Kết quả của ước lượng cho thấy: Mức hiệu quả kỹ
thuật của các doanh nghiệp điện tử chịu sự tác động
của nhân tố loại hình sở hữu. Trong đó, khu vực doanh
nghiệp điện tử FDI có tác động thuận chiều đến TE,
còn khu vực doanh nghiệp điện tử tư nhân có tác động
ngược chiều đến TE. Điều này cho thấy, khu vực
doanh nghiệp điện tử FDI sản xuất đạt hiệu quả tốt hơn
so với khu vực tư nhân. Chưa có bằng chứng cho thấy
có sự tác động của nhân tố vùng miền đến hiệu quả
sản xuất của các doanh nghiệp điện tử Việt Nam trong
giai đoạn này. Về nhân tố quy mô doanh nghiệp, kết
quả cho thấy các doanh nghiệp điện tử nhỏ và vừa có
tác động ngược chiều đến TE. Ngược lại, các doanh
nghiệp lớn có mối quan hệ thuận chiều với TE. Đây là
bằng chứng cho thấy, các doanh nghiệp điện tử nhỏ và
vừa hiện nay đang có nhiều khó khăn trong việc tiếp
cận vốn và công nghệ sản xuất, nên TE của các doanh
nghiệp này thấp hơn các doanh nghiệp lớn. Ngoài ra,
các doanh nghiệp nằm trong khu công nghiệp có TE tốt
hơn các doanh nghiệp bên ngoài. Điều này cho thấy môi
trường sản xuất, thể chế và các chính sách hỗ trợ đồng bộ
của các khu công nghiệp đã mang lại hiệu quả sản xuất
cho các doanh nghiệp điện tử.
Đối với nhóm nhân tố thuộc thể chế môi trường
kinh doanh, chúng ta thấy có sự tác động thuận chiều
của thể chế, chính sách đến TE của các doanh nghiệp
điện tử. Do đó những địa phương có chi phí gia nhập
thị trường thấp, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh
nghiệp tiếp cận tín dụng và đất đai, cũng như có các
dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp tốt sẽ càng tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp trên địa bàn sản xuất đạt mức
TE tốt hơn.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 17/01/2022 | Lượt xem: 252 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp điện tử Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI Số - 62 (04/2020)
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY (ISSN: 1859-316X) JMST
68
PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ SẢN XUẤT CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP ĐIỆN TỬ VIỆT NAM
AN ANALYSIS OF PRODUCTION EFFICIENCY
OF VIETNAMESE ELECTRONICS FIRMS
NGUYỄN VĂN
Khoa Cơ sở - Cơ bản, Trường Đại học Hàng hải Việt Nam
Email liên hệ: vanxpo@vimaru.edu.vn
1. Đặt vấn đề
Trong những năm qua, các ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo đã khẳng định được vị trí và là động lực
quan trọng cho sự tăng trưởng của nền sản xuất công
nghiệp Việt Nam. Nhiều ngành công nghiệp chế biến
chế tạo đã phát triển mạnh mẽ, đạt mức tăng trưởng cao
và vững chắc. Điển hình trong số đó là ngành sản xuất
sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học
(ngành điện tử).
Theo báo cáo của Tổng cục thống kê, trong những
năm qua chỉ số sản xuất của ngành điện tử Việt Nam luôn
có những bước phát triển vượt bậc. Cụ thể, năm 2015
tăng 37%, năm 2016 tăng 12,8%, năm 2017 tăng 32,7%.
Từ năm 2015 đến nay, kim ngạch xuất khẩu của ngành
điện tử đã đạt những kết quả ấn tượng, chiếm 33,5% tổng
kim ngạch xuất khẩu cả nước trong năm 2019.
Mặc dù đạt được những kết quả khá quan trọng
trong những năm qua, tuy nhiên ngành điện tử Việt
Nam vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Đa phần các doanh
nghiệp điện tử hiện nay đang thâm dụng lao động, thiếu
vốn và công nghệ nên hiệu quả sản xuất chưa cao. Hơn
nữa, việc cải cách môi trường kinh doanh và môi trường
vĩ mô đóng vai trò quan trọng nhằm nâng cao hơn nữa
hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp.
Từ thực tiễn nêu trên, nghiên cứu này sẽ ước lượng
mức hiệu quả kỹ thuật (TE) cũng như phân tích các
nhân tố ảnh hưởng đến TE của các doanh nghiệp ngành
điện tử Việt Nam trong giai đoạn 2012-2016.
2. Tổng quan tài liệu và cơ sở lý thuyết
Phương pháp tham số trong phân tích hiệu quả và
năng suất được sử dụng phổ biến ở Việt Nam hiện nay
là phương pháp hàm sản xuất biên ngẫu nhiên (SFA).
Tuy nhiên SFA giả định các doanh nghiệp có tham số
công nghệ như nhau, điều này có thể sẽ dẫn đến các ước
lượng chệch của TE. Các hệ số phản ứng trong ước
lượng bằng SFA là các hệ số trung bình do đó không
phản ánh được tầm quan trọng của từng yếu tố đầu vào.
Hơn nữa SFA sử dụng hệ số sai số tổng hợp mà trong
đó TE được phản ánh bởi thành phần ui và cần có các
giả định về phân phối của ui để ước lượng đường sản
xuất biên, nhưng các kết quả ước lượng khá nhạy cảm
với các giả định về phân phối khác nhau của ui.
Nhằm khắc phục các hạn chế đó, Kalirajan và
Obwona (1994) đã phát triển mô hình hệ số biến đổi
ngẫu nhiên (SVFA) liên quan đến khái niệm đường
biên không trung tính với dữ liệu chéo. Mô hình SVFA
Tóm tắt
Nghiên cứu này nhằm mục đích xác định mức hiệu
quả kỹ thuật của các doanh nghiệp điện tử, máy vi
tính và sản phẩm quang học Việt Nam, cũng như
phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến mức hiệu quả
kỹ thuật của ngành này trong giai đoạn 2012-
2016. Các kết quả ước lượng từ mô hình hệ số biến
đổi ngẫu nhiên và mô hình hồi quy Tobit cho thấy:
(1) Gần như không có sự khác biệt trong hiệu quả
sử dụng lao động, tuy nhiên có sự khác biệt lớn
trong hiệu quả sử dụng vốn giữa các doanh
nghiệp; (2) Điểm hiệu quả kỹ thuật trung bình của
các doanh nghiệp đạt 46,9%; (3) Nhóm các nhân
tố thuộc thể chế môi trường kinh doanh có tác
động thuận chiều đến hiệu quả kỹ thuật của doanh
nghiệp.
Từ khóa: Hiệu quả kỹ thuật, phương pháp hệ số
biến đổi ngẫu nhiên, mô hình Tobit.
Abstract
This study aims to determine technical efficiency
of Vietnamese electronics, computer and optical
equipment firms, as well as to analyze the factors
affecting the technical efficiency of this industry in
the period 2012-2016. The estimated results from
stochastic varying coefficients model and Tobit
regression model show that: (1) There is almost no
difference in labor use efficienncy, however there
is a big difference in the efficiency of capital use
among firms; (2) The average technical efficiency
of firms is 46.9%; (3) Group of factors related to
business environment institution that positively
affects the technical efficiency of firms.
Keywords: Technical efficiency, stochastic varying
coefficients approach, tobit regression model.
KINH TẾ - XÃ HỘI
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI Số - 62 (04/2020)
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY (ISSN: 1859-316X) JMST
69
được đề xuất năm 1994 bởi Kalirajan và Obwona
(xem [6]) đối với dữ liệu chéo ở dạng logarit như sau:
1
( 1.. )
m
k kl kl
l
y z k n
(1)
Kalirajan và Obwona đã làm theo phương pháp
của Hildreth và Houck (1968) [5] để ước lượng (1)
như sau:
Đặt 1.. ; 1..kl l klv k n l m và khi đó (1)
được viết lại như sau:
1 1
m m
k kl l kl kl l k
l l
y z v z u
Trong đó:
1
m
k kl kl
l
u z v
và klv là các nhiễu ngẫu
nhiên với kỳ vọng bằng không; l là các hệ số phản
ứng trung bình; l klv là các hệ số phản ứng thực
tế. Khi đó mô hình SVFA được viết ở dạng ma trận:
Y Z u (2) với .u Zv
Đặt ki n n là ma trận hiệp phương sai của u .
Chìa khóa để ước lượng (2) chính là việc ước lượng
, thủ tục ước lượng như sau:
Đặt 1.. ; 1..kl klVar k n l m thì:
0kl k l và
2
1
m
kk kl ll k
l
z Z
(3)
Trong đó: 2kl n mX z ; kZ là hàng thứ k của
11, ,.., 'mmZ .
Nếu chúng ta ước lượng (2) bởi phương pháp OLS
thì véc tơ phần dư là:
1
1 1
ˆ ' '
' ' ' '
e Y Z Y Z Z Z Z Y
I Z Z Z Z Z u I Z Z Z Z u Mu
Với
1
' 'ki n nM m I Z Z Z Z
(M là ma trận đối xứng).
Từ đó chúng ta suy ra được:
E e M
với: 2 2 21 11,.., ' , , ,., 'n ki nnn ne e e M m
Đặt: w e E e e M e MZ
(Vì theo (3) ta có Z ) thì we MZ (4)
Vì biểu thức (4) có dạng mô hình tuyến tính quen
thuộc nên nó có thể được ước lượng bằng phương pháp
OLS để có được ước lượng không chệch ˆ của :
1
ˆ MZ MZ MZ e
(5)
Sử dụng ước lượng ˆ cho trong (5) để có ước
lượng ˆ cho ma trận hiệp phương sai . Khi đó,
trong mô hình (2) được ước lượng như sau:
1
1 1ˆ ˆ' 'Z X Z Y
(6)
Sau khi có được , sử dụng phương pháp được mô
tả bởi Griffiths (1972) [2] để có được ước lượng ˆ
kl của
các hệ số phản ứng thực
kl của mỗi doanh nghiệp:
2
1
ˆˆ ˆ
ˆ
kl ll
kl l kl l i km
kl ll
l
z
y Z
z
(7)
Sau đó, chúng ta đặt * max ;l kl
k
1,.., ; 1,..,k n l m thì hàm sản xuất biên và TE của
doanh nghiệp thứ k là:
* *
1
( 1,.., )
m
k kl kl
l
y z k n
và
*
exp
exp
k
k
k
y
TE
y
(8)
3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này áp dụng phương pháp SVFA để
ước lượng hàm sản xuất biên cũng như hiệu quả kỹ
thuật của các doanh nghiệp ngành điện tử Việt Nam
trong giai đoạn 2012-2016.
Nghiên cứu thực hiện trước kiểm định về việc lựa
chọn dạng hàm sản xuất (dạng hàm sản xuất Cobb-
Douglas hay Translog). Từ kết quả kiểm định, nghiên
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI Số - 62 (04/2020)
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY (ISSN: 1859-316X)
JMST
70
cứu lựa chọn hàm sản xuất biên dạng Cobb-Douglas
cho các doanh nghiệp điện tử Việt Nam trong giai
đoạn này. Mô hình SVFA của các doanh nghiệp được
thiết lập như sau:
0 1 2
0
. .
1.. , 1..
kt kt kt kt ktkt
Ln VA LnK LnL
k n t t
(9)
Trong đó: VAkt, Kkt và Lkt lần lượt là giá trị gia tăng,
vốn và lao động của doanh nghiệp k tại thời điểm t.
Sau đó, các kết quả ước lượng TE bằng mô hình
SVFA sẽ được sử dụng là biến phụ thuộc trong mô
hình hồi quy Tobit để ước lượng các nhân tố tác động
lên TE của các doanh nghiệp điện tử Việt Nam. Vì TE
của các doanh nghiệp thuộc đoạn [0;1] nên mô hình
hồi quy Tobit là phù hợp nhất (Gujarati (2011),
Cameron & Trivedi (2009)) (xem [1] [4]).
4. Kết quả ước lượng
4.1. Mô tả dữ liệu và biến số
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu tổng điều tra doanh
nghiệp của Tổng cục thống kê (GSO) và dữ liệu điều tra
năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của Phòng thương mại
và công nghiệp Việt Nam (VCCI). Các dữ liệu được thu
thập trong khoảng thời gian từ 2012 đến 2016. Xử lý dữ
liệu, nghiên cứu có được các dữ liệu cần thiết của 339
doanh nghiệp điện tử ở giai đoạn này (xem [3] [7]). Biến
số trong các mô hình được xác định như sau:
+ Biến VA: Là giá trị gia tăng của doanh nghiệp,
được tính theo hướng dẫn của tổng cục thống kê (VA
= Tổng thu nhập của người lao động + Khấu hao tài
sản cố định + Thuế gián thu + Lợi nhuận trước thuế)
+ Biến L: Là số lao động trung bình của doanh
nghiệp trong năm (L = trung bình cộng của số lao động
đầu năm và cuối năm).
+ Biến K: Là nguồn vốn trung bình trong năm của
doanh nghiệp (K= trung bình cộng của tổng tài sản tại
thời điểm đầu năm và cuối năm).
+ Biến ownership: Là biến giả nhiều phạm trù, trong
đó: ownership1 và ownership2 lần lượt là doanh nghiệp
điện tử nhà nước và doanh nghiệp điện tử tư nhân. Doanh
nghiệp điện tử FDI là phạm trù cơ sở.
+ Biến region: Là biến giả nhiều phạm trù, trong
đó: region1; region2; region3; region4; region5 lần
lượt là các vùng Đồng bằng sông Hồng; Trung du và
miền núi phía Bắc; Bắc Trung bộ và duyên hải miền
Trung; Tây Nguyên và Đông Nam bộ. Vùng đồng
bằng sông Cửu Long là phạm trù cơ sở.
+ Biến size: Là biến quy mô doanh nghiệp, trong
đó: size=0 là doanh nghiệp điện tử lớn; size=1 là doanh
nghiệp điện tử nhỏ và vừa.
+ Biến KCN: Là biến khu công nghiệp, trong đó:
KCN=0 có nghĩa doanh nghiệp điện tử không nằm
trong khu công nghiệp; KCN=1 có nghĩa doanh
nghiệp điện tử nằm trong khu công nghiệp.
+ Biến pci: Là biến thể chế môi trường kinh doanh,
được xác định bởi chỉ số PCI của VCCI.
4.2. Kết quả ước lượng
Sử dụng kiểm định Breusch-Pagan để kiểm định
về sự ngẫu nhiên của các hệ số trong mô hình. Kết quả
kiểm định bác bỏ giả thuyết không về phương sai sai
số thay đổi, có nghĩa nghiên cứu lựa chọn mô hình
SVFA là phù hợp. Tuy nhiên kiểm định này không
cung cấp bất kỳ thông tin nào về dạng thức của các hệ
số. Do đó, nghiên cứu ước lượng các hệ số phản ứng
trung bình của các doanh nghiệp theo phương pháp
được mô tả bởi Hildreth & Houck (1968) [5], sau đó
ước lượng các hệ số phản ứng thực tế theo phương
pháp của Griffiths (1972) [2].
Bảng 1. Hệ số ước lượng trung bình và hệ số biên của hàm sản xuất của các
doanh nghiệp điện tử Việt Nam giai đoạn 2012-2016
Năm 2012 2013 2014 2015 2016
j
*
j j
*
j j
*
j j
*
j j
*
j
0 1,075 5,805 1,702 7,005 1,994 4,395 1,640 17,778 2,012 7,035
K 0,453 0,587 0,363 0,840 0,293 0,943 0,427 0,427 0,368 0,800
L 0,742 0,742 0,831 0,831 0,934 0,934 0,727 0,727 0,799 0,799
Nguồn: Kết quả ước lượng từ MATLAB 2015a
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI Số - 62 (04/2020)
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY (ISSN: 1859-316X) JMST
71
Kết quả ước lượng hệ số trung bình và hệ số biên
của hàm sản xuất bằng mô hình SVFA được trình bày
trong Bảng 1. Chúng ta thấy rằng, hệ số co giãn trung
bình của sản lượng theo lao động lớn hơn hệ số co giãn
trung bình của sản lượng theo vốn. Điều này cho biết
các doanh nghiệp điện tử Việt Nam trong giai đoạn
này đang thâm dụng lao động. Tổng hệ số co giãn
trung bình của sản lượng theo lao động và vốn lớn hơn
một cho thấy hiệu suất của các doanh nghiệp điện tử
đang tăng theo quy mô.
Hơn nữa, các hệ số ước lượng trung bình và các hệ
số ước lượng biên của lao động bằng nhau (Thực tế là
không bằng nhau, tuy nhiên ˆ xấp xỉ bằng 0). Điều này
cho thấy không có bằng chứng về sự khác biệt trong
hiệu quả sử dụng lao động giữa các doanh nghiệp điện
tử Việt Nam giai đoạn 2012-2016. Ngược lại, hệ số ước
lượng trung bình và hệ số ước lượng biên của vốn có sự
chênh lệch lớn cho thấy có sự khác biệt lớn trong hiệu
quả sử dụng vốn giữa các doanh nghiệp.
Sau khi có hệ số ước lượng trung bình của mỗi đầu
vào, sử dụng biểu thức (7) để có các hệ số ước lượng
thực tế cho mỗi đầu vào của từng doanh nghiệp và sử
dụng (8) để có được sản lượng biên và TE cho từng
doanh nghiệp điện tử Việt Nam giai đoạn 2012-2016.
Giá trị phân phối và mật độ Kernel về hiệu quả kỹ
thuật của các doanh nghiệp điện tử trong giai đoạn này
được thể hiện trong Bảng 2 và Hình 1.
Bảng 2. Phân phối hiệu quả kỹ thuật của các doanh
nghiệp điện tử Việt Nam giai đoạn 2012-2016
TE Obs Mean Std.D Min Max
2012 339 0,503 0,059 0,26 0,677
2013 339 0,472 0,058 0,205 0,635
2014 339 0,498 0,053 0,319 0,596
2015 339 0,376 0,065 0,031 0,529
2016 339 0,496 0,059 0,223 0,596
Nguồn: Kết quả ước lượng từ MATLAB 2015a
Điểm ước lượng trung bình về TE của các doanh
nghiệp điện tử Việt Nam hiện nay khoảng 46,9%. Mật
độ Kernel của TE cho thấy đa số các doanh nghiệp
điện tử Việt Nam trong giai đoạn này có hiệu quả kỹ
thuật gần với giá trị trung bình. Điều này phản ánh
phần lớn các doanh nghiệp hiện nay có hiệu quả kỹ
thuật thấp, dư địa về hiệu quả kỹ thuật của các doanh
nghiệp còn nhiều. Độ lệch chuẩn của TE qua các năm
thay đổi rất ít cho thấy khoảng cách về hiệu quả kỹ
thuật giữa các doanh nghiệp điện tử Việt Nam trong
giai đoạn này còn cao và chưa được thu hẹp.
Hình 1. Biểu đồ Histogram và mật độ Kernel
về hiệu quả kỹ thuật của các doanh nghiệp
điện tử Việt Nam giai đoạn 2012-2016
4.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kỹ thuật
Cụ thể, mô hình hồi quy Tobit đối với hiệu quả kỹ
thuật của các doanh nghiệp điện tử Việt Nam được mô
tả như sau:
01.. , 1..kt kt kt kt ktTE X k n t t (10)
Ở đây TE’ là giá trị ngầm của hiệu quả kỹ thuật,
trong đó:
- Nếu 0TE thì TE=0; Nếu 1TE thì TE=1
và nếu 0 1TE thì .TE TE
- Xkt là các biến giải thích tác động lên TE và
20,kt N là nhiễu ngẫu nhiên tuân theo quy
luật phân phối chuẩn 20; ; .N const
0
2
4
6
8
D
e
n
s
it
y
0 .2 .4 .6
TE
Bảng 3. Kết quả ước lượng các nhân tố tác động đến hiệu quả kỹ thuật
TE Coef Std. Err t TE Coef Std. Err t
ownership1 0,018 0,012 1,450 region5 0,004 0,011 0,410
ownership2 0,047*** 0,005 8,610 size 0,026*** 0,004 6,820
region1 0,007 0,011 0,630 KCN 1,8E-3*** 5,1E-4 3,520
region2 0,004 0,013 0,290 pci 0,002** 0,001 3,000
region3 -0,024 0,012 1,970 _cons 0,365*** 0,043 8,470
region4 -0,059 0,031 1,910 /sigma 0,065 0,001
Nguồn: Kết quả ước lượng từ Stata 13
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ HÀNG HẢI Số - 62 (04/2020)
JOURNAL OF MARINE SCIENCE AND TECHNOLOGY (ISSN: 1859-316X)
JMST
72
Biến phụ thuộc là mức TE được ước lượng trong
mô hình SVFA. Các biến độc lập được chia thành hai
nhóm với mục đích để quan sát sự ảnh hưởng của từng
nhóm đến hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Bao
gồm nhóm các nhân tố thuộc đặc tính doanh nghiệp
(loại hình sở hữu; vùng miền; quy mô doanh nghiệp;
doanh nghiệp nằm trong khu công nghiệp) và nhóm
các nhân tố thuộc thể chế môi trường kinh doanh (chỉ
số PCI cấp tỉnh).
Kiểm định tỷ số hợp lý (LR) ủng hộ giả thuyết mô
hình có ít nhất một hệ số phản ứng khác không, nên
mô hình được xây dựng có ý nghĩa thống kê. Kết quả
hồi quy Tobit cho mức TE từ mô hình SVFA của các
doanh nghiệp điện tử được trình bày trong Bảng 3.
Kết quả của ước lượng cho thấy: Mức hiệu quả kỹ
thuật của các doanh nghiệp điện tử chịu sự tác động
của nhân tố loại hình sở hữu. Trong đó, khu vực doanh
nghiệp điện tử FDI có tác động thuận chiều đến TE,
còn khu vực doanh nghiệp điện tử tư nhân có tác động
ngược chiều đến TE. Điều này cho thấy, khu vực
doanh nghiệp điện tử FDI sản xuất đạt hiệu quả tốt hơn
so với khu vực tư nhân. Chưa có bằng chứng cho thấy
có sự tác động của nhân tố vùng miền đến hiệu quả
sản xuất của các doanh nghiệp điện tử Việt Nam trong
giai đoạn này. Về nhân tố quy mô doanh nghiệp, kết
quả cho thấy các doanh nghiệp điện tử nhỏ và vừa có
tác động ngược chiều đến TE. Ngược lại, các doanh
nghiệp lớn có mối quan hệ thuận chiều với TE. Đây là
bằng chứng cho thấy, các doanh nghiệp điện tử nhỏ và
vừa hiện nay đang có nhiều khó khăn trong việc tiếp
cận vốn và công nghệ sản xuất, nên TE của các doanh
nghiệp này thấp hơn các doanh nghiệp lớn. Ngoài ra,
các doanh nghiệp nằm trong khu công nghiệp có TE tốt
hơn các doanh nghiệp bên ngoài. Điều này cho thấy môi
trường sản xuất, thể chế và các chính sách hỗ trợ đồng bộ
của các khu công nghiệp đã mang lại hiệu quả sản xuất
cho các doanh nghiệp điện tử.
Đối với nhóm nhân tố thuộc thể chế môi trường
kinh doanh, chúng ta thấy có sự tác động thuận chiều
của thể chế, chính sách đến TE của các doanh nghiệp
điện tử. Do đó những địa phương có chi phí gia nhập
thị trường thấp, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh
nghiệp tiếp cận tín dụng và đất đai, cũng như có các
dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp tốt sẽ càng tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp trên địa bàn sản xuất đạt mức
TE tốt hơn.
Các kết quả của bài báo là sản phẩm của đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Trường năm học 2019-2020:
“Ứng dụng mô hình hệ số biến đổi ngẫu nhiên trong
phân tích hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp
ngành sản xuất sản phẩm điện tử Việt Nam”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Cameron, A.C & Trivedi, P.K, “Microeconometrics
using stata”, College Station, TX: Stata Press, 5, 2009.
[2] Griffiths, W.E, “Estimation of actual response
coefficients in the Hildreth- Houck random
coefficient model”, Journal of the American
Statistical Association, Vol.67, 1972.
[3] GSO, Điều tra doanh nghiệp năm 2012, 2013,
2014, 2015, 2016.
[4] Gujarati, D.N, “Econometrics by example”,
Hampshire, UK: Palgrave Macmillan, 2011.
[5] Hildreth, C. & Houck, J.P, “Some estimators for
linear model with random coefficients”, Journal of
American Statistical Association, Vol.63, 1968.
[6] Kalirajan, K.P & Obwona, M.B, “Frontier
production function: The stochastic coefficients
approach”, Oxford Bulletin of Economic and
Statistics, Vol.56, 1994.
[7] VCCI, Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm
2012, 2013, 2014, 2015, 2016.
Ngày nhận bài: 20/02/2020
Ngày nhận bản sửa: 13/03/2020
Ngày duyệt đăng: 21/03/2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phan_tich_hieu_qua_san_xuat_cua_cac_doanh_nghiep_dien_tu_vie.pdf