Kết luận
Vận tải hàng không được xem là một
yếu tố rất quan trọng trong việc giải thích sự
tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Trong
những năm gần đây, lưu lượng vận tải hàng
không tăng đáng kể ở các nước đang phát
triển. Mục đích của nghiên cứu này là phân
tích ảnh hưởng tác động của sân bay đến hiệu
quả kinh tế của khu vực (thành phố/đô thị).
Kết quả nghiên cứu cho thấy vận chuyển
hàng không đóng vai trò quan trọng, là cơ sở
để các nhà hoạch định đưa ra quyết định phát
triển vận tải hàng không.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng vận tải
hàng không, giáo dục, dân số và việc làm có
mối quan hệ ý nghĩa với GVA. Sự xuất hiện
của biến cảng hàng không (Dummy variable)
có tác động đến các biến độc lập và biến phụ
thuộc GVA. Điều này cho thấy, bên cạnh các
yếu tố như giáo dục, dân số hay việc làm thì
sự hiện diện và phát triển của cảng hàng
không có tác động đến sự phát triển kinh tế
của khu vực.
Từ kết quả nghiên cứu trên, tác giả có
một số đề xuất như sau:
+ Đẩy mạnh năng lực vận tải hàng
không song phương và đa phương đối với
các thị trường truyền thống khu vực Đông
Nam Á, Đông Bắc Á và Trung Quốc;
+ Thúc đẩy kết nối vận tải hàng không
đến khu vực Nam Á và các nước Đông Âu;
+ Nhà nước nên có chính sách khuyến
khích các hãng vận tải lớn trên thế giới đầu
tư thành lập doanh nghiệp, chi nhánh và thiết
lập các đầu mối vận tải trung chuyển quốc tế
tại Việt Nam;
+ Tiếp tục đầu tư, nâng cấp hệ thống kết
cấu hạ tầng quản lý bay, đường lăn, sân đỗ,
nhà ga nhằm nâng cao hiệu quả khai thác các
cảng hàng không hiện có;
+ Ưu tiên việc mở rộng, nâng cấp các
cảng hàng không quốc tế như Tân Sơn Nhất,
Nội Bài, Đà Nẵng, Cát Bi, Cam Ranh và
đồng thời nhanh chóng xây dựng và đưa vào
vận hành cảng hàng không quốc tế Long
Thành giai đoạn 1 vào năm 2025
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 307 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích và nghiên cứu mối quan hệ giữa các yếu tố vĩ mô và vận tải hàng không đến sự phát triển kinh tế khu vực, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI SỐ 27+28 – 05/2018
245
PHÂN TÍCH VÀ NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC YẾU
TỐ VĨ MÔ VÀ VẬN TẢI HÀNG KHÔNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ KHU VỰC
ANALYSIS AND STUDY THE RELATIONSHIP BETWEEN MACRO FACTORS
AND AIR TRANSPORT TO REGIONAL ECONOMIC DEVELOPMENT
Lê Ngô Ngọc Thu
Bộ môn Kinh tế Hàng không, Học Viện Hàng Không Việt Nam
lengongocthu19@gmail.com
Tóm tắt: Theo dự báo của Hiệp hội vận tải Hàng không quốc tế, tới năm 2035, hàng không Việt
Nam sẽ phục vụ tới 136 triệu hành khách và đóng góp 23 tỷ USD vào tổng sản phẩm trong nước
(GDP). Nghiên cứu này trình bày ý nghĩa và sự đóng góp của lĩnh vực vận tải hàng không dân dụng
đến sự phát triển ổn định của nền kinh tế-xã hội một quốc gia cũng như nền kinh tế toàn cầu, cụ thể là
việc tạo ra nhiều cơ hội việc làm, thúc đẩy phát triển du lịch và tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho
thương mại toàn cầu phát triển. Mục tiêu chính của bài báo này là phân tích và nghiên cứu mối quan
hệ giữa các yếu tố vĩ mô và vận tải hàng không đến sự phát triển kinh tế khu vực.
Từ khóa: Vận tải hàng không, tổng sản phẩm trong nước (GDP), phát triển kinh tế.
Chỉ số phân loại: 3.2
Abstract: According to IATA forecast, by 2035, Vietnam Airlines will serve 136 million
passengers and contribute $ 23 billion to GDP. This study presents the meaning and contribution of
the air transport sector to the stable development of a nation's socio-economic as well as global
economy, namely the creation of employment opportunities, promote tourism development and create
favorable conditions for global trade to develop. The main objective of this paper is to analyze and
study the relationship between macro factors and air transport to regional economic development.
Keywords: Air transport, GDP, Economic development.
Classification number: 3.2
1. Giới thiệu
Vận tải hàng không là một trong các
phương thức vận tải của nền kinh tế quốc
dân, góp phần thỏa mãn nhu cầu đi lại của
con người và thực hiện chức năng phân phối
các nguồn lực, sản phẩm như hệ tuần hoàn
trong nền kinh tế quốc dân. Vận tải đường
không là ngành giao thông vận tải trẻ tuổi, ra
đời sau những phương thức vận tải khác,
nhưng đã phát triển với tốc độ nhanh, sử
dụng có hiệu quả những thành tựu mới nhất
của khoa học – kỹ thuật. Nhờ điều kiện du
lịch và thương mại, vận tải hàng không tạo ra
tăng trưởng kinh tế, cung cấp nhiều công ăn
việc làm, giúp cải thiện mức sống và xoá đói
giảm nghèo.
Theo số liệu được Hiệp hội Vận tải Hàng
không Quốc tế (IATA) cùng Viện Kinh
tế Oxford Econnomics tính toán, ngành hàng
không đã đóng góp trực tiếp khoảng 1,7 tỷ
USD vào tổng sản phẩm trong nước
(GDP) của Việt Nam riêng trong năm 2013
và hiện đóng góp hơn 6 tỷ USD cho GDP
hàng năm của Việt Nam, tạo ra hơn 230.000
việc làm cho người lao động [2]. Vận tải
hàng không thế giới hiện nay tạo ra giá trị
tăng thêm mỗi năm khoảng 1,5 nghìn tỷ
USD, tức là vượt quá GDP của nhiều quốc
gia có nền kinh tế hùng mạnh và lớn gấp gần
20 lần GDP của Việt Nam. Ngoài ra, vận tải
hàng không còn tạo thêm việc làm trực tiếp
cho trên 20 triệu người trên khắp thế giới,
con số tuy chưa lớn nhưng lại có ý nghĩa ở
chỗ nhìn chung họ đều được đào tạo chu đáo
và có trình độ cao hơn so với mặt bằng chung
của lực lượng lao động toàn cầu.
Trong những năm gần đây ở Việt Nam,
hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đã được
nâng cấp và xây dựng mới, góp phần nâng
cao năng lực khai thác, đáp ứng tăng trưởng
kinh tế. Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) đã
xếp hạng năng lực và chất lượng hạ tầng giao
thông Việt Nam tăng 9 bậc, từ thứ hạng 76
trong báo cáo 2014 - 2015 tăng lên hạng 67
246
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 27+28, May 2018
trong báo cáo 2015 – 2016 [1]. Trong đó,
ngành vận tải hàng không góp phần gia tăng
GDP và tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho
người dân Việt Nam thông qua bốn hình thức
khác nhau: Đóng góp trực tiếp, đóng góp
gián tiếp, đóng góp gộp, đóng góp hỗ trợ.
Theo tổng cục thống kê, GDP năm 2017 ước
tính tăng 6,81% so với năm 2016, mức tăng
trưởng năm 2017 vượt mục tiêu đề ra 6,7%
và cao hơn mức tăng của các năm từ 2011-
2016 [7]. Vận tải hành khách đường hàng
không tăng khá, đạt 46,4 triệu lượt khách,
tăng 14,1% và 50,9 tỷ lượt khách.km,
tăng 11,9%. Sự gia tăng trên là do các hãng
hàng không trong nước đẩy mạnh khai thác
thị trường nội địa. Vận tải hàng hóa
đạt 1.442,9 triệu tấn, tăng 9,8% so với năm
2016 và 268,9 tỷ tấn.km, tăng 6,8%, trong đó
vận tải trong nước đạt 1.410 triệu tấn,
tăng 10% và 136,5 tỷ tấn.km, tăng 11%; vận
tải ngoài nước đạt 33 triệu tấn, tăng 0,7%
và 132,4 tỷ tấn.km, tăng 2,7%. Xét theo
ngành vận tải đường hàng không đạt 317,8
nghìn tấn, tăng 7,1% và 821,6 triệu tấn.km,
tăng 8%.
Như vậy, vận tải hàng không dân dụng
có ý nghĩa và đóng góp đến sự phát triển ổn
định của nền kinh tế-xã hội một quốc gia
cũng như nền kinh tế toàn cầu, cụ thể là việc
tạo ra nhiều cơ hội việc làm, thúc đẩy phát
triển du lịch và tạo nhiều điều kiện thuận lợi
cho thương mại toàn cầu phát triển. Chính vì
lý do trên tác giả thực hiện “phân tích và
nghiên cứu mối quan hệ giữa các yếu tố vĩ
mô và vận tải hàng không đến sự phát triển
kinh tế khu vực”.
2. Cơ sở lý thuyết
Có nhiều tài liệu nghiên cứu về mối
quan hệ giữa vận tải hàng không và tăng
trưởng kinh tế. Các kết quả nghiên cứu tương
đối khác nhau dựa trên các dữ liệu nghiên
cứu, phương pháp luận và phân tích trong các
khoảng thời gian khác nhau.
Goetz (1992) đã thực hiện nghiên cứu
với mục đích chính là kiểm tra mối quan hệ
giữa vận tải hàng không và sự tăng trưởng
của 50 đô thị lớn tại Hoa Kỳ [6]. Mối quan
hệ này được kiểm chứng thông qua các yếu
tố như việc làm, sự thay đổi dân số và khối
lượng hành khách được vận tải bằng đường
hàng không qua dữ liệu của Cục Quản lý
Hàng không Liên bang và số liệu thống kê
dân số của Hoa Kỳ. Nghiên cứu đã chứng
minh rằng mối quan hệ trên tỷ lệ thuận với
khối lượng hành khách đi lại bằng đường
hàng không dù khối lượng hành khách có
tăng hay giảm. Kết quả nghiên cứu chỉ ra vận
tải hàng không và quy hoạch sân bay có ý
nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế
nếu dịch vụ hàng không và cơ sở hạ tầng sân
bay được chú trọng đầu tư.
Nghiên cứu của Bowen (2000) về mối
quan hệ giữa vận tải hàng không, tăng trưởng
kinh tế Đông Nam Á và sự thay đổi trong
thói quen sử dụng các hãng hàng không quốc
tế ở Đông Nam Á trong giai đoạn 1979-1997
nhấn mạnh vai trò của nhà nước trong vận tải
hàng không [3]. Nhà nước sử dụng một số
công cụ bao gồm tự do vận tải hàng không và
phát triển sân bay để thay đổi hình dáng cải
tiến mạng lưới vận chuyển hàng không. Kết
quả của nghiên cứu các chiến lược này đã
được áp dụng để phân tích và đánh giá việc
sử dụng, phát triển mạng đường bay.
Fernandes và Pacheco (2010) đã kiểm
tra mối quan hệ nhân quả giữa vấn đề tăng
trưởng kinh tế và vận tải hành khách quốc
nội bằng đường hàng không tại Brazil [5].
Nghiên cứu được thực hiện trong giai đoạn
1966-2006. Kết quả phân tích cho thấy, GDP
không những được coi là chỉ số liên quan đến
tăng trưởng kinh tế và tổng giá trị vận
chuyển hành khách quốc nội-km, mà còn là
chỉ số đo lường nhu cầu hành khách sử dụng
vận tải hàng không. Kết quả của nghiên cứu
đã ủng hộ giả thuyết về mối quan hệ nhân
quả thông qua sự tăng trưởng kinh tế có liên
quan đến tăng trưởng đi lại của hành khách
bằng đường hàng không quốc gia.
Mục đích nghiên cứu của Dharmawan
(2012) là để điều tra mối quan hệ giữa tần
suất vận tải hàng không và tăng trưởng kinh
tế ở Indonesia [4]. Các dữ liệu thuộc giai
đoạn 2000-2010 đã được sử dụng để phân
tích. Kết quả phân tích cho thấy mối quan hệ
chặt chẽ giữa vận tải hàng không - du lịch -
phát triển kinh tế.
3. Phương pháp nghiên cứu
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI SỐ 27+28 – 05/2018
247
Mục tiêu của bài báo này là phân tích và
nghiên cứu mối quan hệ giữa các yếu tố vĩ
mô và vận tải hàng không đến sự phát triển
kinh tế khu vực. Các yếu tố vĩ mô được sử
dụng trong bài bao gồm:
+ Tổng giá trị gia tăng GVA (Gross
Value Added ): Thước đo của sự gia tăng
trong giá trị của nền kinh tế do việc sản xuất
hàng hóa và dịch vụ. Các ước tính khu vực
của GVA được đo bằng cách sử dụng
phương pháp thu nhập, trong đó bao gồm
việc thêm thu nhập được tạo ra bởi các cá
nhân hoặc công ty của một vùng trong sản
xuất hàng hóa và dịch vụ.
+ Vận tải hàng không (Air transport): Số
chuyến bay đi/đến (Việt Nam + nước ngoài)
và tổng số hành khách đi và đến (nước ngoài
+ nội địa);
+ Việc làm (Employment): Tỷ lệ lao
động có việc làm (từ 15 tuổi trở lên) (%);
+ Giáo dục (Education): Số lượng học
sinh/sinh viên trung cấp, cao đẳng, đại học
trên địa bàn;
+ Dân số (Population): dân số từ 15 tuổi
trở lên;
+ Cảng hàng không (Airport):
Sự hiện diện của cảng: Biến giả (dummy
variable), có giá trị 1 khi sân bay có chuyến
bay quốc tế; nếu không có chuyến bay quốc
tế có giá trị 0.
Công suất sân bay (Airport Capacity):
biến giả (dummy variable) có giá trị 0 trong
các tình huống mà tổng số hành khách ít hơn
1 triệu/năm; ngược lại là 1 (khi lượng hành
khách lớn hơn 1 triệu/năm).
Nghiên cứu được thực hiện với mục đích
phân tích mối quan hệ giữa các yếu tố vĩ mô
và vận tải hàng không đến sự phát triển kinh
tế khu vực - trường hợp nghiên cứu Thành
phố Hồ Chí Minh. Một mặt, vận tải hàng
không thúc đẩy kinh tế phát triển, mặt khác
theo mối quan hệ nhân quả, kinh tế phát triển
tạo những cơ hội cho vận tải hàng không
như: Giảm chi phí, kích cầu đi lại cũng như
vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng
không. Nghiên cứu sử dụng phương pháp
Least Squares Method để đánh giá ảnh
hưởng của vận tải hàng không đến sự phát
triển kinh tế của khu vực trong hai năm
2010-2011. Mô hình nghiên cứu như sau:
GVAit = α + β.vantaihangkhong it + Xit + Ɛ it
Trong đó: GVA là biến phụ thuộc
(GVA/capita), lưu lượng vận tải hàng không
(airline traffic) và biến X là biến kiểm soát
(control variable vector) bao gồm: Giáo dục,
việc làm, dân số. Biến giả cảng hàng không
(Dummy variable) được sử dụng để nghiên
cứu xem liệu rằng sự có mặt của các cảng
hàng không có tác động đến sự phát triển
kinh tế của các khu vực hay không. Dữ liệu
nghiên cứu được thu thập bao gồm: Dữ liệu
sơ cấp (tự khảo sát) và dữ liệu thứ cấp (các
báo cáo của Tổng cục Thống kê, Cục Hàng
Không Việt Nam, Tổng Công ty Cảng Hàng
không Việt Nam, và Bộ Khảo sát VHLSS).
Phầm mềm SPSS 20.0 được sử dụng để phân
tích dữ liệu nghiên cứu.
4. Kết quả
Kết quả mô hình hồi quy chỉ ra rằng
tham số của giá trị gia tăng gộp GVA cho
thấy có mối quan hệ giữa sự gia tăng vận tải
hàng không và các thông số tăng trưởng kinh
tế ở mức mong đợi và có ý nghĩa ở mức 1%.
Ở mô hình thứ 1 (Bảng 1), các yếu tố như
việc làm, giáo dục, dân số, cảng hàng không,
công suất sân bay không tác động đến GVA.
Kết quả phân tích cho thấy, với mức ý nghĩa
1%, GVA bình quân đầu người và vận tải
hàng không có mối quan hệ đồng biến. Trong
điều kiện các yếu tố khác không đổi, sự gia
tăng vận tải hàng không 1% dẫn đến gia tăng
0,0101023% trong GVA bình quân đầu
người.
248
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 27+28, May 2018
Bảng 1. Kết quả phân tích hồi quy.
Biến Mô hình 1 Mô hình 2 Mô hình 3
Vận tải hàng không 1.01023*** 0.5234* (0.095) 0.5432 (0.431)
Giáo dục 0.0191*** (0.001) 0.0342*** (0.001)
Dân số
(8.790)***
(0.001) (9.832)*** (0.001)
Việc làm
0.7623*
(0.087)
Cảng hàng không N/a x x
N 211 135 135
R2 0.205 0.349 0.545
Nguồn: Tác giả phân tích
h
Ở mô hình thứ 2, tác giả xem xét tác
động của yếu tố giáo dục và dân số đến
GVA. Kết quả phân tích cho thấy: Ở mức ý
nghĩa 1%, giáo dục và GVA có mối quan hệ
dương. Kết quả này cũng có thể được hiểu là
GVA có khuynh hướng gia tăng ở các khu
vực mặt bằng dân trí cao. Mặt khác, tồn tại
mối quan hệ tiêu cực (có ý nghĩa thống kê)
giữa sự gia tăng dân số khu vực và GVA trên
đầu người.
Ở mô hình thứ 3, tất cả các biến đều
được xem xét và phân tích trong mô hình.
Yếu tố vận tải hàng không tác động dương
đến GVA nhưng hệ số này không có ý nghĩa
thống kê. Ngoài ra, yếu tố việc làm có tác
động tích cực (có ý nghĩa thống kê ở mức
10%) đến GVA. Tăng tỷ lệ việc làm 1% sẽ
giúp làm gia tăng GVA trên đầu người với tỷ
lệ 0,0076% trong trường hợp các yếu tố khác
không đổi.
5. Kết luận
Vận tải hàng không được xem là một
yếu tố rất quan trọng trong việc giải thích sự
tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Trong
những năm gần đây, lưu lượng vận tải hàng
không tăng đáng kể ở các nước đang phát
triển. Mục đích của nghiên cứu này là phân
tích ảnh hưởng tác động của sân bay đến hiệu
quả kinh tế của khu vực (thành phố/đô thị).
Kết quả nghiên cứu cho thấy vận chuyển
hàng không đóng vai trò quan trọng, là cơ sở
để các nhà hoạch định đưa ra quyết định phát
triển vận tải hàng không.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng vận tải
hàng không, giáo dục, dân số và việc làm có
mối quan hệ ý nghĩa với GVA. Sự xuất hiện
của biến cảng hàng không (Dummy variable)
có tác động đến các biến độc lập và biến phụ
thuộc GVA. Điều này cho thấy, bên cạnh các
yếu tố như giáo dục, dân số hay việc làm thì
sự hiện diện và phát triển của cảng hàng
không có tác động đến sự phát triển kinh tế
của khu vực.
Từ kết quả nghiên cứu trên, tác giả có
một số đề xuất như sau:
+ Đẩy mạnh năng lực vận tải hàng
không song phương và đa phương đối với
các thị trường truyền thống khu vực Đông
Nam Á, Đông Bắc Á và Trung Quốc;
+ Thúc đẩy kết nối vận tải hàng không
đến khu vực Nam Á và các nước Đông Âu;
+ Nhà nước nên có chính sách khuyến
khích các hãng vận tải lớn trên thế giới đầu
tư thành lập doanh nghiệp, chi nhánh và thiết
lập các đầu mối vận tải trung chuyển quốc tế
tại Việt Nam;
+ Tiếp tục đầu tư, nâng cấp hệ thống kết
cấu hạ tầng quản lý bay, đường lăn, sân đỗ,
nhà ga nhằm nâng cao hiệu quả khai thác các
cảng hàng không hiện có;
+ Ưu tiên việc mở rộng, nâng cấp các
cảng hàng không quốc tế như Tân Sơn Nhất,
Nội Bài, Đà Nẵng, Cát Bi, Cam Ranh và
đồng thời nhanh chóng xây dựng và đưa vào
vận hành cảng hàng không quốc tế Long
Thành giai đoạn 1 vào năm 2025
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI SỐ 27+28 – 05/2018
249
Tài liệu tham khảo
[1] “Chỉ số năng lực cạnh tranh hạ tầng GTVT Việt
Nam tăng đột phá” , Internet: https://goo.gl/FC7HsV,
truy cập ngày 16/03/2018.
[2] Thanh Bình, “Hàng không đóng góp 6 tỷ USD
vào GDP”, Internet: https://goo.gl/ANawb6, truy cập
ngày 16/03/2018.
[3] Bowen, J. (2000), “Airline hubs in Southeast Asia:
national economic development and nodal
accessibility”,Journal of Transport Geography, 8(1),
25-41.
[4] Dharmawan, I. G. N. I. (2012), “The Effect of Air
Transport to Economic Development in Indonesia”,
Erasmus University.
[5] Fernandes, E. & Pacheco, R. R (2010), “The
causal relationship between GDP and domestic air
passenger traffic in Brazil”, Transportation Planning
and Technology, 33(7), 569-581
[6] Goetz, A. R. (1992), “Air Passenger
Transportation and Growth in the US Urban System,
1950-1987”, Growth and Change, 23, 218-242.
[7] Tổng cục thống kê, “Thông cáo báo chí về tình
hình kinh tế - xã hội năm 2017”, Internet:
https://goo.gl/H7j2sW, truy cập ngày 16/03/2018.
Ngày nhận bài: 30/03/2018
Ngày chuyển phản biện: 10/04/2018
Ngày hoàn thành sửa bài: 23/04/2018
Ngày chấp nhận đăng: 07/05/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phan_tich_va_nghien_cuu_moi_quan_he_giua_cac_yeu_to_vi_mo_va.pdf