PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giá cả của hàng hoá dịch vụ luôn luôn biến động theo thời gian, tuy nhiên nếu như giá cả thay đổi quá nhanh chóng, nó có thể là một cú sốc đối với nền kinh tế. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là một chỉ số cơ bản đo lường giá cả hàng hoá dịch vụ và cho biết liệu nền kinh tế có bị lạm phát hoặc giảm phát hay không. Chỉ số giả cả thường rất được quan tâm theo dõi và nó đóng một vai trò quan trọng trong việc đưa ra các quyết định tài chính quan trọng.
Tuy trong năm 2007 Chính phủ Việt Nam đã kịp thời có hàng loạt các biện pháp nhằm kiềm chế tốc độ tăng CPI các tháng còn lại nhằm làm cho CPI 2007 sẽ không vượt quá tốc độ tăng trưởng kinh tế (8,5%). Nhưng, kết thúc 2007, bên cạnh những thành công, lần đầu tiên sau hơn 10 năm CPI tháng 12 năm 2007 tăng so với tháng 12 năm trước là hai chữ số: 12,63%, và Việt Nam đã không thực hiện được chỉ tiêu kế hoạch được Quốc hội thông qua: “CPI thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế”.
Trong năm 2008 vừa qua tình hình kinh tế nước ta có nhiều biến động như tình hình lạm phát lên cao vào những tháng đầu năm nhưng chúng ta lại phải lo lắng về nguy cơ giảm phát vào những tháng cuối năm. Cùng với sụ biến động của giá cả thì chỉ số giá tiêu dùng trong năm vừa qua cũng liên tục biến động vào tháng 5 chỉ số này tăng cao nhưng tố độ tăng lại chậm lại khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6 ở mức 2,14%, là mức thấp so với những tháng đầu năm 2008. Diễn biến chỉ số CPI tăng chậm đã mang lại nhiều hy vọng sáng sủa hơn của kinh tế nửa cuối năm.
CPI dù đã tăng chậm lại trong tháng 6, có thể nói là rất đáng mừng khi các biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ đã phát huy tác dụng, song nhìn nhận một cách công bằng, thì xu hướng chung từ rất nhiều năm nay là trong tháng 5, tháng 6, CPI bao giờ cũng tăng chậm điều này cho thấy CPI tăng chậm lại là có yếu tố khách quan chứ không phải hoàn toàn do tác động của giải pháp chủ quan. Một phân tích khác cho rằng, cơn sốt lương thực vào tháng này dịu đi so với tháng trước đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc giảm CPI do nhóm hàng lương thực, thực phẩm chiếm 42,8% trong chỉ số tính giá tiêu dùng. Hơn nữa, tuyên bố của Thủ tướng về việc giữ ổn định giá điện, nước từ nay đến cuối năm cộng với một số biện pháp tiếp tục tăng cung, giảm cầu cũng sẽ ảnh hưởng tích cực đến CPI 6 tháng cuối năm. Vậy đâu là nguyên nhân chính trong việc làm giảm tốc độ tăng của CPI vào những tháng cuối năm
CPI bình quân cả năm 2008 tăng 22,97 % so với cùng kỳ năm 2007. Vậy khi CPI tăng lên như thế sẽ tác động đến nền kinh tế trong nước? Những thắc mắc đó chúng ta sẽ tìm hiểu ro hơn trong bài chuyên đề này.
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mục tiêu chung
Phân tích chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam trong 2 năm 2007 và năm 2008
2. Mục tiêu cụ thể
Xem xét cách tính CPI và phương pháp tính CPI của nước ta.
Tìm hiểu những nguyên nhân làm chỉ số giá tăng cao vào năm 2007 và tăng đột biến trong những tháng đầu năm 2008 nhưng lại chậm lại vào những tháng cuối năm 2008.
Phân tích tình hình biến động lên của CPI trong năm 2007 và 2008.
Đánh giá tác động của CPI đến nền kinh tế và hoạt động kinh tế trong nước.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp thu thập và sử dụng số liệu thứ cấp từ các báo cáo kinh tế trên các báo, tạp chí như: báo công an nhân dân, báo thanh niên, thời báo Kinh tế Sài Gòn, internet trang số liệu của tổng cục thống kê, và một số nguồn khác như: Vietnamnet, google
2. Phương pháp phân tích số liệu: dựa vào các số liệu thứ cấp đã thu thập em sẽ thốgn kê lại so sánh và phân tích từ đó đưa ra các kết luận để làm rõ những mục tiêu đã đề ra.
IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu:Do kiến thức và thời gian có hạn nên trong chuyên đề này tôi chỉ nguyên cứu về chỉ số giá CPI của Việt Nam trong 2 năm 2007 và 2008.
Thời gian nghiên cứu: thu thập và phân tích số liệu CPI từ 2007-2008
************
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua phân tích chúng ta đã thấy 2 năm qua là thời gian biến động của CPI . Chỉ số giá liên tục tăng và với tốc độ nhanh trong năm 2007 và những tháng đầu năm 2008 làm cho đời sống người dân gặp nhiều khó khăn trong khi số liệu cho thấy kinh tế tăng trưởng vượt bậc, từ đó Chính Phủ đã phải để ra những nhóm giải pháp để kiềm chế lạm phát cụ thể là 8 nhóm giải pháp chống lạm phát vào ngày 17/4/2008 để ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững. Tuy nhiên lại tốc độ tăng của CPI có đà chậm lại và đôi khi còn giảm trong những tháng cuối năm 2008 và điều này đã được dự đoán trong tháng 6/2008 do những biến động trên thế giới đã làm xăng dầu giảm giá trong những tháng cuối năm một nguyên liệu đầu vào trong quá trình sản xuất. Từ đó chính phủ đã phải tung ra những giải pháp để ổn định nền kinh tế và đối phó với nguy cơ giảm phát. Với những biến động của CPI trong vòng 2 năm qua và những giải pháp của Chính Phủchng1 ta cũng sẽ kì vọng vào một tương lai sáng hơn của nền kinh tế trong năm 2009 này.
Luận văn dài 26 trang, chia làm 3 chương
26 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2161 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Phân tích CPI năm 2007 và năm 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giá cả của hàng hoá dịch vụ luôn luôn biến động theo thời gian, tuy nhiên nếu như giá cả thay đổi quá nhanh chóng, nó có thể là một cú sốc đối với nền kinh tế. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là một chỉ số cơ bản đo lường giá cả hàng hoá dịch vụ và cho biết liệu nền kinh tế có bị lạm phát hoặc giảm phát hay không. Chỉ số giả cả thường rất được quan tâm theo dõi và nó đóng một vai trò quan trọng trong việc đưa ra các quyết định tài chính quan trọng.
Tuy trong năm 2007 Chính phủ Việt Nam đã kịp thời có hàng loạt các biện pháp nhằm kiềm chế tốc độ tăng CPI các tháng còn lại nhằm làm cho CPI 2007 sẽ không vượt quá tốc độ tăng trưởng kinh tế (8,5%). Nhưng, kết thúc 2007, bên cạnh những thành công, lần đầu tiên sau hơn 10 năm CPI tháng 12 năm 2007 tăng so với tháng 12 năm trước là hai chữ số: 12,63%, và Việt Nam đã không thực hiện được chỉ tiêu kế hoạch được Quốc hội thông qua: “CPI thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế”.
Trong năm 2008 vừa qua tình hình kinh tế nước ta có nhiều biến động như tình hình lạm phát lên cao vào những tháng đầu năm nhưng chúng ta lại phải lo lắng về nguy cơ giảm phát vào những tháng cuối năm. Cùng với sụ biến động của giá cả thì chỉ số giá tiêu dùng trong năm vừa qua cũng liên tục biến động vào tháng 5 chỉ số này tăng cao nhưng tố độ tăng lại chậm lại khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6 ở mức 2,14%, là mức thấp so với những tháng đầu năm 2008. Diễn biến chỉ số CPI tăng chậm đã mang lại nhiều hy vọng sáng sủa hơn của kinh tế nửa cuối năm.
CPI dù đã tăng chậm lại trong tháng 6, có thể nói là rất đáng mừng khi các biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ đã phát huy tác dụng, song nhìn nhận một cách công bằng, thì xu hướng chung từ rất nhiều năm nay là trong tháng 5, tháng 6, CPI bao giờ cũng tăng chậm điều này cho thấy CPI tăng chậm lại là có yếu tố khách quan chứ không phải hoàn toàn do tác động của giải pháp chủ quan. Một phân tích khác cho rằng, cơn sốt lương thực vào tháng này dịu đi so với tháng trước đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc giảm CPI do nhóm hàng lương thực, thực phẩm chiếm 42,8% trong chỉ số tính giá tiêu dùng. Hơn nữa, tuyên bố của Thủ tướng về việc giữ ổn định giá điện, nước từ nay đến cuối năm cộng với một số biện pháp tiếp tục tăng cung, giảm cầu cũng sẽ ảnh hưởng tích cực đến CPI 6 tháng cuối năm. Vậy đâu là nguyên nhân chính trong việc làm giảm tốc độ tăng của CPI vào những tháng cuối năm
CPI bình quân cả năm 2008 tăng 22,97 % so với cùng kỳ năm 2007. Vậy khi CPI tăng lên như thế sẽ tác động đến nền kinh tế trong nước? Những thắc mắc đó chúng ta sẽ tìm hiểu ro hơn trong bài chuyên đề này.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục tiêu chung
Phân tích chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam trong 2 năm 2007 và năm 2008
Mục tiêu cụ thể
Xem xét cách tính CPI và phương pháp tính CPI của nước ta.
Tìm hiểu những nguyên nhân làm chỉ số giá tăng cao vào năm 2007 và tăng đột biến trong những tháng đầu năm 2008 nhưng lại chậm lại vào những tháng cuối năm 2008.
Phân tích tình hình biến động lên của CPI trong năm 2007 và 2008.
Đánh giá tác động của CPI đến nền kinh tế và hoạt động kinh tế trong nước.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp thu thập và sử dụng số liệu thứ cấp từ các báo cáo kinh tế trên các báo, tạp chí như: báo công an nhân dân, báo thanh niên, thời báo Kinh tế Sài Gòn, internet trang số liệu của tổng cục thống kê, và một số nguồn khác như: Vietnamnet, google…
Phương pháp phân tích số liệu: dựa vào các số liệu thứ cấp đã thu thập em sẽ thốgn kê lại so sánh và phân tích từ đó đưa ra các kết luận để làm rõ những mục tiêu đã đề ra.
PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu:Do kiến thức và thời gian có hạn nên trong chuyên đề này tôi chỉ nguyên cứu về chỉ số giá CPI của Việt Nam trong 2 năm 2007 và 2008.
Thời gian nghiên cứu: thu thập và phân tích số liệu CPI từ 2007-2008
PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP TÍNH CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG (CPI)
Khái niệm
Chỉ số giá tiêu dùng (hay được viết tắt là CPI, từ các chữ tiếng Anh Consumer Price Index là một chỉ tiêu là chỉ số tính theo phần trăm thống kê phản ánh xu hướng và mức độ biến động giá cả chung của một số lượng cố định các loại hàng hoá dịch vụ (được gọi là “rổ” hàng hoá) đã được chọn đại diện cho tiêu dùng, phục vụ đời sống bình thường của người dân, qua thời gian.
Đây là chỉ tiêu được sử dụng phổ biến nhất để đo lường mức giá và sự thay đổi của mức giá chính là lạm phát (một chỉ tiêu khác để phản ánh mức giá chung là Chỉ số giảm phát tổng sản phẩm trong nước hay Chỉ số điều chỉnh GDP).
Trước 1998, Việt Nam sử dụng chỉ số giá bán lẻ - RPI). Đên năm 1998 Việt Nam bắt đầu tính toán và sử dụng CPI để phản ánh mức độ tăng giá tiêu dung, từ đó đến nay, số lượng và quyền số của các mặt hàng trong rổ hàng hóa để tính CPI được cập nhật và mở rộng 5 năm một lần, thời điểm được chọn làm năm gốc cũng thay đổi theo: năm gốc 1995 với 296 mặt hàng, năm 2000 là 390 mặt hàng và năm 2005 là 494 mặt hàng. Các mặt hàng trong rổ hàng hóa CPI hiện được phân chia thành các nhóm, chi tiết theo các cấp: cấp 1: 10 nhóm, cấp 2: 32 nhóm, cấp 3: 86 nhóm, cấp 4: 237 nhóm. Hiện nay số liệu CPI của Việt Nam được chia làm 3 giai đoạn: 1998-2000, 2001-2005, 2006-nay.
Phương pháp tính chỉ số giá tiêu dùng và cách tính toán chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam
1.2.1. Phương pháp tính chỉ số giá tiêu dùng
Để tính toán chỉ số giá tiêu dùng người ta tính số bình quân gia quyền theo công thức Laspeyres của giá cả của kỳ báo cáo (kỳ t) so với kỳ cơ sở. Để làm được điều đó phải tiến hành như sau:
Cố định giỏ hàng hoá: thông qua điều tra, người ta sẽ xác định lượng hàng hoá, dịch vụ tiêu biểu mà một người tiêu dùng điển hình mua.
Xác định giá cả: thống kê giá cả của mỗi mặt hàng trong giỏ hàng hoá tại mỗi thời điểm.
Tính chi phí (bằng tiền) để mua giỏ hàng hoá bằng cách dùng số lượng nhân với giá cả của từng loại hàng hoá rồi cộng lại.
Lựa chọn thời kỳ gốc để làm cơ sở so sánh rồi tính chỉ số giá tiêu dùng bằng công thức sau:
CPIt = 100 x
Chi phí để mua giỏ hàng hoá thời kỳ t
Chi phí để mua giỏ hàng hoá kỳ cơ sở
Thời kỳ gốc sẽ được thay đổi trong vòng 5 đến 7 năm tùy ở từng nước.
Nếu muốn tính Chỉ số lạm phát của một thời kỳ, người ta áp dụng công thức sau:
Chỉ số lạm phát thời kỳ T = (CPI thời kỳ T - CPI thời kỳ T-1)/ CPI thời kỳ T-1
Trên thực tế người ta có thể xác định quyền số trong tính toán chỉ số giá tiêu dùng bằng cách điều tra để tính toán tỷ trọng chi tiêu của từng nhóm hàng hoá, dịch vụ so với tổng giá trị chi tiêu. Sau đó quyền số này được dùng để tính chỉ số giá tiêu dùng cho các thời kỳ sau. CPI thường được tính hàng tháng và hàng năm. CPI còn được tính toán cho từng nhóm hàng hóa hoặc một số nhóm hàng hóa tùy theo mục đích sử dụng.
1.2.2. Tính toán chỉ số giá tiêu dùng ở Việt nam
Việc tính toán CPI ở Việt nam do Tổng cục Thống kê đảm nhiệm. CPI của nước ta đã và đang được tính cho cả nước, 8 vùng kinh tế và 64 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Ở nước ta, quyền số tính chỉ số giá tiêu dùng được sử dụng cố định trong 5 năm và tính cho năm gốc so sánh (đồng nhất với năm cập nhật danh mục mặt hàng, dịch vụ đại diện). Trong thời kỳ 2006-2010 năm gốc so sánh là năm 2005, do đó giá kỳ gốc theo danh mục mặt hàng, dịch vụ đại diện mới, quyền số để tính chỉ số giá tiêu dùng đều phải là số liệu của năm 2005.
Quyền số năm 2005 được tổng hợp từ kết quả cuộc điều tra Mức sống dân cư năm 2004 của Tổng cục Thống kê. Ngoài ra, năm 2005 Tổng cục Thống kê đã tiến hành điều tra mẫu bổ sung tại 10 tỉnh, thành phố để phân chia các nhóm chi tiêu nhỏ hơn theo yêu cầu tính chỉ số giá tiêu dùng.
Trước đây nước ta áp dụng tính CPI theo công thức Laspeyres tính CPI dài hạn (kỳ báo cáo so với kỳ gốc) do công thức đó có nhiều ưu điểm như cách tính dễ hiểu, ngắn gọn. Tuy nhiên nó cũng có một số nhược điểm khi giải quyết vấn đề như: chọn mặt hàng mới thay thế mặt hàng cũ không còn bán trên thị trường; hàng thời vụ hoặc hàng thay đổi chất lượng do mọi so sánh đều phải thông qua một kỳ gốc đã chọn (ví dụ kỳ gốc 2000, kỳ gốc 2005...).
Để khắc phục những nhược điểm trên. Hiện nay, CPI được tính theo công thức Laspeyres chuyển đổi - hay phương pháp so sánh với kỳ gốc ngắn hạn. Công thức này hoàn toàn tương thích với công thức Laspeyres gốc. Dạng tổng quát như sau :
Trong đó:
Trong đó:
chỉ số giá tiêu dùng kỳ báo cáo t so với kỳ gốc 0;
: giá mặt hàng i kỳ báo cáo t; là giá mặt hàng i kỳ gốc;
: quyền số cố định năm 2005.
Chú ý: Điểm mới trong công thức là thay cho việc tính chỉ số cá thể mặt hàng kỳ báo cáo so trực tiếp với kỳ gốc bằng việc tính chỉ số cá thể mặt hàng kỳ báo cáo so với kỳ trước sau đó nhân với chỉ số cá thể mặt hàng đó kỳ trước so với năm gốc.
Trong đó:
: là chỉ số cá thể mặt hàng i tháng báo cáo so với kỳ gốc 0;
: là chỉ số cá thể mặt hàng i tháng trước tháng báo cáo so với kỳ gốc 0;
: là chỉ số cá thể mặt hàng i tháng báo cáo so với tháng trước;
+ Tính chỉ số giá các vùng kinh tế: Tính CPI khu vực nông thôn và thành thị của các vùng (8 vùng) từ báo cáo CPI khu vực nông thôn và thành thị của các tỉnh trong vùng, sau đó tính CPI vùng chung cho cả hai khu vực (8 vùng).
+ Tính chỉ số giá cả nước: Tính CPI khu vực nông thôn và thành thị cả nước, từ CPI khu vực nông thôn và thành thị của 8 vùng, sau đó tính chỉ số giá Chung cả nước từ chỉ số giá của hai khu vực.
Công thức tổng quát như sau:
Trong đó:
là chỉ số giá cả nước kỳ báo cáo so với kỳ gốc;
là chỉ số giá vùng 1 kỳ báo cáo so với kỳ gốc;
là chỉ số giá vùng 2 kỳ báo cáo so với kỳ gốc;
là chỉ số kỳ báo cáo của tỉnh k so với kỳ gốc;
k là tỉnh tham gia tính chỉ số, m là số tỉnh tham gia tính chỉ số giá;
là quyền số cố định của tỉnh k.
Lưu ý: Cấp tỉnh, thành phố tính CPI từ giá bình quân hàng tháng. Cấp vùng và cả nước tính CPI từ chỉ số giá của các địa phương, không tính trực tiếp từ giá bình quân vùng hoặc cả nước.
Các vấn đề gặp phải khi tính toán chỉ số giá tiêu dùng.
Do sử dụng giỏ hàng hoá cố định nên khi tính toán CPI có ba vấn đề chính dẫn đến hạn chế của CPI sau đây:
CPI không phản ánh được độ lệch thay thế vì nó sử dụng giỏ hàng hoá cố định. Khi giá cả một mặt hàng này tăng nhanh hơn so với các mặt hàng khác thì người tiêu dùng sẽ có xu hướng ít tiêu dùng những mặt hàng đã trở nên quá đắt đỏ mà tiêu dùng nhiều những hàng hoá đỡ đắt đỏ hơn. Yếu tố này làm CPI đã đánh giá cao hơn thực tế mức giá.
CPI không phản ánh được sự xuất hiện của những hàng hoá mới vì nó sử dụng giỏ hàng hoá cố định trong khi nếu có hàng hoá mới xuất hiện thì một đơn vị tiền tệ có thể mua được các sản phẩm đa dạng hơn. CPI không phản ánh được sự gia tăng sức mua này của đồng tiền nên vì thế lại đánh giá mức giá cao hơn thực tế.
Không phản ánh được sự thay đổi của chất lượng hàng hoá vì nếu mức giá của một hàng hoá cụ nào đó tăng nhưng chất lượng cũng tăng tương ứng thậm chí tăng hơn thì trên thực tế mức giá không tăng. Chất lượng hàng hoá dịch vụ nhìn chung đều có xu hướng được nâng cao nên CPI cũng đã phóng đại mức giá.
CHƯƠNG 2. PHÂN TÍCH CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG QUA CÁC NĂM 2007 – 2008
2.1. Chỉ số giá tiêu dùng năm 2007
2.1.1. Chỉ số giá tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2007
Chỉ số giá tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2007 so với các kì gốc, với cùng kì năm gốc và với tháng trước đó (đvt: %):
Tháng x/2007
Kì gốc
2005
Tháng x/2006
Tháng trước
Tháng 12/006
1
109.31
106.45
101.05
101.05
2
111,7
106,5
102,2
103,2
3
111,4
106,8
99,8
103,0
4
112,0
107,2
100,5
103,5
5
112.8
107.3
100.8
104.3
6
113,8
107,8
100,9
105,2
Bảng 1: So sánh tỉ số giá tiêu dùng của 6 tháng đầu năm 2007(đvt:%)
(nguồn: niên giám thống kê)
a) Nhận xét:
Giá tiêu dùng tháng 01/2007 tăng cao hơn mức tăng của các tháng trước.CPI của tháng 1 so với tháng trước tăng 1,1%, So với tháng 01/2006 giá tiêu dùng tháng này tăng 6,5%. Sự tăng lên của CPI trong tháng này phù hợp với tập quán tăng tiêu dùng vào tháng Chạp của năm âm lịch, do đó tăng đột biến ở các nhóm hàng phục vụ đón Tết như hàng lương thực, thực phẩm; đồ uống và thuốc lá; đồ dùng cá nhân và vật liệu xây dựng phục vụ việc hoàn thiện các công trình xây dựng dân dụng.
Trong tháng 2 CPI tăng so với tháng trước. Nhìn chung xu hướng tăng giá của 2 tháng đầu năm không có biến động bất thường so với xu hướng tăng giá của 2 tháng đầu các năm 2005 và 2006. So với tháng 01/2007 tăng 2,2%, nhóm hàng có tốc độ tăng cao nhất là hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,5% (trong đó: lương thực tăng 2,8% và thực phẩm tăng 3,8%); thứ đến là đồ uống và thuốc lá tăng 2,5; riêng phương tiện đi lại, bưu điện chỉ tăng 0,1%, trong đó phân nhóm bưu chính viễn thông giá ở mức gần như không thay đổi so với giá tháng trước. So với cuối năm 2006, giá tiêu dùng tháng 02/2007 tăng 3,2%. Tăng hơn so với kì gốc là 11,7%.
Tuy nhiên, giá tiêu dùng tháng 3/2007 lại giảm 0,2% so với tháng 2 trước đó. Trong các nhóm hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng, giá lương thực, thực phẩm tháng 3/2007 giảm 0,4% so với tháng trước và giá phân nhóm bưu chính, viễn thông tiếp tục giảm. Dù trong tháng 3/2007 CPI giảm hơn so với các tháng đầu năm nhưng so với tháng 12 năm trước, giá tiêu dùng tháng 3/2007 tăng 3% và tăng ở tất cả các nhóm hàng hóa.
Tình hình giảm giá tiêu dùng trong tháng thay đổi khi giá tiêu dùng tháng 4/2007 tăng 0,5% so với tháng trước và tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước. So với tháng trước, giá tiêu dùng tháng 4/2007 của hầu hết các nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng đều tăng, nhưng với các mức độ khác nhau. So với tháng 12/2006, giá tiêu dùng tháng 4/2007 tăng 3,5% và tăng ở tất cả các nhóm hàng hóa.
Giá tiêu dùng tháng 5/2007 lại tiếp tục tăng 0,77% so với tháng trước, tăng 4,32% so với tháng 12/2006 và tăng 7,31% so với cùng kỳ năm trước. So với tháng trước, giá tiêu dùng tăng ở tất cả các nhóm hàng hóa và dịch vụ, trong đó hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,04% (lương thực tăng 0,62%; thực phẩm tăng 0,95% và ăn uống ngoài gia đình tăng gần 2%, là tác nhân chính của tăng giá nhóm này cũng như tăng giá chung so với tháng trước). So với tháng 12/2006, giá tiêu dùng tháng 5/2007 cũng tăng ở tất cả các nhóm nhưng với mức độ khác nhau So với cùng kỳ năm trước, giá tiêu dùng tháng 5 của các nhóm có mức tăng cao có xu hướng tương tự như so với tháng 12/2006.
Giá tiêu dùng tháng 6/2007 tăng 0,9% so với tháng trước, tăng 5,2% so với tháng 12/2006 và tăng 7,8% so với cùng kỳ năm trước. Giá tiêu dùng tăng do giá của tất cả các nhóm hàng hóa đều tăng với các mức độ khác nhau.
Ä Nhìn chung thì chỉ số giá trong 6 tháng đầu năm 2007 tăng nhẹ và kết thúc 6 tháng đầu năm 2007 thì giá tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2007 này so với 6 tháng đầu năm trước, giá tiêu dùng bình quân tăng 7%, thấp hơn mức tăng bình quân 8,6% trong 6 tháng đầu năm 2005 và 7,9% trong 6 tháng đầu 2006 và thấp hơn mức tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong 6 tháng đầu năm này tuy tăng nhẹ nhưng xu hướng tăng lại mạnh: Mặc dù tốc độ tăng bình quân CPI 6 tháng đầu năm 2007 ở mức thấp hơn cùng kỳ các năm 2005 và năm 2006, nhưng các năm trước, CPI có xu hướng giảm từ mức 9,7% (năm 2005) và 8,8% (năm 2006) của tháng 1 xuống còn 7,5% của tháng 6 , còn 6 tháng đầu năm 2007 có xu hướng tăng từ mức 6,45% tháng 1/2007 lên 7,8% vào tháng 6/2007. Từ đó gây ra những lo ngại tới sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế.
Nguyên nhân khởi xướng của sự gia tăng này bắt đầu là từ cú sốc về năng lượng và một số vật liệu nhập khẩu tăng do giá thế giới tăng mạnh. Tiếp đến là sự gia tăng giá lương thực - thực phẩm do giá lương thực thế giới tăng, cùng với dịch cúm gia cầm bùng phát, thêm vào đó là một số nguyên nhân do đầu cơ tăng giá và yếu tố kỳ vọng. Lạm phát trong suốt 3 năm 6 tháng qua cho thấy, sự gia tăng giá lương thực - thực phẩm và nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng có đóng góp lớn vào biến động của CPI, nhất là giá thực phẩm, vì các nhóm này có quyền số lớn trong rổ CPI (quyền số của lương thực là 9,86%, của thực phẩm là 25,2%). Ngoài ra, các nhóm hàng khác cũng đều tăng cao trên dưới 10% (ngoại trừ giá bưu chính - viễn thông là giảm). Từ sự tăng giá của các nhóm hàng trong rổ hàng hoá tính CPI cho thấy, CPI của Việt Nam tại sao lại tăng ở mức cao trong thời gian tương đối dài, nhất là diễn biến 6 tháng đầu năm 2007
b) Nguyên nhân về sự tăng CPI trong 6 tháng đầu năm là:
CPI của Việt Nam tăng cao hơn các nước trong khu vực là do tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã vượt sản lượng tiềm năng, năng suất lao động thấp hơn các nước trong khu vực, nên CPI tăng cao chịu tác động chủ yếu của yếu tố tiền tệ.
Mặt khác, Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, thì sự gia tăng CPI như hiện nay là khó tránh khỏi, bởi hội nhập kinh tế buộc Việt Nam phải nới lỏng quản lý một số mặt hàng chủ lực, như xăng dầu, sắt thép, xi măng, điện, than... và cũng chịu tác động mạnh của giá thế giới.
Ngoài ra, giá lương thực gia tăng do tác động tăng giá lương thực thế giới tiếp tục tăng cao; trong nước dịch bệnh trong nông nghiệp tiếp tục diễn biến phức tạp; dịch cúm gia cầm bùng phát tại nhiều địa phương làm thiếu cung đẩy giá thực phẩm lên cao.
Tuy nhiên, với xu hướng tăng giá như 6 tháng đầu năm và các biến động khó lường về giá trên thị trường quốc tế để việc kiềm chế tốc độ tăng giá thấp hơn tốc độ tăng trưởng. Thì tổng mức luân chuyển hàng hóa bán lẻ trong 6 tháng đầu 2007 tăng 22,9%, cao hơn mức 19,2% của cùng kỳ năm 2006, thu nhập của người dân tăng cao cùng với nhu cầu tiêu dùng của xã hội tăng do đầu tư, khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế vẫn có sức ép gia tăng do:
(i) Nhiều khoản chi ngân sách tiếp tục tăng hơn so với những tháng đầu năm;
(ii) Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, tín dụng xóa đói, giảm nghèo tiếp tục được mở rộng.
(iii) luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam tiếp tục gia tăng.
Điều này tiếp tục tăng sức ép lên giá cả trong những tháng cuối năm 2007 và đầu năm 2008.
2.1.2 Chỉ số giá tiêu dùng của 6 tháng cuối năm 2007
Chỉ số giá tiêu dùng 6 tháng cuối năm 2007 so với các kì gốc, với cùng kì năm gốc và với tháng trước đó (đvt: %):
Tháng x/2007
Kì gốc
2005
Tháng x/2006
Tháng trước
Tháng 12/2006
7
114,87
108,39
100,94
106.19
8
115,50
108,57
100,55
106.78
9
116,09
108,80
100,51
107.32
10
116,95
109,34
100,74
108,12
11
118,39
110,01
101,23
109,45
12
121,83
112,63
102,91
112.63
Bảng 2: So sánh tỉ số giá tiêu dùng của 6 tháng cuối năm 2007(đvt:%)
(nguồn: niên giám thống kê)
Nhận xét:
Giá tiêu dùng tháng 7/2007 tăng 0,94% so với tháng trước, do giá tiếp tục tăng cao ở tất cả các nhóm hàng hoá và dịch vụ, trong đó giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống là nhóm có tỷ trọng lớn nhất trong tiêu dùng của dân cư tăng mạnh, đặc biệt là thực phẩm: riêng lương thực tăng 0,5% (tăng nhẹ so với mức tăng 0,4% của tháng 6), thực phẩm tăng 2,3% phương tiện đi lại, bưu điện chỉ tăng 0,2% (riêng phân nhóm bưu chính, viễn thông tiếp tục giảm 0,1%). So với tháng 12/2006, giá tiêu dùng tháng 7 tăng 6,2%, cao hơn mức tăng của tháng 6 là 1 điểm phần trăm, trong đó tất cả các nhóm hàng đều có xu hướng tăng cao hơn tháng 6, tăng cao nhất là nhà ở và vật liệu xây dựng (+9%), tiếp đến là các nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống ,đồ uống và thuốc lá, may mặc giày dép mũ nón, phương tiện đi lại, bưu điện ...
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 8 so với tháng trước tuy vẫn còn tăng 0,55% nhưng đã thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng 0,8-0,9% của những tháng vừa qua. Đây là kết quả bước đầu của việc biện pháp cấp bách kiềm chế tốc độ tăng giá thị trường. Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ thì giá lương thực tháng này so với tháng trước vẫn còn tăng 0,86% và giá thực phẩm tăng 0,92%; tiếp đến là giá dược phẩm và dịch vụ y tế, đồ uống và thuốc lá. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại chỉ tăng ở mức thấp, thậm chí giá dịch vụ bưu chính, viễn thông còn giảm 0,07%.
Tính chung 8 tháng, chỉ số giá tiêu dùng so với tháng 12/2006 đã tăng 6,78%. Nếu so với tháng 8/2006 thì giá tiêu dùng tháng này tăng 8,57% và tính chung 8 tháng chỉ số giá tiêu dùng tăng bình quân 7,37%/tháng, trong đó tăng cao nhất vẫn là nhóm hàng lương thực với tốc độ tăng bình quân 14,74%/tháng; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 10,01%; hàng thực phẩm tăng 7,20%; các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 3,74%-6,40%/tháng.
CPI tháng 9 tăng 0,51% so với tháng trước, thấp hơn mức tăng của tháng 8 và thấp nhất trong 5 tháng gần đây. Trong tháng 9, ngoài giá lương thực tiếp tục tăng cao, còn có hai nhóm hàng hóa và dịch vụ khác là: Thực phẩm tăng 1,26%, cao hơn tốc độ tăng 0,92% của tháng trước và nhóm hàng dược phẩm và dịch vụ y tế tăng 0,91% so với tốc độ tăng 0,65% của tháng trước. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại tăng phổ biến 0,3-0,4%, trong đó nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,43%; giáo dục tăng 0,39%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,25%. Trong tháng này đã có 2 nhóm hàng hóa và dịch vụ giảm giá, đó là phương tiện đi lại, bưu điện giảm 0,84%; văn hóa, thể thao giải trí giảm 0,89%. Đáng lưu ý là giá mũ bảo hiểm tháng này tăng tới 6,43%.
Tính chung 9 tháng, chỉ số giá tiêu dùng so với tháng 12/2006 tăng 7,32%. Nếu so với bình quân 9 tháng năm 2006 thì chỉ số giá tiêu dùng bình quân 9 tháng năm nay tăng 7,53%, trong đó tăng cao nhất vẫn là nhóm hàng lương thực với tốc độ tăng bình quân 14,9%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 9,95%; hàng thực phẩm tăng 7,86%; các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 3,44-6,37%.
So với tháng trước giá tiêu dùng tháng 10 tăng 0,74%, trong đó giá nhóm nhà ở, vật liệu xây dựng tăng 1,51%; giá hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,09%. So với tháng 12/2006 giá tiêu dùng 10 tháng tăng 8,12%, trong đó thực phẩm tăng 13,52%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 11,32%; lương thực tăng 9,15%; dược phẩm, y tế tăng 6,06%; các nhóm còn lại tăng phổ biến ở mức 5% hoặc thấp hơn.
Giá tiêu dùng tính bình quân cho 10 tháng năm nay đã tăng 7,71% so với bình quân 10 tháng năm trước, trong đó lương thực tăng 15,01%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 10,13%; thực phẩm tăng 8,49%; các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng ở mức phổ biến từ 3-6%.
Trong tháng 11 giá của nhóm hàng lương thực và thực phẩm; nhà ở và vật liệu xây dựng tiếp tục tăng cao, là nhân tố chủ yếu đưa giá tiêu dùng tháng 11 tăng 1,23% so với tháng trước, trong đó giá lương thực tăng 2,66%; thực phẩm tăng 1,95% (giá thịt gia súc tăng 3,17%, gia cầm tăng 1,41%); giá nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 1,87%. Giá tiêu dùng tháng 11 so với tháng 12 năm trước tăng 9,45%.
Tuy nhiên, cần đặc biệt quan tâm là giá tiêu dùng bình quân 11 tháng chỉ tăng 7,92% so với bình quân 11 tháng năm 2006, trong đó giá bình quân 11 tháng của nhóm hàng lương thực tăng 14,98%; thực phẩm tăng 9,17%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 10,48%; các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác chỉ tăng 3-6%; riêng dịch vụ bưu chính, viễn thông giảm 2,74%.
Giá tiêu dùng năm nay diễn biến phức tạp và có xu hướng tăng cao ở các tháng cuối năm. Giá tiêu dùng tháng 12 năm nay tăng 2,91% so với tháng trước.So với tháng 12 năm 2006, giá tiêu dùng năm 2007 tăng 12,63%, trong đó nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 18,92%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 17,12%; các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng từ 1,69% đến 7,27%.
Giá tiêu dùng bình quân năm 2007 so với năm 2006 tăng 8,3%, trong đó nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 11,16%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 11,01%; các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác chỉ tăng 3,18-6,15%.
Theo số liệu Bộ Kế hoạch và Đầu tư công chỉ số giá tiêu dùng (CPI)của tháng 12/2007 tăng tới 2,91% so với tháng 11, nâng tổng mức lạm phát của cả năm 2007 lên tới 12,63%, vượt xa mức tăng trưởng 8,55% và là mức tăng cao kỷ lục trong suốt 10 năm qua.
b) Nguyên nhân về sự tăng CPI trong 6 tháng cuối năm 2007 là:
Giá tiêu dùng tháng 12 tăng cao bên cạnh nguyên nhân chủ yếu là do giá lương thực, thực phẩm tăng cao thì việc tăng giá xăng dầu hồi tháng 11 đã khiến rất nhiều mặt hàng tăng giá theo, trong đó tiêu biểu là nhóm phương tiện đi lại, bưu điện tăng tới 4,38%.
Nguyên nhân khách quan, của việc giá cả leo thang trong năm 2007 là trình độ phát triển của nền kinh tế thấp, sức cạnh tranh còn hạn chế, chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế chưa cao, vì thế rất dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tác động từ bên ngoài.
Giá thị trường thế giới liên tục tăng cao trong suốt thời gian từ đầu năm đến nay và vẫn trong xu thế tăng đã kéo giá trong nước tăng theo: Đây là yếu tố khó tránh khỏi trong điều kiện nền kinh tế nước ta đã hội nhập với kinh tế thế giới trong điều kiện quy mô của nền kinh tế nhỏ, mặt khác trong rổ hàng hóa nhập khẩu, tỷ trọng nhập khẩu nguyên liệu quá mà à những mặt hàng thường bị “sốt” giá, nên mỗi khi những mặt hàng này “sốt” giá thì biến động giá ấy cũng kéo theo vào thị trường trong nước làm biến động giá trong nước.
Bên cạnh đó, các yếu tố bất khả kháng như thiên tai diễn biến phức tạp, dịch bệnh ở gia súc, gia cầm tuy được khống chế trong một số tháng qua, nhưng đã xuất hiện trở lại ở một số tỉnh và đang tiềm ẩn nguy cơ bùng phát dịch trở lại; giá thức ăn chăn nuôi, giống vật nuôi tăng cao cũng đã ảnh hưởng tới việc khôi phục và phát triển đàn gia súc, gia cầm; thời tiết không thuận lợi nên lượng đánh bắt hải sản giảm... dẫn đến nguồn cung thực phẩm thiếu hụt khiến giá một số thực phẩm vẫn ở mức cao.
Nguyên nhân chủ quan.
công tác phân tích dự báo còn nhiều hạn chế, chưa lường hết được sự biến động giá cả của thị trường thế giới, nhất là giá xăng dầu.
Chính sách điều hành tiền tệ đã tác động nhất định đến chỉ số giá tiêu dùng. Dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều, tuy tạo cơ hội lớn cho phát triển kinh tế của đất nước, nhưng cũng đã gây sức ép tăng giá đồng Việt Nam, đồng thời góp phần làm tăng tổng phương tiện thanh toán; việc điều hành các công cụ tiền tệ để rút tiền từ lưu thông về nhằm trung hòa với lượng tiền đưa ra mua ngoại tệ chưa thật nhịp nhàng, ăn khớp đã tạo sức ép tăng giá.
Ngoài ra còn các yếu tố khác như thu nhập của dân cư tăng 5,8% so với năm 2006 (đã trừ yếu tố trượt giá) và Nhà nước chủ động điều chỉnh lộ trình giá thị trường đối với một số loại hàng hóa, vật tư cơ bản. Trong khi đó, giá thị trường còn bị tác động của các yếu tố tâm lý khá mạnh trong thời gian vừa qua.
2.2. Chỉ số giá tiêu dùng của năm 2008
2.21. Chỉ số giá tiêu dùng của 6 tháng đầu năm 2008
Chỉ số giá tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2008 so với các kì gốc, với cùng kì năm gốc và với tháng trước đó (đvt: %):
Tháng x/2008
Kì gốc
2005
Tháng x/2007
Tháng trước
Tháng 12/2007
1
124.73
114.11
102.38
102.38
2
129,17
115,67
103,56
106,02
3
133,04
119,39
102,99
109,19
4
135,96
121,42
102,20
111,60
5
141,28
125,20
103,91
115,96
6
144,30
126,80
102,14
118,44
Bảng 3: So sánh tỉ số giá tiêu dùng của 6 tháng đầu năm 2008(đvt:%)
(nguồn: niên giám thống kê)
Trong tháng 1/2008, nhu cầu tiêu dùng tháng giáp Tết nguyên đán tăng mạnh, cùng với sức mua tăng do tăng lương, tiền thưởng và lượng kiều hối cuối năm về nhiều đã ảnh hưởng đến tốc độ tăng giá ở hầu hết các nhóm hàng hoá và dịch vụ. Giá tiêu dùng cả nước tháng này tăng 2,38% so với tháng trước, trong đó nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng cao nhất ở mức 3,76%; giá lương thực tăng 3,35% do giá lúa và giá gạo xuất khẩu tăng; giá thực phẩm tăng 3,75% do chăn nuôi bị ảnh hưởng của dịch bệnh dẫn đến nguồn cung chưa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong dịp Tết, nhà ở và vật liệu xây dựng , đồ uống và thuốc lá , hàng may mặc, mũ nón và giầy dép cũng tăng đáng kể, các nhóm hàng chủ yếu khác tăng nhẹ ở mức từ 0,06% đến 0,85%; riêng bưu chính viễn thông giảm mạnh, ở mức 8,6% do giá dịch vụ viễn thông của mạng di động VNPT giảm. So với tháng 01/2007, giá tiêu dùng tháng này tăng 14,11%, cao hơn hai lần mức tăng 6,5% của cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá 2 tháng năm 2008 so với cùng kỳ năm 2007 114,89% tăng 14,89%.
Giá tiêu dùng tháng 02/2008 tăng 3,56% so với tháng trước, cao hơn mức tăng giá tiêu dùng 2,38% của tháng 01/2008 so với tháng 12/2007. Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng cao nhất, ở mức 6,18% và là mức tăng giá cao nhất so với mức tăng giá của nhóm này các tháng gần đây. Trong tăng chủ yếu là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống, giá thực phẩm tăng 7,53%; ăn uống ngoài gia đình tăng 5,7%; lương thực tăng 3,25%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng khác tăng không nhiều. Riêng giá phân nhóm dịch vụ bưu chính viễn thông tiếp tục giảm 0,22% so với tháng trước. So với tháng 12/2007, giá tiêu dùng tháng 02/2008 tăng 6,02% và bình quân hai tháng đầu năm giá tiêu dùng đã tăng 14,89% so với cùng kỳ năm trước, trong đó tăng cao nhất vẫn là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống.
Chỉ số giá quí I năm 2008 so với cùng kỳ năm 2007 là 116,38% tăng 16,38%
Giá tiêu dùng tháng 3/2008 tăng thấp hơn mức tăng của tháng trước nhưng nhiều mặt hàng vẫn đứng ở mức giá cao. So với tháng trước, giá tiêu dùng tháng 3/2008 tăng 2,99%. Tuy nhiên, đây vẫn là mức tăng cao và bất thường so với mức tăng giá tiêu dùng tháng 3 của các năm trước đây. Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ tháng này, tăng mạnh đẩy giá lên là các nhóm hàng lương thực; phương tiện đi lại, bưu điện; nhà ở và vật liệu xây dựng với các mức tăng so với tháng trước từ 10,5% - 3,55%; các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác chỉ tăng ở mức 0,3%-1,5%. So với tháng 12/2007, giá tiêu dùng 3 tháng đã tăng 9,19%, trong đó tăng chủ yếu là hàng lương thực, thực phẩm, nhà ở, vật liệu xây dựng, phương tiện đi lại, bưu điện. Các nhóm khác tăng phổ biến từ 0,6% đến 4,4%. Bình quân mỗi tháng trong quí I năm nay, giá tiêu dùng đã tăng ở mức 16,38% so với quí I năm trước.
Chỉ số giá 4 tháng năm 2008 so với cùng kỳ năm 2007 là 117,61%
Giá tiêu dùng tháng 4/2008 đã tăng thấp hơn mức tăng của các tháng trước nhưng vẫn còn tăng và nhiều mặt hàng đứng ở mức giá cao. So với tháng trước, giá tiêu dùng tháng 4/2008 tăng 2,2%. Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ, tăng mạnh và góp phần đẩy giá lên cao vẫn là giá các nhóm lương thực; nhà ở và vật liệu xây dựng; phương tiện đi lại, bưu điện và thực phẩm. So với tháng 12 năm 2007, giá tiêu dùng tháng 4 tăng 11,6%, trong đó hàng lương thực tăng 25,1%; thực phẩm tăng 15,6%; nhà ở, vật liệu xây dựng tăng 10,8%; phương tiện đi lại, bưu điện tăng 9,8%; các nhóm khác tăng phổ biến từ 1% đến trên 5%. So với tháng 4 năm 2007, giá tiêu dùng tháng 4 năm 2008 tăng 21,42%. Giá tiêu dùng bình quân 4 tháng đầu năm 2008 tăng 17,6% so với 4 tháng đầu năm trước. giá cả có dấu hiệu đi xuống chủ yếu là do tác động tức thời của các biện pháp hành chính Chính phủ đưa ra thời gian qua
Chỉ số giá 5 tháng năm 2008 so với cùng kỳ năm 2007 là 119,09%
CPI tháng 5 tăng 3,91%
Giá cả thị trường đang diễn biến phức tạp. Giá tiêu dùng tháng 5/2008 so với tháng trước tăng 3,91%, tăng cao nhất trong 5 tháng đầu năm nay, Đây là điều đáng lo ngại vì tháng có CPI tăng cao nhất thường rơi vào dịp Tết Nguyên đán (tháng 2, CPI tăng 3,56%). đáng chú ý là chỉ số giá tiêu dùng tăng cao tại các vùng phía Nam với mức từ 4% đến trên 6% (Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ tăng 4,33%, Tây Nguyên tăng 6,24%, Đông Nam Bộ tăng 4,5%, đồng bằng sông Cửu Long tăng 5,66%). Như vậy, tính chung trong 5 tháng đầu năm 2008, CPI tăng 15,96%. So với tháng 5-2007, CPI tháng 5-2008 đã tăng 25,2%, chủ yếu vẫn do tác động tăng giá của nhóm lương thực, thực phẩm và tác động của nhóm hàng vật liệu xây dựng như thép, xi măng... Giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng cao nhất với 7,25%, trong đó lương thực tăng đột biến ở mức 22,19%; giá thực phẩm tăng 2,28% do chi phí đầu vào vẫn tiếp tục tăng. Giá các nhóm hàng hoá và dịch vụ khác tăng phổ biến từ 0,3% đến dưới 2%, tuy vẫn ở mức cao nhưng đã giảm so với mức tăng 2,62% của tháng trước. So với tháng 12/2007, giá tiêu dùng tháng 5/2008 tăng 15,96%. So với cùng kỳ năm 2007, giá tiêu dùng tháng này tăng 25,2%. Giá tiêu dùng bình quân 5 tháng đầu năm 2008 tăng 19,09% so với 5 tháng đầu năm 2007.
Chỉ số giá 6 tháng năm 2008 so với cùng kỳ năm 2007 là 120,34%
Giá tiêu dùng tháng 6/2008 đã tăng chậm lại, ở mức tăng 2,14% so với tháng trước. Đây là tháng có mức tăng thấp nhất trong 6 tháng đầu năm nay, nhưng vẫn là mức tăng cao nhất so với chỉ số giá tháng 6 của một số năm gần đây. Trong các nhóm hàng hoá và dịch vụ, giá lương thực tháng 6 /2008 tuy tăng thấp hơn nhiều so với mức tăng 22,19% của tháng trước nhưng vẫn là nhóm hàng có mức tăng cao nhất với 4,29%. Các nhóm hàng hoá, dịch vụ có giá tăng thấp hơn mức tăng của tháng trước gồm: Đồ uống và thuốc lá, may mặc, mũ nón, giầy dép, văn hoá, thể thao, giải trí, Giá nhóm hàng phương tiện đi lại, bưu điện giữ mức tăng 0,35%, trong đó bưu chính viễn thông giảm 0,1%. So với tháng 12 năm 2007, giá tiêu dùng tăng 18,44% (cùng kỳ năm trước tăng 5,2%), trong đó các nhóm hàng hoá có giá tăng cao là: Lương thực, thực phẩm, nhà ở và vật liệu xây dựng, phương tiện đi lại, bưu điện, các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng từ 2,12% đến 8,21%. So với giá tiêu dùng bình quân 6 tháng đầu năm 2007, giá tiêu dùng bình quân 6 tháng đầu năm nay tăng 20,34% (cùng kỳ năm trước tăng 7%).
Trong 6 tháng đầu năm 2998 thì CPI tăng đột biến trong những tháng đầu năm nhật là trong tháng 5 nhưng sau đó lại tăng chạm lại trong tháng 6 theo nhận định đó là do:
Những giải pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ đề ra là phù hợp và đã phát huy tác dụng.
Nền kinh tế 6 tháng đầu năm gặp nhiều khó khăn, nhất là tin đồn về khủng hoảng tiền tệ xuất hiện thời điểm tháng 4
Theo xu hướng chung từ rất nhiều năm nay là trong tháng 5, tháng 6, CPI bao giờ cũng tăng chậm. Điều này cho thấy CPI tăng chậm lại là có yếu tố khách quan chứ không phải hoàn toàn do tác động của giải pháp chủ quan.
2.2.2. Chỉ số giá tiêu dùng của 6 tháng cuối năm 2008
Chỉ số giá tiêu dùng 6 tháng cuối năm 2008 so với các kì gốc, với cùng kì năm gốc và với tháng trước đó (đvt: %):
Tháng x/2008
Kì gốc
2005
Tháng x/2007
Tháng trước
Tháng 12/2007
7
145,93
127,04
101,13
119,78
8
148,21
128,32
101,56
121,65
9
148,48
127,90
100,18
121,87
10
148,20
126,72
99,81
121,64
11
147,07
124,22
99,24
120,71
12
146,07
119,89
99,32
119,89
Bảng 4: So sánh tỉ số giá tiêu dùng của 6 tháng cuối năm 2008(đvt:%)
(nguồn: niên giám thống kê)
a) Nhận xét:
Chỉ số giá 7 tháng năm 2008 so với cùng kỳ nam 2007 là: 121,28%. Giá tiêu dùng bình quân 7 tháng năm 2008 so với 7 tháng năm 2007 tăng 21,28%.
Giá tiêu dùng tháng 7/2008 tăng 1,13% so với tháng trước. Đây là tháng có tốc độ tăng giá thấp nhất trong vòng 7 tháng đầu năm nay. Trong đó các nhóm hàng hoá và dịch vụ có giá tăng cao hơn mức tăng chung là: Dược phẩm, y tế tăng, nhà ở và vật liệu xây dựng, thiết bị và đồ dùng gia đình... Giá các nhóm hàng hoá và dịch vụ khác giảm hoặc tăng thấp hơn mức tăng chung, gồm: Giáo dục, hàng ăn và dịch vụ ăn uống, thực phẩm... đáng lưu ý là mặt hàng lương thực giảm 0,37%, do giảm lượng nhập khẩu gạo từ cơn sốt gạo của những tháng trước. So với cùng kỳ năm trước, giá tiêu dùng tháng 7/2008 tăng 27,04%. So với tháng 12/2007, giá tiêu dùng tháng 7/2008 tăng 19,78%.
Đến tháng 7 thì các giải pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ tiếp tục phát huy tác dụng. Do đó, giá tiêu dùng đã giảm dần. Tuy nhiên, giá xăng dầu tăng sẽ tác động đến giá của nhiều hàng hoá và dịch khác trong những tháng tới.
Chỉ số giá 8 tháng năm 2008 so với cùng kỳ năm 2007 là: 122,14%. Giá tiêu dùng bình quân 8 tháng năm 2008 so với 8 tháng năm 2007 tăng 22,14%.
Giá tiêu dùng tháng 8/2008 tăng 1,56% so với tháng trước, cao hơn mức tăng 1,13% của tháng 7 do giá xăng dầu tăng cuối tháng 7 đã ảnh hưởng đến giá tiêu dùng tháng này, trong đó giá nhóm phương tiện đi lại, bưu điện chịu tác động trực tiếp nên tăng mạnh ở mức 9,07% (Tháng 7 tăng 0,55%), giá của các nhóm hàng hoá và dịch vụ khác tăng nhẹ. Nhóm hàng hoá và dịch vụ có giá giảm hoặc tăng thấp hơn mức tăng của tháng trước là: Lương thực giảm, thực phẩm tăng, tiếp đến là: đồ uống và thuốc, may mặc, mũ nón, giày dép…So với cùng kỳ năm trước, giá tiêu dùng tháng 8/2008 tăng 28,32%; so với tháng 12/2007, giá tiêu dùng tháng 8/2008 tăng 21,65%.
Chỉ số giá 9 tháng năm 2008 so với cùng kỳ năm 2007 là: 122,76%. Giá tiêu dùng bình quân 9 tháng 2008 so với 9 tháng năm 2007 tăng 22,76%.
Giá tiêu dùng tháng 9/2008 tăng 0,18% so với tháng trước, là mức tăng thấp nhất trong vòng 17 tháng gần đây và cũng là mức tăng thấp nhất so với mức tăng tháng 9 của các năm từ 2004 đến nay. Giá tiêu dùng tháng 9 tăng chậm lại là do 2 nguyên nhân chính sau :
Giá trên thị trường thế giới của một số hàng hoá nước ta nhập khẩu đã giảm và sản xuất nông nghiệp trong nước được mùa.
Do những nỗ lực của các cấp, các ngành trong việc thực hiện 8 nhóm giải pháp của Chính phủ.
Tuy nhiên, trong 9 tháng vừa qua giá hàng hoá và dịch vụ đã tăng với tốc độ cao. Giá tiêu dùng tháng 9/2008 so với tháng 12 năm 2007 tăng 21,87%; so với cùng kỳ năm trước tăng 27,9%.
Chỉ số giá 10 tháng năm 2008 so với cùng kỳ năm 2007 là:123,15. Giá tiêu dùng bình quân 10 tháng năm 2008 so với 10 tháng năm 2007 tăng 23,15%
Giá tiêu dùng tháng 10/2008 giảm 0,19% so với tháng trước, là lần giảm đầu tiên kể từ đầu năm trở lại đây. Nguyên nhân chủ yếu một mặt do 8 nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ tiếp tục phát huy tác dụng; mặt khác do giá cả nhiều mặt hàng trên thế giới giảm đã tác động đến giá tiêu dùng trong nước.
Các nhóm hàng hoá và dịch vụ có giá giảm là: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,42%. Lương thực giảm 1,91%tiếp đến là : nhà ở và vật liệu xây dựng, phương tiện đi lại, bưu điện. Giá các nhóm hàng hoá và dịch vụ khác tăng nhẹ ở mức dưới 1%: Đồ uống và thuốc lá, may măc, giày dép và mũ nón, thiết bị và đồ dùng gia đình…So với cùng kỳ năm trước, giá tiêu dùng tháng 10/2008 tăng 26,72%; so với tháng 12/2007, giá tiêu dùng tháng 10/2008 tăng 21,64%.
Chỉ số giá 11 tháng năm 2008 so với cùng kỳ năm 2007 là:123,25%. Giá tiêu dùng bình quân 11 tháng năm 2008 so với 11 tháng năm 2007 tăng 23,25%
Sau tháng 10/2008 thì giá tiêu dùng tháng 11/2008 tiếp tục giảm 0,76% so với tháng trước, nguyên nhân chủ yếu là do :
Giá của các mặt hàng đã đứng ở mức cao.
Nhu cầu tiêu dùng giảm.
Lượng tồn kho của một số mặt hàng nhiều.
Giá một số mặt hàng trên thế giới giảm.
Đặc biệt giá dầu thô giảm mạnh đã tác động đến giá tiêu dùng trong nước.
Mặt khác, do 8 nhóm giải pháp của Chính phủ tiếp tục phát huy tác dụng.
Trong các nhóm hàng hoá và dịch vụ có giá giảm so với tháng trước, giá nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng giảm nhiều nhất với 4,86%; tiếp đến là nhóm phương tiện đi lại, bưu điện, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống. Giá các nhóm hàng hoá và dịch vụ khác tăng nhẹ ở mức dưới 1% là: Đồ uống và thuốc lá, may mặc, giày dép và mũ nón, thiết bị và đồ dùng gia đình… So với cùng kỳ năm trước, giá tiêu dùng tháng 11/2008 tăng 24,22%; so với tháng 12/2007, giá tiêu dùng tháng 11/2008 tăng 20,71%.
Chỉ số giá bình quân năm 2008 so với năm 2007 là: 122,97%. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm tăng 22,97%.
Giá tiêu dùng tháng 12 năm 2008 so với tháng trước tiếp tục giảm 0,68%, trong đó các nhóm hàng hoá và dịch vụ có giá giảm là: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống, nhà ở và vật liệu xây dựng, phương tiện đi lại, bưu điện. Giá các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng nhẹ như : May mặc, mũ nón, giày dép.đồ uống và thuốc lá …
Giá tiêu dùng năm 2008 nhìn chung tăng khá cao và diễn biến phức tạp, khác thường so với xu hướng giá tiêu dùng các năm trước. Giá tăng cao ngay từ quý I và liên tục tăng lên trong quý II, quý III, nhưng các tháng quý IV liên tục giảm (so với tháng trước, tháng 10 giảm 0,19%; tháng 11 giảm 0,76%, tháng 12 giảm 0,68%) nên giá tiêu dùng tháng 12 năm 2008 so với tháng 12 năm 2007 tăng 19,89%.
b) Nguyên nhân làm giảm tốc độ tăng của CPI nhưng tháng cuối năm.
Mặc dù giá tiêu dùng năm 2008 tăng khá cao, nhưng xu hướng diễn biến theo chiều hướng tích cực vào các tháng cuối năm là do:
Kết quả thực hiện đồng bộ 8 nhóm giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, trong đó ưu tiên mục tiêu kiềm chế lạm phát với giải pháp thắt chặt tiền tệ là nguyên nhân cơ bản giữ cho lạm phát thấp hơn 20%. Điều này cũng khẳng định những giải pháp mà Chính phủ đề ra là hoàn toàn đúng hướng, kịp thời và đạt kết quả tích cực, giá tiêu dùng đã giảm dần từ tháng 10 năm 2008.
Giá dầu thô và giá nhiều loại nguyên liệu hàng hoá khác trên thị trường thế giới nước ta nhập khẩu với khối lượng lớn cũng đã giảm mạnh vào những tháng cuối năm, tạo thuận lợi cho giảm giá đầu vào của sản xuất trong nước.
Tình hình sản xuất trong nước những tháng cuối năm cũng đã bớt khó khăn hơn, do tiếp cận các nguồn vốn và mức độ giải ngân khá hơn.
2.3. Những nguyên nhân tác động đến CPI
2.3.1. Năm nguyên nhân làm cho giá tiêu dùng tăng đột biến trong những tháng đầu năm 2008 :
Về tiền tệ, năm 2007 tổng dư nợ cho vay tăng tới 53,8%, cao gấp rưỡi tốc độ tăng vốn huy động và cao gấp trên 6 lần tốc độ tăng GDP. Năm tháng đầu năm 2008, dư nợ cho vay tăng 18%, cao gấp trên 4 lần tốc độ tăng vốn huy động và cao gấp khoảng 2,5 lần tốc độ tăng GDP. Mãi tới 19/5/2008 mới bỏ trần lãi suất huy động, nên tiền từ lưu thông vào ngân hàng có thể tăng cao hơn tiền từ ngân hàng ra lưu thông.
Về chi phí đẩy vẫn tiếp tục tăng cao, trong đó có chi phí vay vốn, chi phí thuê nhà xưởng, chi phí nguyên nhiên vật liệu, vận chuyển, làm tăng chi phí sản xuất, lưu thông hàng hoá, dịch vụ.
Về cầu kéo, nếu tính theo giá thực tế, tổng mức bán lẻ hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng tăng tới 29,5%. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá, tổng mức bán lẻ vẫn còn tăng trên 10%, tuy tăng thấp hơn mấy năm trước, nhưng vẫn cao gấp rưỡi tốc độ tăng trưởng kinh tế.
“Nhập khẩu lạm phát” tiếp tục gia tăng do hàng nhập khẩu tính bằng ngoại tệ tăng, do tỷ giá VND/ngoại tệ của nhiều nước tăng mà nước ta nhập khẩu lớn; riêng tỷ giá VND/USD tăng thấp, có thời gian ngắn giảm, nhưng gần đây lại tăng trở lại.
Một lượng tiền lớn đầu tư vào chứng khoán trong năm trước và đầu tư vào bất động sản từ năm trước đến đầu năm nay, nay do hai thị trường này giảm giá nên đã chuyển sang thị trường hàng hoá, dịch vụ, tạo áp lực tăng giá tiêu dùng.
2.3.2. Những nguyên nhân làm tốc độ tăng giảm lại trong những tháng cuối năm:
Nguyên nhân của tốc độ tăng có chiều hướng giảm một phần phản ánh đúng chu kỳ cùng thời điểm mọi năm cũng giảm do cao điểm về nhập khẩu cho sản xuất và chi tiêu cho đời sống đã rơi vào những tháng đầu năm.
Do việc áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ trong nước, những biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ đã phát huy tác dụng. Hơn nữa, tuyên bố của Thủ tướng về việc giữ ổn định giá điện, nước cộng với một số biện pháp tiếp tục tăng cung, giảm cầu lý lo ảnh hưởng tích cực CPI 6 tháng cuối năm.
Kinh tế toàn cầu suy thoái và biến động giảm giá trên thị trường thế giới cũng được coi là nguyên nhân quan trọng của diễn biễn đi xuống này.
Giá lương thực thực phẩm giảm mạnh do cả nước được mùa lớn không gây sức ép lên giá lương thực như tháng trước và cơn sốt lương thực tháng này dịu đi so với tháng trước đóng vai trò rất quan trọng trong việc giảm CPI trong tháng vì nhóm hàng lương thực, thực phẩm chiếm 42,8% trong chỉ số tính giá tiêu dùng.
Có thể thấy rõ nhất qua 10 lần giảm giá xăng dầu bán lẻ trong nước theo đà giảm mạnh của giá dầu thế giới từ tháng 8 đến nay và tình trạng thị trường ngưng trệ hiện nay do nhu cầu tiêu thụ nhiều mặt hàng giảm cũng là nguyên nhân chính trong việc giảm tốc độ tăng này.
Tác động của CPI đến nền kinh tế
Chúng ta thường nhìn nhận rằng khi giá cả hàng hóa của nền kinh tế giảm giá là những dấu hiệu tốt. Và thực tế điều này có thể là tốt trong một chừng mực nào đó. Tuy nhiên giảm phát chắc chắn cũng là một hiện tượng không tốt đối với nền kinh tế. Vì nó giảm phát chắc chắn sẽ dẫn tới giảm mức cầu của người tiêu dùng. Trong trường hợp này các nhà sản xuất buộc phải giảm giá để bán được hàng, tuy nhiên giá cả các yếu tố đầu vào có thể không giảm một lượng tương ứng. Vì thế biên lợi nhuận của nhà sản xuất cũng sẽ bị ảnh hưởng từ đó sẽ không khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất từ đó dẫn đến thất nghiệp. Và chúng ta cũng thấy rằng đằng sau việc tăng trưởng CPI giảm tốc trong những tháng cuối năm 2008 thì ta cũng thấy rằng khi giá lương thực thực phẩm giảm người tiêu dùng sẽ được lợi, tác động tích cực cho chỉ số CPI đồng thời cũng phản ánh một thực tế là lương thực thực phẩm chủ yếu là gạo của VN đang không bán được. Trong khi đó, kho bãi để trữ lúa gạo vùa thiếu lại vừa không đạt là nguy cơ lúa gạo hỏng lớn, nhất là ở nông thôn Nam Bộ. Đúng lúc phải tiêu thụ sản phẩm gạo thì không tiêu thụ được. Đây là tình trạng đáng lo ngại. Giá thấp đồng nghĩa với của cải bị mất, rủi ro lớn đổ vào người trồng lúa, những đối tượng dễ tổn thương.
Sự giảm giá các mặt hàng này cũng chính là biểu hiện cụ thể của suy thoái kinh tế .Giá hàng hóa giảm mạnh là tín hiệu ngầm định về một tương lai không mấy sáng sủa, nếu không nói là u tối của nền kinh tế. Điều này sẽ tác động dài hạn đến tăng trưởng và phát triển của VN.
Tuy nhiên khi giá cả tăng tới mức không thể kiểm soát nổi thì lạm phát trở thành lạm phát, siêu lam phát. Điển hình trong năm 2007 và những tháng đầu năm 2008 chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng cao, tác động bất lợi đến sản xuất, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến thu nhập, đời sống của đại bộ phận nhân dân. Biến động giá cả có thể ảnh hưởng xấu đến các công ty. Người ta thường kì vọng mức độ lạm phát nhẹ trong nền kinh tế đang tăng trưởng, tuy nhiên nếu giá cả của các yếu tố đầu vào tăng quá nhanh các nhà sản xuất sẽ bị giảm lợi nhuận. Khi CPI tăng cao, trong khi thu nhập thực tế của người lao động và những người hưởng lương từ ngân sách nhà nước không tăng tương xứng thì đời sống của nhân dân không được cải thiện như mong muốn. vì thế, chỉ một số ít người phấn khởi khi tăng trưởng kinh tế đạt cao nhất trong 10 năm qua (8,5%), còn đại bộ phận người dân không chú ý; họ quan tâm nhiều đến chất lượng cuộc sống, năm nay tiến bộ hơn năm ngoái vấn đề gì? Nhưng giá cả từ đầu năm tăng liên tục đã ảnh hướng xấu đến đời sống của nhân dân, nhất là những người nghèo.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) quá cao trong khi chất lượng sản phẩm, hàng hoá còn thấp, chưa đủ sức cạnh tranh đối với sản phẩm của nước ngoài. Do vậy cũng là một bất lợi đối với các doanh nghiẹp trong nước nhật là những doanh nghiệp nhỏ trong quá trình đất nước đang trong giai đoạn hối nhập nền kinh tế thế giới.
Thay đổi của giá cả của hàng hoá dịch vụ trên thị trường trong 2 năm vùa qua cũng ảnh hưởng trực tiếp đến các thị trường chứng khoán còn non trẻ của nước ta. nhất là chứng khoán có lãi suất cố định. Nếu giá cả tăng, các khoản lãi cố định sẽ có giá trị thực tế thấp hơn và do đó làm giảm mức sinh lợi của các chứng khoán. Lạm phát cũng sẽ gây ảnh hưởng đến các khoản tiền lương, trợ cấp, hưu trí vì chúng là các khoản tiền trả cố định. Những người hưởng lương hưu sẽ phải nhìn đồng tiền của họ "biến mất" dần dần vì giảm sức mua theo thời gian.
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Qua phân tích chúng ta đã thấy 2 năm qua là thời gian biến động của CPI . Chỉ số giá liên tục tăng và với tốc độ nhanh trong năm 2007 và những tháng đầu năm 2008 làm cho đời sống người dân gặp nhiều khó khăn trong khi số liệu cho thấy kinh tế tăng trưởng vượt bậc, từ đó Chính Phủ đã phải để ra những nhóm giải pháp để kiềm chế lạm phát cụ thể là 8 nhóm giải pháp chống lạm phát vào ngày 17/4/2008 để ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững. Tuy nhiên lại tốc độ tăng của CPI có đà chậm lại và đôi khi còn giảm trong những tháng cuối năm 2008 và điều này đã được dự đoán trong tháng 6/2008 do những biến động trên thế giới đã làm xăng dầu giảm giá trong những tháng cuối năm một nguyên liệu đầu vào trong quá trình sản xuất. Từ đó chính phủ đã phải tung ra những giải pháp để ổn định nền kinh tế và đối phó với nguy cơ giảm phát. Với những biến động của CPI trong vòng 2 năm qua và những giải pháp của Chính Phủchng1 ta cũng sẽ kì vọng vào một tương lai sáng hơn của nền kinh tế trong năm 2009 này.
Kiến nghị
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- noi_dung_chuyen_de_6926.doc