợp mủ màng phổi nhưng đáp ứng tốt với điều trị kháng sinh. Sau thời gian theo dõi từ 1 – 4 năm, tỉ lệ
TKMP tái phát là 9,09% và biến chứng muộn là đau ngực nhẹ (42,61%) và khó thở nhẹ (chỉ xảy ra khi gắng sức
nhưng không ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động hàng ngày). Không trường hợp tử vong nào có liên quan đến
nguyên nhân gây ra do talc. Đồng thời, không có xảy ra những biến chứng trầm trọng (suy hô hấp cấp, tụt huyết
áp,) trong thời gian theo dõi sau LDMP bằng talc.
Kết luận: Làm dày dính màng phổi bằng talc qua ODLMP có hiệu quả, an toàn và ít biến chứng trong điều
trị TKMPTP biến chứng.
ABSTRACT
ANALYSIS OF COMPLICATIONS AFTER PLEURODESIS BY TALC THROUGH CHEST TUBE
IN THE TREATMENT OF COMPLICATED SPONTANEOUS PNEUMOTHORAX
Ngo Thanh Binh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - Supplement of No 4 - 2008: 146 - 151
Objective: to analyse complications after pleurodesis by talc through chest tube in the treatment of
complicated spontaneous pneumothorax (CSP).
Method: Clinical experimental study.
Result: From 01/2002 to 12/2006, there were 179 cases of CSP (included 74 primary SP and 123 secondary
SP). There were 174 male and 23 female patients. The average age was 51.83 (range, 21 to 85). Primary SP often
occurred in age group under 40, and on the contrary, secondary SP occurred in age group over 40. Recurrent SP
occurred more than first SP (which didn’t response with chest drainage; time for chest drainage lasted over 7 – 10
days) (81.73% % versus 18.27%). Rate of success of talc pleurodesis at discharged time was 95.94%, with an
average duration of drainage chest tube was 3.34 days (range, 1 to 21). Three early complicated signs were chest
pain (53.81%), fever (26.9%) (occurred in the first four- hour time) and cough (29.95%) (occurred in a 4 – 12
hour time) after talc pleurodesis. Besides, there were 3 cases of empyema but they had good responses to antibiotic
therapies. After monitoring in 1-4 year period, rate of recurrent pneumothorax was 9.09% and lately
complication was light chest pain (42.61%) and light dyspnea (only occurred after excessive actions but they
* Bộ Môn Lao và Bệnh phổi – Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 2
didn’t influence patient’s activities significantly). The causes of death were unrelated to the pleurodesis.
Simultaneously, we haven’t detected orther severe complications (acute respiratory failure, hypotension,) in the
follow-up after talc pleurodesis.
Conclusion: Pleurodesis by talc through chest drainage tube was high effective, safe and low complicative in
the treatment of CSP.
ĐẶT VẤN ĐỀ:
Tràn khí màng phổi tự phát biến chứng bao gồm
những trường hợp TKMPTP tái phát và những
trường hợp TKMPTP lần đầu tiên nhưng không
đáp ứng với điều trị đặt ống dẫn lưu màng phổi
(ODLMP) (thời gian đặt ống dẫn lưu kéo dài quá
7 – 10 ngày(5,10). Trong y văn, làm dính màng
phổi (LDMP) bằng talc là một trong số các
phương pháp LDMP bằng hóa chất, đã được
ứng dụng ở nhiều nước như Mỹ, Anh và các nơi
khác trên thế giới(1-3,5,8,10). Tại Việt nam, chưa có
nhiều nghiên cứu LDMP bằng bơm talc qua
ODLMP trong điều trị TKMPTP. Chính vì vậy,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu phân tích các
biến chứng xảy ra sau khi LDMP bằng bơm
dung dịch talc qua ODLMP trong điều trị
TKMPTP biến chứng.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các bệnh nhân TKMPTP tái phát và
những trường hợp TKMPTP lần đầu tiên nhưng
không đáp ứng với điều trị đặt ODLMP (thời
gian đặt ống dẫn lưu kéo dài quá 7 – 10 ngày) sẽ
được bơm dung dịch talc qua ODLMP để LDMP
từ 01/2002 đến 12/2006 tại bệnh viện Phạm Ngọc
Thạch và được theo dõi tiếp về hiệu quả điều trị,
biến chứng và tỉ lệ tái phát trong vòng từ 1 đến 4
năm theo kiểu cuốn chiếu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân có tiền sử hoặc đang mắc các
bệnh lý nặng sau: nhồi máu cơ tim, rối loạn
nhịp tim; suy thận, suy gan cấp và mạn; rối
loạn thăng bằng kiềm toan; rối loạn đông máu;
nhiễm HIV/AIDS; tiền sử dị ứng với thuốc tê,
hóa chất.
Loại hình nghiên cứu
Thực nghiệm điều trị can thiệp lâm sàng
Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Chuẩn bị bệnh nhân và dung dịch talc trước
khi tiến hành bơm vào khoang màng phổi
Tất cả bệnh nhân đều đã được đặt ODLMP
để giải thoát hết khí trong khoang màng phổi
(KMP) và có đủ điều kiện trước khi được điều trị
LDMP bằng talc như cải thiện triệu chứng lâm
sàng (hết đau ngực, hết khó thở) và hết TKMP
trên X-quang phổi thẳng.
Giải thích cho bệnh nhân rõ ràng về tình
trạng bệnh và phương pháp điều trị. Đo dấu
hiệu sinh tồn. Chụp X-quang phổi thẳng kiểm
tra và lấy khí máu động mạch. Tiền mê (tiêm
dưới da 0,25 – 0,5 mg Atropin; và uống 5 – 10
mg Diazepam) 30 phút trước khi thực hiện
thủ thuật.
Bột talc được sử dụng có nguồn gốc sản
xuất từ Pháp có độ tinh khiết cao, không chứa
amiăng, được dùng trong ngành y tế. Liều bột
talc dùng để LDMP là 2g, được tiệt trùng ở
nhiệt độ cao 1360C trong 6 – 8 giờ. Sau đó, pha
loãng bột talc với 50 ml nước muối sinh lý
thành dung dịch talc, được đựng trong ống
tiêm loại 50 ml, và được lắc cho thật đều trước
khi bơm vào KMP.
Các bước tiến hành bơm dung dịch talc vào
khoang màng phổi
Sau khi nhu mô phổi nở hoàn toàn, bệnh
nhân được bơm 100 mg lidocaine2% qua
ODLMP.
15 phút sau, bơm từ từ 50 ml dung dịch talc
qua ODL vào KMP. Kẹp ODL khoảng 1 – 2 giờ,
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 3
chỉ dẫn bệnh nhân xoay đổi tư thế mỗi 15 phút
để dung dịch talc tráng đều khắp bề mặt màng
phổi. Sau đó mở ODLMP trong 24 giờ.
Các bước theo dõi sau bơm dung dịch talc
LDMP
Ghi nhận các dấu hiệu của biến chứng sớm
(sốt, đau ngực, ho, khó thở). Theo dõi dấu
hiệu sinh tồn ngay sau khi thực hiện thủ thuật
và tại các thời điểm 4 giờ, 12 giờ, 24 giờ, 48 giờ,
72 giờ và trên 72 giờ (nếu thấy cần). Đồng thời
xử trí kịp thời các biến chứng sớm xảy ra (nếu
có).
Theo dõi tình trạng hoạt động của
ODLMP, chụp X-quang phổi và đo khí máu
kiểm tra 24 giờ sau. Nếu nhu mô phổi nở
hoàn toàn, ODLMP ngưng hoạt động thì rút
ODLMP. Tiếp tục theo dõi thêm 24 giờ sau
đó, kiểm tra lâm sàng, X-quang phổi, nếu tiến
triển thuận lợi thì cho bệnh nhân xuất viện.
Nếu sau 48-72 giờ sau LDMP bằng talc lần
thứ nhất, mà ODLMP vẫn còn hoạt động, thì
tiến hành LDMP lần thứ hai, nếu vẫn thất bại
thì chuyển sang phương pháp khác.
Nếu 7 – 14 ngày sau khi LDMP bằng talc,
ODLMP vẫn còn thoát khí thì xem như phương
pháp này thất bại cần chuyển sang dùng
phương pháp điều trị khác. Tuy nhiên, kéo dài
thời gian lưu ODLMP sau bơm talc còn tùy
thuộc vào tổng trạng bệnh nhân.
Sau khi xuất viện, tất cả bệnh nhân đều được
theo dõi định kỳ sau mỗi 1 tháng, 3 tháng, 6
tháng, 1 năm, 2 năm, 3 năm, và 4 năm qua tái
khám sức khỏe định kỳ, hoặc qua liên lạc thư từ,
điện thoại (trong trường hợp bệnh nhân không
tái khám định kỳ) được nhằm đánh giá hiệu quả
điều trị, biến chứng và tỉ lệ tái phát trong vòng
từ 1 cho đến 4 năm theo kiểu cuốn chiếu.
Thống kê và xử lý số liệu
Dùng phần mềm EXCEL 2006, STATA phiên
bản 6.0 để nhập, quản lý và xử lý số liệu. Các
biến số được phân tích bằng các test thống kê
thích hợp, giá trị P < 0,05 được đánh giá là có ý
nghĩa thống kê.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong thời gian nghiên cứu từ tháng 01/2002
đến 12/2006, chúng tôi thu nhận 197 trường hợp
TKMPTP biến chứng nhập viện tại bệnh viện
Phạm Ngọc Thạch và được điều trị bơm dung
dịch talc qua ống dẫn lưu màng phổi để làm
dính màng phổi. Trong đó, có 74 trường hợp
TKMPTP nguyên phát (37,56%) và 123 trường
hợp TKMPTP thứ phát (62,44%).
Một số đặc điểm của mẫu nghiên cứu
Trong 197 trường hợp TKMPTP biến chứng,
có 174 trường hợp (88,3%) là nam giới và 23
trường hợp (11,7%) là nữ giới. Tỉ lệ mắc bệnh
nam:nữ là 7,6:1. Tuổi trung bình là 51,83 (từ 17 –
85 tuổi). Mặt khác, có 62/68 trường hợp dưới 40
tuổi là TKMPTP nguyên phát và ngược lại, có
117/129 trường hợp trên 40 tuổi là TKMPTP thứ
phát. Ngoài ra, các trường hợp TKMPTP biến
chứng có đặc tính như sau:
Bảng 1: Tính chất của TKMPTP biến chứng
Tính chất của TKMPTP biến chứng n (%)
TKMPTP tái phát 161 (81,73%)
TKMPTP lần đầu tiên nhưng không đáp ứng
với điều trị đặt ODLMP
36 (18,27%)
Kết quả điều trị và biến chứng sớm ngay
sau LDMP bằng talc
Kết quả điều trị sau LDMP bằng talc: Tính
đến thời điểm xuất viện, tỉ lệ thành công của
phương pháp LDMP bằng talc qua ODLMP là
189 trường hợp (95,94%) và có 8 trường hợp
(4,06%) thất bại phải chuyển sang điều trị
khác. Thời gian trung bình lưu ODLMP sau
LDMP bằng talc là 3,34 ngày (giới hạn từ 1 –
21 ngày), trong đó 147 trường hợp (77,78%) có
thời gian lưu ODLMP ≤ 3 ngày và 42 trường
hợp (22,22%) trên 3 ngày.
Biến chứng sớm xảy ra ngay sau LDMP
bằng talc
53 trường hợp (26,9%) biểu hiện sốt xảy ra
ngay trong vòng 4 giờ sau LDMP và đáp ứng tốt
với thuốc hạ sốt thông thường dưới 3 – 5 ngày.
106 trường hợp (53,81%) đau ngực xảy ra
ngay trong vòng 4 giờ sau LDMP. Đa số trường
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 4
hợp đáp ứng tốt với thuốc giảm đau dưới 3 – 5
ngày. Tuy nhiên, cũng có 13/106 trường hợp
(12,26%) là đau ngực nhiều phải dùng kết hợp
thuốc giảm đau tiêm tĩnh mạch và thuốc an
thần (5 – 10 mg diazepam) tiêm dưới da hoặc
tiêm bắp.
59 trường hợp (29,95%) xuất hiện ho khan,
xảy ra trong khoảng thời gian 4 – 12 giờ sau bơm
talc màng phổi và đều đáp ứng tốt với thuốc
giảm ho trong 3 – 5 ngày.
3 trường hợp (1,52%) mủ màng phổi xảy ra ở
những bệnh nhân đặt ODLMP trên 14 ngày sau
LDMP nhưng các trường hợp này đáp ứng tốt
với kháng sinh.
Không ghi nhận trường hợp nào suy hô hấp
cấp, hạ huyết áp, hạ oxy máu, xảy ra ngay sau
LDMP bằng talc.
Tỉ lệ tái phát và biến chứng muộn sau thời
gian theo dõi từ 1 – 4 năm
Về tỉ lệ tái phát, chỉ có 176/189 trường hợp
(93,12%) LDMP bằng talc được theo dõi tiếp
trong vòng 1 – 4 năm (theo kiểu cuốn chiếu).
Trong đó, có 16 trường hợp (9,09%) biểu hiện
TKMP tái phát và 160 trường hợp (90,91%)
không tái phát.
Về biến chứng muộn, trong 176 trường hợp
được theo dõi từ 1 – 4 năm, các trường hợp
BPTNMT và/hoặc có kết hợp với lao phổi cũ xơ
hang, thường có biểu hiện khó thở khi gắng sức
nên rất khó đánh giá dấu hiệu khó thở như là
một biến chứng sau LDMP bằng talc. Chúng tôi
chỉ ghi nhận được15 trường hợp TKMPTP
nguyên phát có cảm giác khó thở khi gắng sức
nhiều và hết cảm giác khó thở khi nghĩ ngơi.
Ngoài ra, 75 trường hợp (42,61%) có biểu hiện
đau ngực nhẹ xảy ra khi gắng sức, khi làm việc
nặng nhưng không ảnh hưởng đáng kể đến sinh
hoạt và lao động hàng ngày của bệnh nhân.
Triệu chứng này cải thiện nhanh chóng khi dùng
thuốc giảm đau thông thường. Ngoài ra, có 16
trường hợp (15,7%) tử vong được tính cộng dồn
trong thời gian theo dõi từ 1 – 4 năm như sau:
(bn: bệnh nhân; tr.hợp: trường hợp).
Bảng 5: Tỉ lệ tử vong sau thời gian theo dõi từ 1 – 4
năm
Thời gian
theo dõi Số trường hợp tử vong
Số tử vong
cộng dồn
1 năm
Có 3 tr.hợp tử vong: trong đó 2 bn
ung thư giai đoạn cuối và 1 tr.hợp
86 tuổi mắc bệnh BPTNMT/lao
phổi cũ xơ hang
3
2 năm
Có thêm 4 tr.hợp tử vong (gồm 2
bn 85 tuổi, 1 bn 81 tuổi, và 1 bn 80
tuổi) đều mắc BPTNMT/lao phổi cũ
7
3 năm
Có thêm 5 tr.hợp tử vong (gồm 1
bn 81 tuổi, 2 bn 80 tuổi, và 2 bn 79
tuổi) đều mắc BPTNMT/lao phổi cũ
12
4 năm
Có thêm 4 tr.hợp tử vong (gồm 1
bn 80 tuổi, 2 bn 79 tuổi, và 1 bn 78
tuổi) đều mắc BPTNMT/lao phổi cũ
16
Tất cả các trường hợp này tử vong do bệnh
lý phổi cơ bản (ung thư phổi, BPTNMT và lao
phổi cũ xơ hang) và có tuổi thọ cao (trên 78 tuổi).
Các trường hợp tử vong này không liên quan
đến LDMP bằng talc. Ngoài ra, chúng tôi không
ghi nhận có biến chứng muộn khác xảy ra trong
suốt thời gian theo dõi 1 – 4 năm sau LDMP
bằng talc.
BÀN LUẬN
Về một đặc điểm của mẫu nghiên cứu,
trong 197 trường hợp TKMPTP biến chứng
nhập viện, nhóm TKMPTP thứ phát gặp nhiều
hơn nhóm TKMPTP nguyên phát (62,44% so
với 37,56%). Các trường hợp TKMPTP biến
chứng xảy ra chủ yếu ở nam giới nhiều hơn nữ
giới (88,3% so với 11,7%) và tỉ lệ mắc bệnh
nam:nữ là 7,6:1. Tuổi trung bình là 51,83 (từ 17
– 85 tuổi). TKMPTP nguyên phát gặp chủ yếu
ở lứa tuổi dưới 40 tuổi và ngược lại, các trường
hợp TKMPTP thứ phát xảy ra ở lứa tuổi trên
40 tuổi (117/123 trường hợp). Điều này cũng
phù hợp với trong y văn(1,2,5). Ngoài ra, tính
chất TKMPTP tái phát xảy ra nhiều hơn
TKMPTP lần đầu tiên nhưng không đáp ứng
với điều trị đặt ODLMP (thời gian đặt ODLMP
kéo dài quá 7 – 10 ngày) (81,73% so với
18,27%).
Về kết quả điều trị ngay sau LDMP bằng
talc: tỉ lệ thành công của phương pháp LDMP
bằng talc qua ODLMP là 95,94% (tính đến thời
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 5
điểm xuất viện) và 8 trường hợp (4,06%) thất bại
phải chuyển sang điều trị khác. Thời gian trung
bình lưu ODLMP sau LDMP bằng talc là 3,34
ngày (giới hạn từ 1 – 21 ngày). Theo tác giả
Tschopp J. M. et al(10), tỉ lệ thành công khoảng
97% trường hợp TKMPTP biến chứng được bơm
bột talc màng phổi qua NSLN với thời gian
trung bình lưu ODLMP sau LDMP là 5 ngày
(giới hạn từ 2 – 40 ngày). Theo Sahn S. A.(8), tỉ lệ
bơm bột talc màng phổi thành công 91%. Theo
Henry T. et al(5), tỉ lệ thành công là 85% – 92%.
Như vậy, kết quả điều trị của chúng tôi cũng
tương tự như các nghiên cứu khác.
Về biến chứng sớm xảy ra ngay sau LDMP
bằng talc, đa số trường hợp các biến chứng
sớm xảy ra như đau ngực (53,81%), sốt (26,9%)
(đều xảy ra trong vòng 4 giờ sau LDMP, và
đáp ứng tốt với thuốc giảm đau, hạ sốt thông
thường trong vòng dưới 3 – 5 ngày) và ho
khan (29,95%) (xảy ra trong khoảng thời gian 4
– 12 giờ sau bơm talc màng phổi và đều đáp
ứng tốt với thuốc giảm ho trong 3 – 5 ngày).
Cũng tương tự như một số nghiên cứu khác
như theo Sahn S. A.(8), 16 – 69% trường hợp sốt
xảy ra trong vòng 4 – 12 giờ sau bơm talc và
kéo dài trong 3 ngày. Ngoài ra, chúng tôi cũng
ghi nhận có 12,26% trường hợp là đau ngực
nhiều phải dùng kết hợp thuốc giảm đau tiêm
tĩnh mạch và thuốc an thần (5 – 10 mg
diazepam) tiêm dưới da hoặc tiêm bắp. Theo
các tác giả khác(2,5,8), cho thấy tỉ lệ đau ngực (từ
ít đến nhiều) gây ra sau bơm bột talc màng
phổi khoảng 7% thấp hơn rất nhiều khi so
sánh với tỉ lệ đau ngực gây ra do Bleomycin là
28% và Doxycycline là 40%, chủ yếu là đau
ngực nhiều. Mặt khác, chúng tôi ghi nhận có 3
trường hợp (2,44%) mủ màng phổi xảy ra ở
những bệnh nhân đặt ODLMP trên 14 ngày
sau LDMP nhưng các trường hợp này đáp ứng
tốt với kháng sinh. Theo Berk J.L.(2), ghi nhận
có dưới 3% trường hợp mủ màng phổi. Ngoài
ra, các biến chứng khác cũng được ghi nhận
trong y văn như Light R.W.(6) ghi nhận 7/29
trường hợp hạ oxy máu và tụt huyết áp xảy ra
sau bơm bột talc màng phổi; Rehse D. H. et
al(7), có 33% suy hô hấp hoặc tử vong trong
tổng số 78 bệnh nhân được bơm talc màng
phổi. Tuy nhiên, cơ chế suy hô hấp cấp xảy ra
sau LDMP bằng talc thì chưa được biết rõ(1,5,8).
Trong khi, chúng tôi không ghi nhận trường
hợp nào có suy hô hấp cấp, hạ huyết áp, hạ
oxy máu, xảy ra sau LDMP bằng talc.
Về tỉ lệ tái phát sau thời gian theo dõi 1 – 4
năm, chúng tôi ghi nhận có 9,09% trường hợp
biểu hiện TKMP tái phát. Theo y văn(2,3,5,10),
chúng tôi chỉ ghi nhận được tỉ lệ tái phát của
TKMPTP nói chung còn khá cao 38 – 43%. Theo
Gyưrik S. et al(4), có 3 trường hợp (5%) TKMP tái
phát trong số 56 trường hợp TKMPTP nguyên
phát được LDMP bằng talc qua NSLN được theo
dõi tiếp trung bình 118 tháng. Ngoài ra, khi so
sánh với một số phương pháp LDMP khác cho
kết quả TKMP tái phát khác nhau, như Bauman
M.H. et al(1) và Berk(2), tỉ lệ TKMP tái phát sau
LDMP bằng tetracycline là 25 – 28 %. Theo
Henry T. et al(5), ghi nhận tỉ lệ TKMP tái phát
ngay sau cắt màng phổi là 0,4% (n=752); sau làm
trầy xước màng phổi chủ động (n=301)là 2,3% và
tỉ lệ TKMP tái phát ngay sau sau phẫu thuật
NSLN (VATS) là 5 – 10%. Như vậy, tỉ lệ TKMP
tái phát xảy ra trong nghiên cứu của chúng tôi có
thể chấp nhận được.
Về biến chứng muộn xảy ra trong thời gian
theo dõi từ 1 – 4 năm, trong 176 trường hợp
được theo dõi từ 1 – 4 năm, các trường hợp
BPTNMT và/hoặc có kết hợp với lao phổi cũ xơ
hang, thường có biểu hiện khó thở khi gắng sức
nên rất khó đánh giá dấu hiệu khó thở như là
một biến chứng sau LDMP bằng talc. Chúng tôi
chỉ ghi nhận được 15 trường hợp TKMPTP
nguyên phát có cảm giác khó thở khi gắng sức
nhiều và hết cảm giác khó thở khi nghĩ ngơi.
Ngoài ra, 75 trường hợp (42,61%) có biểu hiện
đau ngực nhẹ xảy ra khi gắng sức, khi làm việc
nặng nhưng không ảnh hưởng đáng kể đến sinh
hoạt và lao động hàng ngày của bệnh nhân.
Triệu chứng này cải thiện nhanh chóng khi dùng
thuốc giảm đau thông thường. Ngoài ra, có 16
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 6
trường hợp (15,7%) tử vong được tính cộng dồn
trong thời gian theo dõi từ 1 – 4 năm. Đa số các
trường hợp này tử vong do bệnh lý phổi cơ bản
(ung thư phổi, BPTNMT và lao phổi cũ xơ hang)
và do tuổi thọ cao (trên 78 tuổi) là chủ yếu.
Nguyên nhân gây tử vong không liên quan đến
LDMP bằng talc. Theo y văn(1-5), tỉ lệ tử vong do
TKMPTP là 15% – 20% ở bệnh nhân BPTNMT
và TKMPTP xảy ra trên bệnh nhân BPTNMT
được xem là tiên lượng xấu. Mặt khác, chúng tôi
không ghi nhận trường hợp nào biến chứng
muộn khác xảy ra trong suốt thời gian theo dõi 1
– 4 năm sau LDMP bằng talc.
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi đã cho
thấy tỉ lệ thành công của LDMP bằng talc bơm
qua ODLMP (tính cho đến thời điểm xuất viện)
là cao (95,94%) với thời gian trung bình lưu
ODLMP sau LDMP là 3,34 ngày (giới hạn từ 1 –
21 ngày). Các biến chứng sau LDMP bằng talc
thường nhẹ và đáp ứng tốt với thuốc giảm đau,
hạ sốt và giảm ho thông thường. Chỉ có 3 trường
hợp mủ màng phổi nhưng đáp ứng tốt với
kháng sinh. Không trường hợp tử vong nào có
liên quan đến nguyên nhân gây ra do talc. Đồng
thời, chúng tôi không ghi nhận xảy ra những
biến chứng trầm trọng trong thời gian theo dõi
sau LDMP bằng talc. Cùng với nhiều nghiên cứu
khác, nghiên cứu của chúng tôi đã chứng tỏ
phương pháp LDMP bằng talc dễ thực hiện, đơn
giản, đạt hiệu quả cao và an toàn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Baumann M. H. et al (2001), “Management of Spontaneous
Pneumothorax”, Chest, (119), pp.590-602.
2. Berk J. L. (1997), “Pneumothorax”, A practical approach to
pulmonary medicine, pp.206-223.
3. Fraser R.S. et al (2005), “Methods of radiologic investigation”-
“Pneumothorax”, Synopsis of diseases of the chest, 3rd edition,
Elservier Saunders, pp.97-103; 828-830.
4. Gyưrik S. et al (2007), “Long-term follow-up of thoracoscopic
talc pleurodesis for primary spontaneous pneumothorax”,
Eur. Respir. J., (29), pp.757-760.
5. Henry T. et al (2003), “BTS guidelines for the management of
spontaneous pneumothorax”, Thorax, (58), ii39-52.
6. Light R.W. (2002), “Talc for pleurodesis?”, Chest, (122),
pp.1506-1508.
7. Rehse D. H. et al (1999), “Respiratory failure following talc
pleurodesis”, Am J Surg 05/1999; 177(5), pp.437-440.
8. Sahn S.A. (2000), “Talc should be used for pleurodesis”, Am J
Respir Crit Care Med, (162), pp.2023-2024.
9. Shiraishi T. (1991), “Catamenial pneumothorax. Report of a
case and review of the Japanese and non-Japanese literature”,
Thorac. Cardiovasc. Surg., (39), pp.304-307.
10. Tschopp J.M. et al (1997), “Treatment of complicated
spontaneous pneumothorax by simple talc pleurodesis under
thoracoscopy and local anaesthesia”, Thorax, (52), pp.329-332.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 7
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 8
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phan_tich_bien_chung_va_ti_le_tai_phat_tran_khi_mang_phoi_sa.pdf