Thứ bảy, quyền tự do hàng hải thường
được nhắc tới trong vận chuyển hàng hóa
quốc tế bằng đường biển. Quyền tự do hàng
hải được ghi nhận trong nhiều điều ước, thỏa
thuận quốc tế và trong pháp luật quốc gia,
theo đó tàu thuyền của một hay nhiều quốc
gia được dễ dàng lưu thông qua một hay
nhiều quốc gia khác.
Nguyên tắc này có nguồn gốc từ tập
quán quốc tế, theo đó tàu mang cờ của bất kì
quốc gia có chủ quyền nào sẽ không chịu sự
can thiệp từ các quốc gia khác.
Quyền này đã phần nào được ghi nhận
trong Công ước Barcelona về tự do quá cảnh
năm 1921 về đảm bảo quyền tự do hàng hải
qua các vùng nước có tầm quan trọng về
phương diện quốc tế (cảng biển, sông, kênh
đào nhân tạo) và ngày nay được pháp điển
hoá thành qui định tại Điều 87 Công ước
Luật Biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc.
Thứ tám, có hiện tượng xung đột pháp
luật xảy ra trong hợp đồng vận chuyển hàng
hóa quốc tế bằng đường biển:
Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015,
Điều 3 đã ghi nhận nguyên tắc áp dụng pháp
luật khi có xung đột pháp luật, trong đó có
những quy định liên quan trực tiếp đến hợp
đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển:
“Trong trường hợp quan hệ pháp luật liên
quan đến quyền sở hữu tài sản trên tàu biển,
hợp đồng cho thuê tàu biển, hợp đồng thuê
thuyền viên, hợp đồng vận chuyển hành
khách và hành lý, phân chia tiền công cứu hộ
giữa chủ tàu cứu hộ và thuyền bộ của tàu cứu
hộ, trục vớt tài sản chìm đắm ở vùng biển
quốc tế, các vụ việc xảy ra trên tàu biển khi
tàu đang ở vùng biển quốc tế thì áp dụng
pháp luật của quốc gia mà tàu biển mang cờ
quốc tịch. Trong trường hợp quan hệ pháp
luật liên quan đến hợp đồng vận chuyển hàng
hoá thì áp dụng pháp luật của quốc gia nơi
hàng hoá được trả theo hợp đồng”.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 493 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích vấn đề pháp lý của hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển theo thực tiễn Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
96
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 30, Nov 2018
PHÂN TÍCH VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CỦA HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN
HÀNG HÓA QUỐC TẾ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
THEO THỰC TIỄN VIỆT NAM
THE LEGAL MATTERS OF CONTRACTS FOR INTERNATIONAL CARRIAGE
OF GOODS AT SEA IN VIET NAM PRACTICE
Nguyễn Tiến Đạt1, Nguyễn Thị Kim Thúy2
1Trường đại học GTVT TP. Hồ Chí Minh
2Đảng ủy khối cơ sở Bộ GTVT
Tóm tắt: Bài viết phân tích vấn đề pháp lý của hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng
đường biển theo thực tiễn Việt Nam, qua đó đề xuất những quan điểm nhằm giảm rủi ro cho các
doanh nghiệp Việt Nam trong tranh chấp (nếu có).
Từ khóa: Hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển, Vấn đề pháp lý, Tranh chấp.
Chỉ số phân loại: 3.5
Astract: The article analyzes the legal matters of contracts for international carriage of goods by
sea in Viet Nam practice. In the point of view, the author proposes the opinions to reduce the risk f or
Viet Nam companies in the business conflict (if any).
Keywords: Legal matters, contracts for international carriage of goods by sea, the business
conflict
Classification number: 3.5
1. Khái niệm hợp đồng vận chuyển
hàng hóa quốc tế bằng đường biển
Hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế
bằng đường biển, là sự thỏa thuận giữa bên
vận chuyển hàng hóa và bên thuê vận chuyển
hàng hóa. Theo đó, bên vận chuyển thu phí
dịch vụ vận chuyển do người thuê vận
chuyển trả và dùng tàu biển để vận chuyển
hàng hoá từ cảng nhận hàng đến cảng trả
hàng nằm ở những quốc gia hay vùng lãnh
thổ khác nhau.
Pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có
quy định cụ thể về hợp đồng có tính chất
quốc tế, vì vậy, có thể lý giải tính chất quốc
tế trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng
đường biển theo quan điểm của tư pháp quốc
tế. Tính chất quốc tế của hợp đồng liên quan
đến các dấu hiệu chủ thể, khách thể và sự
kiện pháp lý quy định tại Điều 663 Bộ luật
Dân sự Việt Nam 2015.
Qua đó, tính chất quốc tế của hợp đồng
vận chuyển hàng hoá bằng đường biển thể
hiện ở các dấu hiệu sau:
- Có ít nhất một bên chủ thể ký kết hợp
đồng có quốc tịch nước ngoài hay có trụ sở ở
nước ngoài;
- Hợp đồng được ký kết hoặc thực hiện ở
nước ngoài;
- Đối tượng của hợp đồng là hàng hoá
tồn tại ở nước ngoài;
- Do đặc thù của hợp đồng vận chuyển
hàng hóa quốc tế bằng đường biển nên hàng
hóa trong hợp đồng được vận chuyển từ các
cảng biển của quốc gia hay vùng lãnh thổ này
tới các cảng biển của quốc gia hay vùng lãnh
thổ khác.
Như vậy, theo pháp luật quốc tế, một
hợp đồng được coi là có tính chất quốc tế nếu
các bên có trụ sở thương mại ở các nước
khác nhau và có liên quan đến hai hay nhiều
hệ thống pháp luật khác nhau.
Cách đánh giá tính chất “quốc tế” của
hợp đồng dựa trên các tiêu chí này được coi
là hợp lý và có mối quan hệ gắn bó với nhau
vì chỉ các hợp đồng được giao kết giữa các
bên có “trụ sở” thương mại ở các nước khác
nhau sẽ liên quan đến hai hoặc nhiều hệ
thống pháp luật khác nhau có thể được áp
dụng. Trong thực tiễn hợp đồng có tính chất
quốc tế được thừa nhận rộng rãi hiện nay là
hợp đồng được ký kết giữa các thương nhân
có trụ sở thương mại nằm trên lãnh thổ các
quốc gia khác nhau.
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 30-11/2018
97
Do tính chất đặc thù của hàng hóa được
vận chuyển trong hợp đồng vận chuyển hàng
hóa bằng đường biển quốc tế nên hàng hóa
được vận chuyển từ các cảng biển của quốc
gia hay vùng lãnh thổ này tới các cảng biển
của quốc gia hay vùng lãnh thổ khác.
Đã có khá nhiều công ước quốc tế về
hàng hải và vận tải biển, tuy nhiên chỉ có hai
công ước quốc tế có đề cập trực tiếp tới quan
niệm về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc
tế bằng đường biển. Theo Mục b Điều 1
Công ước ước quốc tế thống nhất một số quy
tắc pháp luật về vận đơn đường biển ký năm
1924 (còn gọi là Công ước Brussel 1924) quy
định: “Hợp đồng vận chuyển được thể hiện
bằng vận đơn hoặc một chứng từ sở hữu
tương tự trong chừng mực chứng từ đó liên
quan đến việc vận chuyển hàng hóa bằng
đường biển, bao gồm bất kỳ vận đơn hoặc
chứng từ tương tự nào như đã nêu ở trên
được phát hành trên cơ sở hoặc theo một hợp
đồng thuê tàu kể từ thời điểm vận đơn hoặc
chứng từ sở hữu tương tự đó điều chỉnh các
mối quan hệ giữa một người chuyên chở với
một người cầm vận đơn”.
Theo Mục 6 Điều 1 Công ước Hamburg
1978, Công ước của Liên hợp quốc về
chuyên chở hàng hoá bằng đường biển năm
1978, khái niệm hợp đồng vận chuyển hàng
hóa bằng đường biển quốc tế được hiểu “là
bất kỳ hợp đồng nào mà theo đó người
chuyên chở đảm nhận chuyên chở hàng hóa
bằng đường biển từ một cảng này đến một
cảng khác để thu tiền cước. Tuy nhiên, một
hợp đồng bao gồm chuyên chở bằng đường
biển và cả phương tiện khác thì hợp đồng đó
chỉ được coi là hợp đồng chuyên chở bằng
đường biển theo nghĩa trong Công ước này,
nếu nó liên quan đến vận tải đường biển”.
Các quy định trên cho thấy, Công ước
Brussels 1924 chỉ điều chỉnh hợp đồng vận
chuyển hàng hóa bằng đường biển dưới dạng
vận đơn hay chứng từ tương tự như vận đơn,
còn Công ước Hamburg 1978 thì áp dụng
cho tất cả các loại hợp đồng vận chuyển bằng
đường biển kể cả vận đơn.
Theo Điều 145 Bộ luật Hàng hải Việt
Nam năm 2015, hợp đồng vận chuyển hàng
hoá bằng đường biển được định nghĩa như
sau: “Hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng
đường biển là thỏa thuận được giao kết giữa
người vận chuyển và người thuê vận chuyển,
theo đó người vận chuyển thu giá dịch vụ
vận chuyển do người thuê vận chuyển trả và
dùng tàu biển để vận chuyển hàng hoá từ
cảng nhận hàng đến cảng trả hàng”.
Từ quy định này có thể hiểu hoạt động
vận chuyển hàng hóa bằng đường biển của
Việt Nam mang tính dịch vụ, là hoạt động
doanh nghiệp khai thác tàu biển của mình để
vận chuyển hàng hóa từ cảng nhận hàng đến
cảng trả hàng và thu giá dịch vụ vận chuyển
do người thuê vận chuyển trả. Người chuyên
chở chính là người cung cấp dịch vụ vận tải
hàng hóa bằng đường biển.
Quy định của Bộ luật Hàng hải Việt
Nam năm 2015 về hợp đồng vận chuyển
hàng hóa bằng đường biển rõ ràng và đầy đủ
địa vị pháp lý và mối quan hệ của từng bên
liên quan trong hợp đồng vận chuyển hàng
hóa nhằm tạo sự đồng bộ và nhất quán trong
toàn bộ các điều khoản của chương hợp đồng
vận chuyển hàng hóa bằng đường biển.
Theo đó được hiểu, hoạt động vận
chuyển hàng hóa bằng đường biển là hoạt
động của người vận chuyển dùng tàu biển để
vận chuyển hàng hóa từ cảng nhận đến cảng
trả hàng trên cơ sở một hợp đồng vận chuyển
đã dược ký kết với người thuê vận chuyển.
2. Phân tích vụ tranh chấp trong hợp
đồng thuê tàu giữ công ty VICONSHIP
Việt Nam và công ty Sunleong ltd. Co,
Hongkong
2.1. Tóm tắt sự việc
Các bên:
- Nguyên đơn: Công ty VICONSHIP
Việt nam.
- Bị đơn: Sunleong ltd. Co, Hongkong
Nguyên đơn ký kết với Bị đơn một hợp
đồng chở 5.200 tấn gỗ tròn từ Rangoon,
Miến điện đến Huangpu, Trung quốc. Bị đơn
cam kết trả khoán 140.000 USD cước vận
chuyển cho ngân hàng, do bên Nguyên chỉ
định trong vòng ba ngày làm việc, kể từ khi
hoàn thành việc xếp hàng lên tàu và ký vận
đơn. Tàu phải đến cảng bốc hàng và phải ở
tình trạng sẵn sàng để xếp hàng vào khoảng
98
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 30, Nov 2018
thời gian giữa ngày 5/2 và ngày 15/2 năm
2013. Nguyên đơn đưa tàu đến Rangoon thứ
sáu ngày 12/2/13 và gửi thông báo sẵn sàng
bốc hàng vào hồi 17giờ 10 cùng ngày. Như
vậy theo quy định về thời gian xếp hàng
trong hợp đồng, thời gian xếp hàng sẽ bắt
đầu tính từ 13 giờ 00 ngày thứ bảy.
Nhưng Nguyên đơn không hề nhận được
tín hiệu gì về việc giao hàng từ phía Bị đơn.
Nguyên đơn đã liên tục liên hệ với Bị đơn
thông qua người môi giới thuê tàu, để xác
định xem hàng hoá đã sẵn sàng chưa. Vì Bị
đơn không trả lời, Nguyên đơn đã phải xác
minh điều này qua cảng Rangoon, thông qua
đại lý của mình.
Sau khi xác minh, Nguyên đơn biết
được rằng, Bị đơn không thể xếp số hàng ghi
trong hợp đồng vận chuyển và Bị đơn đang
gặp khó khăn lớn trong việc đáp ứng các yêu
cầu về giấy tờ thủ tục, theo các quy định về
xuất khẩu gỗ. Trước sự im lặng của Bị đơn,
Nguyên đơn đã đợi cho đến hết thời hạn xếp
hàng và ngày 27/2/2013 Nguyên đơn gửi cho
Bị đơn một bản Telex thông báo rằng, nếu
Nguyên đơn không nhận được trả lời của Bị
đơn, xác nhận sẽ bốc hàng lên tàu trong ngày
hôm đó thì Nguyên đơn sẽ coi là Bị đơn
không thể xếp hàng, và do đó vi phạm hợp
đồng và Nguyên đơn sẽ điều tàu đi nơi khác.
Bị đơn vẫn không trả lời và ngày hôm sau
Nguyên đơn gửi một Telex khẳng định,
Nguyên đơn coi hành vi của Bị đơn là vi
phạm hợp đồng và tuyên bố Nguyên đơn có
quyền tự do điều tàu đi nơi khác.
Thực tế ngày 12/3/13 Nguyên đơn đã ký
một hợp đồng chở phân Ure từ Indonesia về
TP HCM. Nguyên đơn đòi 72.354 USD tiền
bồi thường (140.000 USD cước khống trừ đi
các chi phí phải chi, khi hưởng khoản cước
đó cộng với tiền bồi thường do giữ tàu quá
hạn là 7000 USD tại cảng bốc hàng Rangoon
tính đến ngày chấm dứt hợp đồng). Bị đơn
phủ nhận việc mình đã vi phạm hợp đồng và
lập luận rằng trên thực tế, chính Nguyên đơn
mới là người phá hợp đồng, bằng việc điều
tàu đi nơi khác, trong khi Bị đơn chưa bao
giờ tuyên bố, sẽ không thực hiện hợp đồng.
Bị đơn kiện lại đòi bồi thường thiệt hại, bao
gồm tiền cước thực tế đã phải chi trả để vận
chuyển số hàng ghi trong hợp đồng, đến
miền nam Trung quốc vào khoảng giữa tháng
4 và tháng 10 năm 2013.
Phán quyết của trọng tài: Uỷ ban trọng
tài đã so sánh vụ việc này, với vụ việc gây
xôn xao dư luận có tên “Jupiter” vào những
năm 60, trong đó nhà khai thác dầu có tên
“Jupiter” đã ký hợp đồng thuê rất nhiều tàu
chở dầu, nhưng lại không phát lệnh bốc hàng,
ngoại trừ đối với các tàu đậu bên ngoài các
cảng trong vịnh Persic.
Các chủ tàu đã phải chọn lựa, hoặc đưa
tàu đi nơi khác và chịu mọi rủi ro, hoặc là
chờ đợi không biết đến bao giờ. Cuối cùng,
người ta đã không bao giờ còn thấy “Jupiter”
xuất hiện nữa và những chủ tàu đã phải chịu
thiệt hại, do sự cẩn trọng quá mức của mình.
Uỷ ban trọng tài cho rằng, trên thực tế
Nguyên đơn không có quyền hiểu, sự im lặng
của bị đơn là sự từ chối thực hiện hợp đồng
và do đó các thông báo do Nguyên đơn gửi
ngày 28, 29/2 là không có hiệu lực.
Tuy nhiên, Uỷ ban trọng tài cũng cho
rằng, cho đến ngày 29/2 khi Nguyên đơn coi
hợp đồngvận chuyển là đã chấm dứt, bị đơn
hoàn toàn không còn khả năng kiếm hàng và
xếp hàng lên tàu, trước khi việc trì hoãn của
Bị đơn phá vỡ quan hệ hợp đồng vận chuyển.
Trên cơ sở các chứng cứ trình ra trước Uỷ
ban trọng tài, Bị đơn không thể chứng minh
khả năng thực hiện hợp đồng, tức là xếp hàng
lên tàu, trước khi việc trì hoãn trở thành, một
vi phạm nghiêm trọng đối với hợp đồng, cụ
thể đến tận tháng 10 năm 2013, Bị đơn vẫn
còn tiếp tục xếp hàng lên tàu và Bị đơn đã
không đưa ra được bằng chứng nào, chứng
minh lập luận rằng, trước đó họ đã cố gắng
kiếm tàu để xếp hàng.
Hơn nữa, Bị đơn cũng không chứng
minh được rằng, đã có đầy đủ các tài liệu và
giấy phép xuất khẩu theo luật Miến điện tại
thời điểm bốc hàng, theo hợp đồng vận
chuyển với Nguyên đơn để có thể bốc hàng
lên tàu. Do đó, Uỷ ban trọng tài chấp nhận
yêu cầu của Nguyên đơn, đòi bồi thường
thiệt hại và tiền phạt do giữ tàu quá lâu trước
khi hợp đồng vận chuyển bị chấm dứt.
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 30-11/2018
99
2.2. Bình luận
Trong những trường hợp tương tự, chủ
tàu cần phải tuyên bố ràng buộc người thuê
tàu, rằng mọi sự im lặng của người thuê tàu
có giá trị tương tự như là một sự xác nhận,
rằng người thuê tàu đã không có hàng và đã
vi phạm hợp đồng, chỉ trong trường hợp đó,
chủ tàu mới có quyền điều tàu đi chở lô hàng
khác và đòi thiệt hại thực tế phát sinh.
3. Các lưu ý trong thực hiện hợp đồng
vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường
biển
Từ các phân tích trên, thông qua phân
tích trường hợp tranh chấp cụ thể tác giả xin
đề xuất những lưu ý sau:
Thứ nhất, hợp đồng vận chuyển hàng
hóa quốc tế bằng đường biển là một loại hợp
đồng dịch vụ có tính chất quốc tế, trong đó
đối tượng của hợp đồng là hoạt động vận
chuyển hàng hóa từ cảng nhận hàng đến cảng
trả hàng nằm ở những quốc gia hay vùng
lãnh thổ khác nhau.
Hợp đồng này được ký kết giữa bên
nhận dịch vụ (bên vận chuyển) và bên thuê
dịch vụ (bên thuê vận chuyển). Trên cơ sở
các nội dung ký kết, bên nhận dịch vụ có
nghĩa vụ dùng tàu biển để chuyên chở một
khối lượng hàng hóa bằng đường biển từ
cảng của một nước này đến cảng của một
nước khác theo chỉ dẫn của bên thuê dịch vụ
và được nhận tiền công làm dịch vụ gọi là
phí dịch vụ do bên thuê dịch vụ trả.
Thứ hai, về chủ thể của hợp đồng: Hợp
đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng
đường biển được ký kết giữa người vận
chuyển hàng hóa và người thuê vận chuyển
hàng hóa hay người gửi hàng.
Người vận chuyển được hiểu là người tự
mình hoặc uỷ quyền cho người khác giao kết
hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường
biển với người thuê vận chuyển. Như vậy,
người vận chuyển có thể thực hiện toàn bộ
hay một phần việc vận chuyển hàng hoá,
nhưng cũng có thể uỷ thác cho người khác
thực hiện toàn bộ hay một phần việc vận
chuyển, người vận chuyển được uỷ thác này
gọi là người vận chuyển thực tế.
Thứ ba, về hình thức của hợp đồng vận
chuyển hàng hóa bằng đường biển, Điều 146
Bộ luật hàng hải Việt Nam 2015 quy định
“Hợp đồng vận chuyển theo chứng từ vận
chuyển được giao kết theo hình thức do các
bên thỏa thuận; hợp đồng vận chuyển theo
chuyến phải được giao kết bằng văn bản”.
Hiện nay, do sự phát triển của công nghệ
thông tin đã dẫn đến sự ra đời của các hình
thức khác tiên tiến hơn như ký kết hợp đồng
thông qua mạng internet, fax hoặc telex
Hợp đồng được ký kết thông qua phương tiện
điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu đã
được pháp luật dân sự nước ta thừa nhận và
coi là giao dịch bằng văn bản.
Theo đó, nội dung các quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể vẫn được thỏa thuận và đảm
bảo thực hiện mà lại tiết kiệm thời gian và
chi phí.
Thứ tư, hợp đồng vận chuyển hàng hóa
quốc tế bằng đường biển là hợp đồng song vụ
có đền bù. Hai bên trong hợp đồng vận
chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển là
bên vận chuyển và bên thuê vận chuyển đều
có các quyền và nghĩa vụ tương ứng với
nhau, bên vận chuyển có nghĩa vụ vận
chuyển tài sản đến đúng địa điểm thỏa thuận,
bảo quản tài sản đúng thời hạn và địa điểm
đã thỏa thuận.
Cước phí mà bên thuê vận chuyển thanh
toán cho bên vận chuyển chính là số tiền đền
bù trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc
tế bằng đường biển.
Thứ năm, hợp đồng vận chuyển hàng
hóa quốc tế bằng đường biển là cơ sở pháp lý
xác định quan hệ pháp luật giữa các chủ thể
hợp đồng.
Trong hợp đồng, các bên xác định
quyền, nghĩa vụ của mình thông qua các điều
khoản cụ thể, đồng thời đây là căn cứ để giải
quyết tranh chấp khi có mâu thuẫn phát sinh
giữa các bên trong hợp đồng.
Thứ sáu, các tranh chấp về vận tải biển
quốc tế thường được giải quyết bằng trọng tài
hàng hải quốc tế. Đây là điểm khác biệt khá
quan trọng của vận tải biển quốc tế.
Nếu đối với các phương thức giải quyết
tranh chấp khác, trọng tài và tòa án cùng
100
Journal of Transportation Science and Technology, Vol 30, Nov 2018
đóng vai trò quan trọng, thì đối với vận tải
biển quốc tế, trọng tài hàng hải quốc tế chiếm
vị trí nổi bật.
Bộ luật Hàng hải Việt Nam cũng ghi
nhận đặc thù này khi quy định về giải quyết
tranh chấp hàng hải có ít nhất một bên là tổ
chức, cá nhân nước ngoài, theo khoản 2 Điều
339: “Trường hợp các bên liên quan đến
tranh chấp hàng hải đều là tổ chức, cá nhân
nước ngoài và có thoả thuận bằng văn bản
giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài Việt
Nam thì Trọng tài Việt Nam có quyền giải
quyết đối với tranh chấp hàng hải đó, ngay cả
khi nơi xảy ra tranh chấp ngoài lãnh thổ Việt
Nam”.
Thứ bảy, quyền tự do hàng hải thường
được nhắc tới trong vận chuyển hàng hóa
quốc tế bằng đường biển. Quyền tự do hàng
hải được ghi nhận trong nhiều điều ước, thỏa
thuận quốc tế và trong pháp luật quốc gia,
theo đó tàu thuyền của một hay nhiều quốc
gia được dễ dàng lưu thông qua một hay
nhiều quốc gia khác.
Nguyên tắc này có nguồn gốc từ tập
quán quốc tế, theo đó tàu mang cờ của bất kì
quốc gia có chủ quyền nào sẽ không chịu sự
can thiệp từ các quốc gia khác.
Quyền này đã phần nào được ghi nhận
trong Công ước Barcelona về tự do quá cảnh
năm 1921 về đảm bảo quyền tự do hàng hải
qua các vùng nước có tầm quan trọng về
phương diện quốc tế (cảng biển, sông, kênh
đào nhân tạo) và ngày nay được pháp điển
hoá thành qui định tại Điều 87 Công ước
Luật Biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc.
Thứ tám, có hiện tượng xung đột pháp
luật xảy ra trong hợp đồng vận chuyển hàng
hóa quốc tế bằng đường biển:
Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015,
Điều 3 đã ghi nhận nguyên tắc áp dụng pháp
luật khi có xung đột pháp luật, trong đó có
những quy định liên quan trực tiếp đến hợp
đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển:
“Trong trường hợp quan hệ pháp luật liên
quan đến quyền sở hữu tài sản trên tàu biển,
hợp đồng cho thuê tàu biển, hợp đồng thuê
thuyền viên, hợp đồng vận chuyển hành
khách và hành lý, phân chia tiền công cứu hộ
giữa chủ tàu cứu hộ và thuyền bộ của tàu cứu
hộ, trục vớt tài sản chìm đắm ở vùng biển
quốc tế, các vụ việc xảy ra trên tàu biển khi
tàu đang ở vùng biển quốc tế thì áp dụng
pháp luật của quốc gia mà tàu biển mang cờ
quốc tịch. Trong trường hợp quan hệ pháp
luật liên quan đến hợp đồng vận chuyển hàng
hoá thì áp dụng pháp luật của quốc gia nơi
hàng hoá được trả theo hợp đồng”.
4. Kết luận
Qua phân tích trên có thấy rằng, yêu cầu
đặt ra đối với Việt Nam là cần phải tiếp tục
sửa đổi bổ sung hoàn thiện các quy định của
pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động
dịch vụ vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng
đường biển cho phù hợp hơn với các yêu cầu
thực tiễn của Việt Nam và thực tiễn thương
mại hàng hải quốc tế.
Việc vận dụng các điều khoản của hợp
đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng
đường biển sẽ góp phần đáng kể vào việc
nâng cao hiểu biết của cá nhân, tổ chức về
luật hàng hải quốc tế, bảo vệ được quyền và
lợi ích chính đáng của các bên khi tham gia
kí kết và thực hiện hợp đồng.
Trên cơ sở đó tạo điều kiện thuận lợi cho
nước ta phát triển dịch vụ vận tải hàng hóa
quốc tế bằng đường biển và đưa Việt Nam
trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ
biển.
Tài liệu tham khảo:
[1] Stewart E. Sterk (1994) The Marginal Relevance
of Choice of Law Theory,142 U. Pa. L. Rev.
949, tr.10.
[2] Công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế (CISG 1980)-United
Nations Convention on Contracts for the
International Sale of Goods.
[3] Bộ Nguyên tắc của UNIDROIT về Hợp đồng
thương mại quốc tế.
[4] Hoàng Thế Liên (chủ biên) (2006), Hội nhập
kinh tế quốc tế (Tài liệu bồi dưỡng ngành tư
pháp), Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.693.
[5] Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam (2015), Bộ luật Dân sự.
[6] Công ước quốc tế thống nhất một số quy tắc về
vận đơn đường biển, gọi tắt là Công ước Brussels
năm 1924 (Quy tắc Hague).
[7] Công ước Liên hợp quốc về vận chuyển hàng
hóa bằng đường biển 1978 (Quy tắc
Hamburg)Maritime Code of the People'S
Republic of China 1992.
[8] The Merchant Shipping Code of Ukraine 1995
TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ GIAO THÔNG VẬN TẢI, SỐ 30-11/2018
101
[9] Dupuy, R.J., VIGNES, D, A handbook on the
new law of the sea, Martinus Nijhoff Publishers,
1991, tr. 386.
[10] Công ước Luật biển năm 1982 của Liên Hợp
Quốc.
Ngày nhận bài: 15/10/2018
Ngày chuyển phản biện: 18/10/2018
Ngày hoàn thành sửa bài: 8/11/2018
Ngày chấp nhận đăng: 15/11/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phan_tich_van_de_phap_ly_cua_hop_dong_van_chuyen_hang_hoa_qu.pdf