Nếu chính sách tập trung và công
nghiệp và xuất khẩu (tỷ trọng hàng xu
khẩu là sản phẩm công nghiệp chi
trọng lớn) có thể làm tăng một ch
mang tính thành tích như GDP nhưng
người dân và đất nước không đư
nhưng nguồn lực của nền kinh tế
càng yếu đi do luồng tiền chi trả sở h
nước ngoài ngày một lớn. Tốc độ
trưởng của luồng tiền chi trả sở hữ
hơn tăng trưởng GDP rất nhiều (năm 2017,
theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chi tr
sở hữu thuần ra nước ngoài gần 11 tỷ
chiếm 5% GDP và tỷ lệ GNI so với GDP ch
còn khoảng 95%).
Các doanh nghiệp FDI chiếm gần 60%
giá trị sản xuất của toàn ngành công
nghiệp (bao gồm khai thác) và 73% trong
giá trị xuất khẩu hàng hóa, như vậ
trúc 3 nhóm ngành lớn và cấu trúc trong
nội ngành công nghiệp hàm ý rằng c
nâng cao chất lượng thu hút FDI hướ
sự bền vững về kinh tế và môi trường. C
trúc trong Bảng 4 và Hình 3 có thể
5 0
10
15
20
25
30
35
40
45
ến nghị đến 2030
Đơn vị tính: %
a 3 nhóm ngành trong GDP nhỏ hơn 100%, vì t
ồm thuế sản phẩm.
ất
ếm tỷ
ỉ tiêu
ợc gì
ngày
ữu ra
tăng
u cao
ả
USD,
ỉ
y cấu
ần
ng tới
ấu
khiến
GDP tăng 2,1% đến năm 2025 và 2,5%
đến năm 2030. Việc thay đổi chất lư
rừng, cải tiến kỹ thuật để ngành nông
nghiệp phát triển “xanh” hơn có thể
chất thải nhà kính GHG giảm 4,5% đ
năm 2025 và 9% đến năm 2030 (trong
trường hơp hệ số hút CO2 của r
(LULUCF)6 tăng lên 0,02 và 0,04 điểm ph
trăm và hệ số phát thải của nông nghi
giảm 0,1 - 0,3%). Với việc thu hút và qu
lý FDI hiệu quả sẽ khiến luồng tiền chi tr
sở hữu giảm xuống.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 368 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích cấu trúc nhóm ngành công nghiệp, xây dựng cho phát triển bền vững, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Bùi Trinh*
Tóm tắt:
Ngày 29 tháng 6 năm 2019, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam phát biểu trong Hội nghị
thượng đỉnh G20 tại phiên họp về khí hậu - môi trường nhấn mạnh biến đổi khí hậu, ô nhiễm
môi trường, bất ổn an ninh năng lượng đang thách thức sự tồn vong của nhân loại. Phát biểu
của Thủ tướng là một thông điệp hướng sự phát triển bền vững. Chính vì vậy, nghiên cứu này
hướng tới phân tích cấu trúc của nhóm ngành công nghiệp, xây dựng cho phát triển bền vững.
1. Giới thiệu
Trong nhiều năm qua, Việt Nam có tốc
độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước
(GDP) tương đối cao so với các nước trong
khu vực, bình quân giai đoạn 2005-2018 tăng
khoảng 6,2%. Tuy nhiên, những bất ổn vĩ mô
như bội chi ngân sách, nợ công, nợ của nền
kinh tế vẫn luôn ở mức cao, môi trường tiềm
ẩn nhiều rủi ro.
Ở Việt Nam trong các báo cáo thậm chí
cả các bài viết mang tính nghiên cứu đều
mặc nhiên thừa nhận cơ cấu của khu vực II
(khu vực công nghiệp và xây dựng) và khu
vực III (khu vực dịch vụ) trong GDP cần phải
tăng lên và coi đó như một sự phát triển kinh
tế đúng hướng. Từ đó, ý tưởng trong tái cấu
trúc kinh tế là cần đẩy mạnh cả khu vực II và
khu vực III. Tuy nhiên, tỷ lệ vốn (capital
stock) của nhóm ngành công nghiệp chế biến
chế tạo theo ước tính từ bảng cân đối liên
ngành chiếm trên 53% tổng số vốn của nền
kinh tế, nhưng tỷ lệ giá trị tăng thêm (VA) so
với giá trị sản xuất khu vực II lại giảm nhanh
(năm 2007 là 34,1%; năm 2016 chỉ còn
21% 1 và chỉ khoảng gần 20% đến năm
* Tiến sỹ, Viện Nghiên cứu phát triển Việt Nam
2018). Điều này có nghĩa khu vực này hoạt
động sản xuất kinh doanh ngày càng kém
hiệu quả, kéo theo lượng đầu tư ngày càng
phải tăng lên để bù đắp vào sự kém hiệu quả
đó. Tỷ lệ chi phí trung gian so với giá trị sản
xuất của nhóm ngành công nghiệp ngày càng
cao do khu vực này ngày càng mang tính gia
công cao, nhiều dự án của khu vực FDI có
giá trị sản xuất và xuất khẩu cao nhưng thực
chất phía Việt Nam nhận được chỉ là gia công,
lắp ráp.
Hiện nay, song song với Hệ thống tài
khoản quốc gia (SNA), Liên hợp quốc cũng
đưa ra Hệ thống tài khoản kinh tế - môi
trường (System of Environmental - Economic
Accounts, SEEA), nếu mô hình cân đối liên
ngành truyền thống là trung tâm của SNA thì
mô hình cân đối liên ngành hỗn hợp (Hybrid
input - output framework) là trung tâm của
hệ thống SEEA2.
2. Phương pháp nghiên cứu
Quan điểm về phát triển ngành trọng
điểm dựa trên cơ sở lý thuyết phát triển
1 “Số liệu GDP có vấn đề, Thời báo Kinh tế Sài
Gòn, 19/8/2016.
2 Hybrid IO framework.
2
không cân đối (unbalanced growth) hay các
“cực tăng trưởng” được đề xướng năm 1950.
Những đại diện tiêu biểu của lý thuyết này
(A. Hirschman, F. Perrons) cho rằng việc hỗ
trợ cho tất cả các ngành cũng đồng nghĩa với
việc không hỗ trợ cho ngành nào. Do đó, cần
phải xác định đúng đắn các ngành trọng
điểm là chủ lực và được ưu tiên phát triển với
một tầm nhìn lâu dài trên cơ sở thích hợp để
có thể tập trung nguồn lực hỗ trợ về con
người và vốn đầu tư cho sự phát triển của
ngành đó theo nguyên tắc “lựa chọn và tập
trung” đồng thời đạt hiệu quả cao nhất,
không thể và không nhất thiết đảm bảo tăng
trưởng bền vững bằng cách duy trì cơ cấu
cân đối liên ngành đối với mọi quốc gia.
Các ngành này là các ngành được xác
định có mối liên hệ ngược (là mối liên hệ
giữa người sản xuất và người cung ứng
nguyên liệu đầu vào cho nhà sản xuất đó) và
liên kết xuôi (là mối liên hệ giữa ngành sản
xuất sản phẩm đó với ngành sử dụng sản
phẩm đó như là đầu vào của mình) mạnh
mẽ. Trong thực tế, ngành kinh tế trọng điểm
có thể được diễn đạt bằng các cụm từ tương
đương đó là: Ngành trọng điểm, ngành kinh
tế mũi nhọn, ngành kinh tế ưu tiên, ngành
kinh tế có sức cạnh tranh.
Nghiên cứu này áp dụng các quan hệ
của Leontief dựa trên bảng cân đối liên
ngành 2012 và 2016 của Việt Nam.
Nguồn số liệu và cách xử lý:
Nghiên cứu sử dụng bảng cân đối liên
ngành cập nhật cho năm 2016 dựa trên bảng
cân đối liên ngành năm 2012 và số liệu điều
tra doanh nghiệp năm 2016. Những bước cập
nhật như sau:
1. Xác định véc tơ giá trị sản xuất mới
X2016 dựa trên điều tra doanh nghiệp.
2. Xác định véc tơ chi phí trung gian
II2016 dựa trên điều tra doanh nghiệp.
3. Ma trận chi phí trung gian: Xij2016 =
(Xij2012 / IIj2012) * IIj2016
Phương pháp cập nhật này làm ma trận
hệ số chi phí trung gian A2016 =
(a2016ij=X2016ij/X2016j) ≠ A2012.
4. Cầu cuối cùng dựa trên số liệu điều
tra Khảo sát mức sống dân cư, số liệu về đầu
tư và số liệu xuất nhập khẩu hàng hóa và
dịch vụ của TCTK để ước tính cầu cuối cùng.
5. Sử dụng phương pháp RAS 3 (Ras
method) để cân đối lại bảng cân đối liên
ngành 2016.
6. Ma trận hệ số dung lượng vốn thu
thập tính toán từ điều tra doanh nghiệp: K =
(kij)(kxn) với k là loại vốn (NSNN, ODA, Tín
dụng, khác) và n là số ngành (21): kij = Tài
sản cố định ngành loại i của ngành j / Giá trị
sản xuất của ngành j của điều tra doanh
nghiệp.
7. Ma trận lao động L = (lij)(2xn) từ số
liệu của TCTK ( 2 loại lao động, kỹ năng và
không kỹ năng); lij = Lao động loại i / Giá trị
sản xuất ngành j.
8. Véc tơ hệ số chất thải nhà kính trực
tiếp thu thập từ báo cáo “THE INITIAL
BIENNIAL UPDATED REPORT OF VIET NAM
TO THE UNITED NATIONS FRAMEWORK
CONVENTION ON CLIMATE CHANGE” của Bộ
Tài nguyên và Môi trường.
9. Để tương thích với bảng I/O của một
số nước Châu Á và mục đích nghiên cứu,
3 Bui Trinh, Nguyen Viet Phong “ A short note on
Ras method” Advances in Management & Applied
Economics, vol. 3, no.4, 2013, 133-137
_4_12.pdf
3
nhóm nghiên cứu chọn ra 21 ngành4 và gộp
bảng I/O theo 21 ngành.
3. Kết quả nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu về chỉ số lan tỏa và
độ nhậy từ Bảng 1 cho thấy nhóm ngành
nông, lâm thủy sản (ngành số 1), nhóm
ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, đồ
uống và thuốc lá (ngành số 3), sản xuất các
sản phẩm từ dầu mỏ và khí đốt (ngành số 5)
và công nghiệp chế biến chế tạo khác (ngành
số 10) có cả độ lan tỏa và độ nhậy cao hơn
mức bình quân chung của nền kinh tế khá
nhiều và không thay đổi trong giai đoạn
2010-2020, điều này cho thấy 4 nhóm ngành
này không chỉ kích thích mạnh các ngành
khác trong nền kinh tế mà nhu cầu đầu vào
cho nền kinh tế cũng lớn mức bình quân
chung của nền kinh tế. Hầu hết các ngành
dịch vụ không có chỉ số lan tỏa và độ nhậy
tốt, đặc biệt nhóm ngành hoạt động chuyên
môn khoa học và công nghệ có mức lan tỏa
và độ nhậy thấp hơn mức bình quân chung
khá nhiều, điều này cho thấy nhóm ngành
này không lan tỏa đi đâu mà các ngành trong
nền kinh tế cũng không cần nó. Như vậy,
nhóm ngành công nghiệp chế biến thực
phẩm đồ uống có chỉ số lan tỏa tốt nhất đến
giá trị sản xuất của nền kinh tế; điều này có
nghĩa sản phẩm cuối cùng của nhóm ngành
này sẽ kích thích sản xuất của nền kinh tế
nhất trong các ngành công nghiệp chế biến.
Bảng 1: Chỉ số lan tỏa và độ nhậy của nền kinh tế
Đơn vị tính: Lần
Ngành
Năm 2012 Năm 2016
Liên kết
ngược
(BL)
Chỉ số
lan tỏa
Liên kết
xuôi (FL)
Độ
nhậy
Liên kết
ngược
(BL)
Chỉ số
lan tỏa
Liên kết
xuôi (FL)
Độ
nhậy
1 1,688 1,104 2,299 1,504 2,181 1,109 3,180 1,616
2 1,396 0,913 2,219 1,452 1,761 0,895 2,700 1,373
3 2,263 1,480 1,657 1,084 2,769 1,408 2,000 1,017
4 1,551 1,014 1,364 0,892 1,968 1,000 1,658 0,843
5 1,749 1,144 1,923 1,258 2,207 1,122 2,994 1,522
6 1,558 1,019 1,461 0,955 2,128 1,082 2,164 1,100
7 1,582 1,035 1,304 0,853 2,153 1,094 1,693 0,861
8 1,464 0,957 1,752 1,146 1,935 0,983 2,764 1,405
9 1,377 0,901 1,294 0,846 1,747 0,888 1,977 1,005
10 1,778 1,163 2,489 1,628 2,252 1,145 3,521 1,790
11 1,183 0,774 1,337 0,874 1,505 0,765 1,563 0,795
12 1,385 0,906 1,106 0,724 1,819 0,925 1,167 0,593
13 1,697 1,110 1,153 0,754 2,110 1,073 1,229 0,625
4 21 ngành, gồm: 1. Nông nghiệp và dịch vụ nông nghiệp; 2. Lâm nghiệp; 3. Sản phẩm thuỷ sản
khai thác; 4. Sản phẩm thuỷ sản nuôi trồng; 5. Dầu thô khai thác; 6. Khí tự nhiên dạng khí hoặc
hóa lỏng; 7. Khai khoáng khác; 8. Thủy sản và các sản phẩm từ thủy sản chế biến, bảo quản; 9.
Công nghiệp chế biến thực phẩm khác; 10. Công nghiệp chế biến chế tạo khác; 11. Sản xuất
điện, khí đốt, nước nóng, điều hòa không khí, nước, xử lý nước thải, rác thải; 12. Cung cấp nước;
hoạt động quản lý và xử lý rác thải và nước thải; 13. Xây dựng; 14. Dịch vụ vận tải và kho bãi;
15. Bán buôn bán lẻ và khách sạn nhà hàng; 16. Thông tin và truyền thông; 17. Dịch vụ trung
gian tài chính, Bưu chính chuyển phát; 18. Hoạt động khoa học và công nghệ; 19. Giáo dục và
đào tạo; 20. Y tế và chăm sóc sức khỏe; 21. Dịch vụ khác.
4
Ngành
Năm 2012 Năm 2016
Liên kết
ngược
(BL)
Chỉ số
lan tỏa
Liên kết
xuôi (FL)
Độ
nhậy
Liên kết
ngược
(BL)
Chỉ số
lan tỏa
Liên kết
xuôi (FL)
Độ
nhậy
14 1,603 1,048 1,442 0,943 2,068 1,051 1,731 0,880
15 1,466 0,959 1,722 1,126 1,905 0,968 2,230 1,134
16 1,538 1,006 1,420 0,929 1,908 0,970 1,654 0,841
17 1,363 0,892 1,546 1,011 1,775 0,903 1,917 0,974
18 1,355 0,886 1,229 0,804 1,819 0,925 1,515 0,770
19 1,184 0,775 1,029 0,673 1,542 0,784 1,045 0,531
20 1,655 1,082 1,008 0,659 2,080 1,057 1,011 0,514
21 1,271 0,831 1,353 0,885 1,679 0,854 1,597 0,812
Nguồn: Tính toán từ bảng I/O 2012 của TCTK và cập nhật của tác giả
Kết hợp độ nhậy và chỉ số lan tỏa có
được bức tranh về mối liên kết ngành. Trong
10 năm, qua bức tranh về sự liên kết ngành
hầu như không có sự thay đổi nào đáng kể.
Tuy dáng điệu của sự liên kết ngành không
thay đổi nhưng mức độ hiệu quả thông qua
tỷ lệ VA so với giá trị sản xuất của giai đoạn
2015-2020 kém hơn giai đoạn 2010-2014
hầu hết các ngành, nếu giai đoạn 2010 -
2014 tỷ lệ VA so với giá trị sản xuất khoảng
36% thì giai đoạn 2015-2020 cho thấy tỷ lệ
này giảm xuống chỉ còn 28%. Tỷ lệ này sụt
giảm mạnh mẽ nhất là ở nhóm ngành công
nghiệp chế biến chế tạo. Điều này phần nào
phản ánh mức độ gia công của nền kinh tế
Việt Nam ngày càng ở mức cao.
Hình 1:Tỷ lệ VA so với giá trị sản xuất
Đơn vị tính: Lần
Nguồn: Tác giả tính toán từ bảng I/O 2012 và 2016
3.1. Lan tỏa từ cầu cuối cùng đến
nhập khẩu và giá trị tăng thêm
Nghiên cứu về độ nhậy và độ lan tỏa
như trên mới nói được đến sự lan tỏa của
cầu đến giá trị sản xuất, trong nhiều trường
hợp gia tăng phía cầu kích thích phía cung
nhưng đồng thời cũng kích thích nhập khẩu
mà lại không lan tỏa nhiều đến VA, nghiên
cứu sâu hơn cho thấy tuy một số ngành (4
ngành) lan tỏa mạnh đến sản xuất nhưng lan
tỏa đến VA (GDP = ∑VA theo giá cơ bản +
Thuế sản phẩm) ra sao, lan tỏa đến nhập
khẩu thế nào? Một ngành được xem là ngành
có tầm quan trọng đối với nền kinh tế là
những ngành có chỉ số lan tỏa, độ nhậy cao
nhưng phải lan tỏa đến nhập khẩu thấp và
0.000
0.100
0.200
0.300
0.400
0.500
0.600
0.700
0.800
0.900
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21
Tổ
ng
số
2012
2016
5
lan tỏa đến VA cao. Bảng 2 cho thấy trong 4
ngành có chỉ số lan tỏa và độ nhậy cao chỉ có
nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản
đáp ứng đòi hỏi này. Hầu hết những ngành
thuộc công nghiệp chế biến chế tạo tuy có
chỉ số lan tỏa và độ nhậy cao nhưng lại kích
thích mạnh đến nhập khẩu và lan tỏa đến VA
thấp hơn mức bình quân chung khá nhiều.
Điều này cho thấy công nghiệp chế biến chế
tạo ở Việt Nam chủ yếu là gia công và càng
ngày mức độ gia công càng cao hơn. Một
điều thú vị là hầu hết các ngành dịch vụ có
chỉ số lan tỏa nhập khẩu thấp và lan tỏa đến
VA cao hơn mức bình quân, nhưng những
ngành này có chỉ số lan tỏa và độ nhậy
tương đối thấp. Để cải thiện vấn đề này có
thể đưa ra giải pháp quan trọng là nếu Việt
Nam tăng cường các sản phẩm phụ trợ đối
với nhóm ngành công nghiệp chế biến chế
tạo để đáp ứng đầu vào cho các nhóm ngành
dịch vụ và các ngành dịch vũ cũng phải phát
triển để đáp ứng nhu cầu của các ngành
khác trong nền kinh tế. Từ đó sẽ khiến mối
liên kết ngành nâng lên thông qua độ lan tỏa
và độ nhậy tăng cao từ đó tạo động lực
mạnh mẽ cho phát triển kinh tế của đất nước.
Tuy nhiên, “nguồn lực về chính sách” đặc
biệt chính sách thuế đến nay không hướng
tới vấn đề này. Chẳng hạn, về thuế gián thu
có 2 vấn đề: (1) Thuế gián thu đối với các
doanh nghiệp FDI được ưu đãi về chính sách
thuế, hầu hết các doanh nghiệp FDI đều làm
gia công rồi xuất khẩu, các doanh nghiệp này
do xuất khẩu trực tiếp nên đầu vào nhập
khẩu được ưu đãi thuế, trong khi các doanh
nghiệp nội không được ưu đãi thuế nếu bán
hàng trong nước, có thể thấy việc kêu gọi về
sản xuất sản phẩm phụ trợ trong cả chục
năm qua chỉ là kêu gọi mang tính hình thức,
khẩu hiệu. Chính sách về thuế xuất nhập
khẩu không cho thấy có hành động gì chứng
tỏ sự bằng phẳng giữa các loại hình doanh
nghiệp; (2) Khi hầu hết sản xuất ở Việt Nam
là gia công thì thực chất người Việt Nam
dùng hàng Việt Nam cũng là sử dụng hàng
nhập khẩu dưới hình thức khác mà thôi, sử
dụng sản phẩm của các doanh nghiệp FDI
trong trường hợp này cũng vậy, nên khi nói
đến đóng góp của khu vực FDI cho ngân
sách cần tách bạch giữa thuế gián thu và
thuế thu nhập doanh nghiệp, vì thuế gián thu
là của người dân Việt Nam đóng góp vào
ngân sách, các doanh nghiệp FDI chỉ đóng
góp thuế thu nhập doanh nghiệp.
Bảng 2: Lan tỏa từ một đơn vị tăng lên của cầu cuối cùng đến VA và nhập khẩu
Đơn vị tính: Lần
Năm 2012 Năm 2016
Ngành
Lan tỏa đến VA
của đơn vị tăng
lên của cầu cuối
cùng
Mức lan
tỏa đến
VA bình
quân
Mức độ lan
tỏa đến
nhập khẩu
Lan tỏa đến VA
của đơn vị tăng
lên của cầu
cuối cùng
Mức lan
tỏa đến
VA bình
quân
Mức độ
lan tỏa
đến nhập
khẩu
1 0,684 1,024 0,952 0,640 1,050 0,922
2 0,654 0,979 1,042 0,585 0,960 1,062
3 0,625 0,935 1,130 0,580 0,953 1,074
4 0,560 0,838 1,327 0,511 0,839 1,251
5 0,483 0,722 1,560 0,431 0,707 1,456
6 0,511 0,765 1,474 0,493 0,809 1,297
7 0,663 0,992 1,016 0,619 1,016 0,975
8 0,431 0,645 1,716 0,413 0,678 1,502
6
Năm 2012 Năm 2016
Ngành
Lan tỏa đến VA
của đơn vị tăng
lên của cầu cuối
cùng
Mức lan
tỏa đến
VA bình
quân
Mức độ lan
tỏa đến
nhập khẩu
Lan tỏa đến VA
của đơn vị tăng
lên của cầu
cuối cùng
Mức lan
tỏa đến
VA bình
quân
Mức độ
lan tỏa
đến nhập
khẩu
9 0,388 0,581 1,845 0,375 0,615 1,600
10 0,538 0,806 1,392 0,514 0,844 1,243
11 0,879 1,316 0,364 0,763 1,253 0,606
12 0,772 1,154 0,689 0,690 1,133 0,793
13 0,578 0,864 1,274 0,538 0,883 1,183
14 0,604 0,904 1,193 0,555 0,911 1,138
15 0,798 1,195 0,608 0,724 1,189 0,706
16 0,682 1,020 0,959 0,608 0,998 1,003
17 0,869 1,300 0,396 0,798 1,309 0,517
18 0,822 1,230 0,536 0,714 1,171 0,733
19 0,928 1,388 0,218 0,830 1,363 0,434
20 0,680 1,018 0,964 0,614 1,008 0,988
21 0,886 1,325 0,345 0,799 1,311 0,515
Nguồn: Tác gải tính toán từ bảng I/O 2012 và 2016
3.2. Ảnh hưởng đến môi trường
Trong nghiên cứu này do hạn chế về
nguồn số liệu nên chỉ nghiên cứu về ảnh
hưởng của kinh tế đến phát thải nhà kính
(Greenhouse Gas - GHG). Phát thải nhà kính
bao gồm CO2, CH4 và N2O, tính toán dựa trên
báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường về
biết đổi khí hậu5. Kết quả cho thấy các chỉ số
về mặt kinh tế nhóm ngành nông, lâm
nghiệp và thủy sản đều có những chỉ số ấn
tượng, thực trạng từ cấu trúc kinh tế hiện tại
cho thấy nhóm ngành này lại thải ra môi
trường lượng phát thải gây hiệu ứng nhà kính
gấp hơn 2 lần mức phát thải chung của nền
kinh tế trong cả giai đoạn 10 năm (mỗi bảng
cân đối liên ngành đại diện 5 năm). Đáng
chú ý là lượng phát thải gây hiệu ứng nhà
kính đang có xu hướng tăng lên (Hình 2).
5 Bộ Tài nguyên và môi trường “The initial “The
initial biennial updated report of Viet Nam to the
united nations framework convention on climate
change” Viet Nam publishing house of natural
resources, environment and cartography, 2014
Ngành phát thải ra hiệu ứng nhà kính cao
nhất là nhóm ngành sản xuất các sản phẩm
khoáng phi kim loại (ngành số 7), cao hơn
mức bình quân chung 3,3 lần, sau đó là
nhóm ngành xây dựng (2,39 lần), nhóm
nông, lâm nghiệp và thủy sản (2,36 lần);
cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý
rác thải, nước thải; công nghiệp chế biến chế
tạo khác; sản xuất thực phẩm, đồ uống và
thuốc lá; Khai khoáng. đều có mức phát thải
hiệu ứng nhà kính cao hơn mức bình quân
chung của nền kinh tế. Một điều chú ý rằng
hầu như ai cũng nghĩ ngành vận tải thải ra
hiệu ứng nhà kính lớn nhưng thực chất lại
không phải như vậy, ngành vận tải thải ra
lượng CO2 tương đối lớn nhưng không thải ra
nhiều CH4 và N2O. Hầu hết các nhóm
ngành dịch vụ không chỉ lan tỏa đến thu
nhập cao hơn mà còn lan tỏa đến môi
trường không khí thấp hơn.
Để phát triển bền vững cần hướng nguồn
lực vào phát triển bền vững đối với nông
7
nghiệp, để nông nghiệp thành “nông nghiệp
xanh”. Tập trung nguồn lực để cải tiến quy
trình công nghệ đối với công nghiệp chế biến
sản phẩm nông nghiệp để nhóm ngành này
lan tỏa đến thu nhập nhiều hơn và giảm
thiểu chất thải ra môi trường. Do các ngành
dịch vụ lan tỏa tốt đến VA, ít lan tỏa đến
nhập khẩu và phát thải nhà kính, nên để
tăng chỉ số lan tỏa và độ nhậy cho nhóm
ngành này cần hướng chính sách cho công
nghiệp chế biến chế tạo sản xuất các sản
phẩm phụ trợ làm đầu vào cho nhóm ngành
dịch vụ và nhóm ngành dịch vụ hướng tới là
nhu cầu thiết yếu đối với các ngành khác
trong nền kinh tế. Các nhà làm chính sách
cần thay đổi quan niệm về cấu trúc ngành
trong VA; Nhóm ngành dịch vụ cần được chú
trọng thay vì công nghiệp chế biến chế tạo.
Nghiên cứu cho rằng nguồn lực quan trọng
nhất là “nguồn lực về chính sách”, thay đổi
phương thức thu hút FDI, dần thoát khỏi bẫy
gia công, tập trung nguồn lực đất đai cho
những ngành (lĩnh vực) được lựa chọn cho
phát triển bền vững.
Bảng 4 cho thấy cấu trúc từ cầu đến
cung có xu hướng thay đổi theo chiều
hướng xấu đi, cấu trúc của giai đoạn 2015-
2020 chỉ ra lan tỏa của các yếu tố của cầu
đến giá trị sản xuất cao hơn giai đoạn 2010-
2014 nhưng lại lan tỏa đến VA thấp hơn và
lan tỏa đến nhập khẩu mạnh hơn. Điều đó
minh chứng nhận định cho rằng nền kinh tế
Việt Nam ngày càng mang nặng tính gia
công và khẩu hiệu “người Việt Nam dùng
hàng Việt Nam” dường như không còn thích
hợp nữa. Đáng chú ý là xuất khẩu hàng hóa
lan tỏa đến VA thấp nhất, nhưng lại lan tỏa
mạnh mẽ đến nhập khẩu, nguy hiểm hơn
nữa sản xuất cho xuất khẩu hàng hóa gây
nên phát thải khí nhà kính lớn nhất trong
các yếu tố của cầu cuối cùng, trong khi đó
xuất khẩu dịch vụ ít gây hiệu ứng nhà kính
nhất nhưng lại lan tỏa tốt nhất đến thu nhập.
Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên vàMôi
trường, ước tính đến năm 2010 lượng phát
thải GHG là khoảng 247 triệu tấn, tính toán
của nhóm nghiên cứu cho thấy lượng GHG
đến năm 2012 là 300 triệu tấn và đến năm
2016 là 423 triệu tấn, dự báo đến năm 2020
là 466 triệu tấn. Theo tính toán của nghiên
cứu này với cấu trúc công nghiệp xây dựng
như hiện nay thì lượng khí thải nhà kính đến
năm 2020 xấp xỉ 600 triệu tấn. Tăng trưởng
về khí nhà kính bình quân giai đoạn 2010-
2020 khoảng 7,5%, tăng nhanh hơn tốc độ
tăng trưởng GDP bình quân trong giai đoạn
này (khoảng 6,3%). Điều này trái ngược với
chính sách ưu tiên xuất khẩu hàng hóa cả
về chính sách thuế và chính sách tín dụng.
Dường như nguồn lực về vốn và nguồn lực
về chính sách một lần nữa cho thấy đổ
nhầm chỗ.
Bảng 3: Lan tỏa từ các nhân tố của cầu cuối cùng nội địa đến các yếu tố kinh tế và môi
trường năm 2012 và năm 2016
Năm 2012 Năm 2016
Tiêu
dùng
cuối
cùng
Đầu
tư/
Tích
lũy
Xuất
khẩu
hàng
hóa
Xuất
khẩu
dịch
vụ
Tổng
số
(Triệu
tấn)
Tiêu
dùng
cuối
cùng
Đầu
tư/
Tích
lũy
Xuất
khẩu
hàng
hóa
Xuất
khẩu
dịch
vụ
Tổng
số
(Triệu
tấn)
Lan tỏa
tới sản
lượng
(Lần)
1,744 1,799 1,788 1,601 2,053 2,128 2,094 1,911
8
Năm 2012 Năm 2016
Tiêu
dùng
cuối
cùng
Đầu
tư/
Tích
lũy
Xuất
khẩu
hàng
hóa
Xuất
khẩu
dịch
vụ
Tổng
số
(Triệu
tấn)
Tiêu
dùng
cuối
cùng
Đầu
tư/
Tích
lũy
Xuất
khẩu
hàng
hóa
Xuất
khẩu
dịch
vụ
Tổng
số
(Triệu
tấn)
Lan tỏa
tới VA
(Lần)
0,72 0,58 0,56 0,76 0,66 0,54 0,52 0,69
Lan tỏa
tới nhập
khẩu
(Lần)
0,28 0,42 0,44 0,24 0,34 0,46 0,48 0,31
Ước tính
phát thải
nhà kính
(Triệu
tấn)
77
65
152
6
300
140
100
176
7
423
Cấu trúc
của GHG
(%)
25,7 21,7 50,7 1,9 100 33,28 23,51 41,6 1,7 100
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên các bảng I/O và số liệu của Bộ TN&MT
Hình 2: Phát thải nhà kính giai đoạn 2010-2014 và giai đoạn 2015-2020
gây nên trong quá trình sản xuất
Đơn vị tính: Lần
Nguồn: Tính toán của nhóm nghiên cứu dựa trên báo cáo của Bộ TN&MT
và bảng I/O năm 2012 và 2016
4. Kết luận và hàm ý chính sách
Nếu cấu trúc của nhóm ngành công
nghiệp chiếm trong GDP như hiện nay hoặc
ngày càng có xu hướng tăng lên không có
lợi cho nền kinh tế thậm chí gây thiệt hại to
lớn cho về môi trường, vì nhóm ngành công
nghiệp chế biến chế tạo lan tỏa thấp đến VA
nhưng lan tỏa mạnh đến phát thải nhà kính.
Nhóm ngành nông, lâm thủy sản lan tỏa tốt
đến thu nhập nhưng cũng lan tỏa cao đến
môi trường, như vậy cần công nghiệp hóa
nhóm ngành này theo hướng một nền nông
000
000
000
000
000
000
000
000
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21
2016
2012
9
nghiệp xanh. Trong khi chưa thay đổi được
cấu trúc sản xuất của nhóm ngành công
nghiệp cần đưa những quy chế nghiêm ngặt
về quản lý và xử lý chất thải. Cần tập trung
vào nhóm ngành công nghiệp chế biến sản
phẩm nông, lâm thủy sản vì nhóm ngành
này có hệ số lan tỏa đến VA cao và lan tỏa
đến nhập khẩu khá thấp. Nhóm ngành công
nghiệp chế biến này cần thay đổi quy trình
công nghệ để giảm thiểu chất thải ra môi
trường. Cơ cấu trong nội bộ ngành công
nghiệp đến năm 2025 được đề xuất ở Bảng
4, trong đó cơ cấu nhóm ngành khái thác và
công nghiệp chế biến khác giảm, ngành
công nghiệp chế biến sản phẩm nông
nghiệp tăng lên.
Bảng 4:Cấu trúc một số ngành trong ngành công nghiệp
Đơn vị tính: %
Ngành Cơ cấu hiện nay
Năm
2025
Năm
2030
Khai khoáng 17,2 16,9 16,4
Sản xuất thực phẩm, đồ uống và thuốc lá 11,8 12,4 13,0
Sản xuất các sản phẩm dệt may, trang phục và
đồ da 18,0 18,0 18,0
Sản xuất các sản phẩm dầu mỏ và khí đốt 3,9 3,9 3,9
Sản xuất các sản phẩm hóa chất 5,2 5,2 5,2
Sản xuất các sản phẩm khoáng phi kim loại 5,2 5,2 5,2
Sản xuất và chế biến kim loại và các sản phẩm
kim loại 8,4 8,4 8,4
Sản xuất thiết bị, máy móc 12,9 12,9 12,9
Công nghiệp chế biến chế tạo khác 17,3 17,1 17,0
Tổng số 100 100 100,0
Nguồn: Tổng cục Thống kê và đề xuất của tác giả
Nền công nghiệp Việt Nam thực chất là
nền công nghiệp gia công lắp ráp phụ thuộc
vào FDI rất lớn, hàm lượng VA rất thấp và
hàm lượng VA mà phía Việt Nam nhận được
còn thấp hơn nhiều, nhưng lại gây ô nhiễm
môi trường nhiều nhất. Như vậy, để phát
triển bền vững đến năm 2025 nhóm ngành
này cần giảm cấu trúc trong GDP 2 điểm
phần trăm (từ 34% GDP xuống 32%GDP) và
nhóm ngành dịch vụ cần tăng lên 44% GDP,
cơ cấu nhóm ngành nông, lâm và thủy sản
giữ nguyên không giảm nữa. Như vậy nền
kinh tế vừa tăng trưởng tốt vừa giảm thiểu
được ô nhiễm. Theo tính toán đến năm 2030
cơ cấu của 3 nhóm ngành nên là: Dịch vụ
chiếm 45%, công nghiệp xây dựng chiếm
30% và nông lâm thủy sản chiếm 14%, cơ
cấu này tốt cho tăng trưởng và giảm thiểu
được phát thải nhà kính. Chú ý rằng cơ cấu
nhóm ngành nông, lâm thủy sản tăng không
chỉ đối với nông nghiệp mà còn cần tập trung
cho ngành trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng
để nâng cao chất lượng rừng nhằm giảm một
cách hiệu quả lượng phát thải nhà kính của
nền kinh tế.
10
Hình 3: Cơ cấu 3 nhóm ngành trong GDP khuy
Chú thích: Chú ý rằng tổng cơ cấu củ
2010 TCTK tính GDP theo giá cơ bản không bao g
Nếu chính sách tập trung và công
nghiệp và xuất khẩu (tỷ trọng hàng xu
khẩu là sản phẩm công nghiệp chi
trọng lớn) có thể làm tăng một ch
mang tính thành tích như GDP nhưng
người dân và đất nước không đư
nhưng nguồn lực của nền kinh tế
càng yếu đi do luồng tiền chi trả sở h
nước ngoài ngày một lớn. Tốc độ
trưởng của luồng tiền chi trả sở hữ
hơn tăng trưởng GDP rất nhiều (năm 2017,
theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chi tr
sở hữu thuần ra nước ngoài gần 11 tỷ
chiếm 5% GDP và tỷ lệ GNI so với GDP ch
còn khoảng 95%).
Các doanh nghiệp FDI chiếm gần 60%
giá trị sản xuất của toàn ngành công
nghiệp (bao gồm khai thác) và 73% trong
giá trị xuất khẩu hàng hóa, như vậ
trúc 3 nhóm ngành lớn và cấu trúc trong
nội ngành công nghiệp hàm ý rằng c
nâng cao chất lượng thu hút FDI hướ
sự bền vững về kinh tế và môi trường. C
trúc trong Bảng 4 và Hình 3 có thể
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
ến nghị đến 2030
Đơn vị tính: %
a 3 nhóm ngành trong GDP nhỏ hơn 100%, vì t
ồm thuế sản phẩm.
ất
ếm tỷ
ỉ tiêu
ợc gì
ngày
ữu ra
tăng
u cao
ả
USD,
ỉ
y cấu
ần
ng tới
ấu
khiến
GDP tăng 2,1% đến năm 2025 và 2,5%
đến năm 2030. Việc thay đổi chất lư
rừng, cải tiến kỹ thuật để ngành nông
nghiệp phát triển “xanh” hơn có thể
chất thải nhà kính GHG giảm 4,5% đ
năm 2025 và 9% đến năm 2030 (trong
trường hơp hệ số hút CO2 của r
(LULUCF)6 tăng lên 0,02 và 0,04 điểm ph
trăm và hệ số phát thải của nông nghi
giảm 0,1 - 0,3%). Với việc thu hút và qu
lý FDI hiệu quả sẽ khiến luồng tiền chi tr
sở hữu giảm xuống.
Tài liệu tham khảo:
1. Albert O, Hirschman (1958),
Strategy of Economic Development
University PressVolume 10,
2. Asian Development Bank (2015),
Financial Soundness Indicators for Financial
Sector Stability in Vietnam, Manila;
3. Bui Trinh (2015), A study on the
Input-Output System for evaluation of
6 Land Use, Land-Use Change and Forestry
Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Công nghiệp và xây dựng
Dịch vụ
Thuế sản phẩm
ừ năm
ợng
khiến
ến
ừng
ần
ệp
ản
ả
The
, Yale
11
infrastructure development in Vietnam,
Kyoto University;
4. Bùi Trinh, Dương Mạnh Hùng (2009),
‘Hiệu quả đầu tư thông qua hệ số ICOR’,
Tạp chí kinh tế và dự báo, số 447, 2009;
5. Bui Trinh, Kiyoshi Kobayashi,
Nguyen Van Huan, Pham Le Hoa (2012),
An Integrated Framework for Multi-
Purposes Socio-Economic Analysis Based
on Input-Output Model, British Journal of
Economics, Finance and Management
Sciences, Vol 4;
6. Bui Trinh, Nguyen Viet Phong
(2013), A short note on Ras method
Advances in Management & Applied
Economics, vol, 3, no,4, 133-137;
7. Bui Trinh, and Pham, L, H, (2014),
Comparing the Economic Structure and
Carbon Dioxide Emission between China
and Vietnam, International Journal of
Economics and Financial Research, Vol, 3,
No, 3, pp: 31-38, 2017;
8. CHENERY, H, B,, WATANABE
(1958), Internationalcomparisons of the
structure of production, Econometrica, v,
26, n,, p, 487-521, 958;
9. Guo, D, and Hewings, G, J, D,
(2001), Comparative Analysis of China‟s
Economic Structures Between 1987 and
1997: An Input-Output Prospective,
Discussion Paper at Regional Economics
Applications Laboratory, Urbana;
10.HADDAD, E, A, (1997), Regional
inequality and structural changes in the
Brazilian economy, Illinois: University of
Illinois at Ur-ban-Champaign, Dissertation;
11. HADDAD, E, A,, HEWINGS, G, J, D,
(1998), TradeLiberalization and regional
competitivenessin the brazilian economy,
In: ADVANCEDSTUDIES INSTITUTE IN
REGIONALSCIENCE, 11, 1998, München,
Anais,München: Summer Institute;
12. Iris Claus, Kathy Li (2003), “New
Zealandís Production Structure: An
International Comparison”NZ TREASURY
WORKING PAPER 03/16;
13. Miller, R, E, and Blair, P, D, (1985),
Input-output analysis foundation and
extension, Prentice-Hall, Inc: New Jersey;
14. Ministry of National Resource and
Environment (2014), ‘The initial biennial
updated report of Viet Nam to the united
nations framework convention on climate
change’, Viet Nam publishing house of
natural resources, environment and
cartography, 2014;
15. Nguyễn Hồng Sơn (2010),Dịch vụ
Việt nam 2020: Hướng tới chất lượng, hiệu
quả và hiện đại, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội;
16. Sonis, M, and Hewings, G, J, D,
(1999), Economic landscapes; Multiplier
product matrix analysis for multiregional
input-output systems, Hitotsubashi Journal
of Economics, 40(1): 59-74;
17. To TrungThanh, Nguyen, V, P, and
Bui, T, (2016), ‘Some comparisons between
the vietnam and china’s economic
structure, policy implications’, Advances in
Management & Applied Economics, 6(3):
153-66;
18. Wassily, L, (1941), Structure of the
American economy, 1919-1929, Harverd
University Press: Cambridge Mass.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phan_tich_cau_truc_nhom_nganh_cong_nghiep_xay_dung_cho_phat.pdf