Dựa trên những phân tích ở hai phần
trên, có thể thấy rằng quá trình pháp điển hóa
ở Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với
các quốc gia thuộc truyền thống châu Âu lục
địa, thứ nhất bởi sự ảnh hưởng của truyền
thống này tới nước ta qua quá trình thuộc địa
trước đây, và thứ hai là bởi sự gần gũi giữa
truyền thống Dân luật và truyền thống pháp
luật xã hội chủ nghĩa. Từ sau Đổi Mới, với
nhu cầu cấp thiết cần những đạo luật điều
chỉnh các quan hệ từ mới phát sinh, quá trình
pháp điển hóa phát triển mạnh mẽ ở Việt
Nam với hàng loạt các đạo luật lớn nhỏ,
trong đó đáng chú ý phải nhắc tới Bộ luật
Dân sự đầu tiên năm 1995. Sau hơn 20 năm,
sự ra đời của Bộ luật Dân sự hiện hành vào
năm 2015 đã phần nào khắc phục được thiếu
sót của những bộ luật trước nó. Nhưng điều
này không đồng nghĩa với việc bộ luật hiện
hành đã thực sự hoàn hảo. Từ những phân
tích ở trên, tác giả đưa ra hai điểm quan
trọng mà thiết nghĩ, chúng ta có thể cân nhắc
để có những thay đổi trong lần sửa đổi tiếp
theo của bộ luật này, cũng như trong quá
trình pháp điển hóa các đạo luật thuộc lĩnh
vực luật tư.
Thứ nhất, lựa chọn một mô hình pháp
điển hóa thống nhất. Bộ luật Dân sự Việt
Nam hiện nay là sự kết hợp giữa mô hình
Đức và mô hình Pháp, với cấu trúc bao gồm
phần chung chứa đựng các quy định mang
tính khái quát, nhưng các phần riêng lại có
nội dung khá tương tự với Bộ luật Dân sự
Pháp69. Việc sao chép một cách hoàn toàn
chưa bao giờ được xem là đúng đắn, đặc biệt
là trong quá trình pháp điển hóa, nhưng
những thay đổi và kết hợp cần phải đi cùng
với sự cân nhắc về tính hệ thống và sự phù
hợp của chúng. Kỹ thuật pháp điển hóa theo
trường phái Pandectists của người Đức tỏ rõ
sự vượt trội về tính khoa học và rõ ràng của
nó, nhưng lại đòi hỏi trình độ và kỹ thuật
pháp lý cao, điều mà Việt Nam chưa thể đáp
ứng trong một thời gian tương đối dài trong
tương lai. Do đó, lựa chọn mô hình của Pháp
như một hình mẫu để chúng ta có thể thiết
kế nên một bộ luật là phương án xứng đáng
được cân nhắc cẩn trọng.
13 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 295 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Pháp điển hóa luật tư: Mô hình và thực tiễn quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 7(407) - T4/202052 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
Trần Kiên*
Phạm Hồ Nam**
*TS. Phó Viện trưởng, Viện Nghiên cứu Phát triển xã hội; Giảng viên Bộ môn Luật Dân sự, Khoa Luật - ĐHQGHN
**Nghiên cứu viên, Viện Nghiên cứu Phát triển xã hội; Université de Paris, Cộng hòa Pháp
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Pháp điển hóa, luật tư, các truyền
thống pháp lý, luật so sánh.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 07/01/2020
Biên tập : 15/01/2020
Duyệt bài : 03/02/2020
Article Infomation:
Key words: codification, private law, legal
traditions, comparative law.
Article History:
Received : 07 Jan. 2020
Edited : 15 Jan. 2020
Approved : 03 Feb. 2020
Tóm tắt:
Bài viết tập trung phân tích pháp điển hóa dưới góc độ so sánh
giữa hai truyền thống Dân luật và Thông luật, làm rõ những
trường phái lý thuyết liên quan, cấu trúc của các bộ pháp điển
cũng như kỹ thuật pháp điển của từng quốc gia, từ đó rút ra
những kết luận và kinh nghiệm có giá trị tham khảo đối với hoạt
động pháp điển hóa ở Việt Nam, góp phần vào quá trình xây
dựng và hoàn thiện pháp luật.
Abstract:
This article is focused on analysis of codification by comparison
between the traditional laws - Civil Law and Common Law,
clarifying the relevant theories, the structure of the codifications
as well as the codification techniques of each country. It is then
to provide conclusions and experiences as reference for
codification activities in Vietnam, to facilitate the law
developments and improvements.
1. Dẫn nhập
Trong thuở sơ khai của nền văn minh
nhân loại, các quy tắc ứng xử trong xã hội
không tồn tại dưới các dạng thành văn như
chúng ta biết đến phổ biến ngày nay, mà chỉ
nằm trong những tập quán được duy trì và
tiếp nối đến các thế hệ sau chủ yếu dựa trên
khả năng ghi nhớ và truyền miệng của cộng
đồng2. Những quy tắc tập quán này là nguồn
duy nhất điều chỉnh các quan hệ phát sinh
giữa các thành viên trong cộng đồng đó. Tuy
nhiên, sự phát triển nhanh chóng dẫn đến
yêu cầu xã hội cần phải được tổ chức một
cách có hệ thống hơn mà trong khi đó,
những quy tắc tập quán dần bộc lộ rõ yếu
điểm của mình - thiếu rõ ràng, thiếu ổn định,
hạn chế trong phạm vi áp dụng - và không
cung cấp đủ những giải pháp cần thiết điều
chỉnh các quan hệ pháp lý mới phát sinh3. Vì
lẽ đó, những bộ luật thành văn đầu tiên ra
đời với mục đích tạo lập nên một hệ thống
các quy định minh thị, cụ thể và rõ ràng,
chứa đựng những quy tắc mang tính khái
quát áp dụng với các thành viên trong cộng
đồng. Những bộ luật đầu tiên được ghi nhận
1 Bài viết này được phát triển từ nghiên cứu đã công bố: Trần Kiên, Phạm Hồ Nam, “Pháp điển hóa luật tư”
trong Nguyễn Mạnh Thắng, Đồng bộ hóa luật tư ở Việt Nam hiện nay (Nxb. Công an Nhân dân, 2018).
2 Csaba Varga, Codification as a Socio-Historical Phenomenon (Second, Szent István Társulat 2011), p.28.
3 George Mousourakis, The Historical and Institutional Context of Roman Law (Routledge 2003), p.115.
PHÁP ĐIểN HóA LUẬT TƯ:
Mô HÌNH VÀ THỰC TIỄN QUỐC TẾ1
53Số 7(407) - T4/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
xuất hiện trong thời kỳ cổ đại: Bộ luật
Urnammu được ban hành vào khoảng năm
2100 TCN dưới thời trị vì của vua
Urnammu, xứ Ur, ở Lưỡng Hà cổ đại4; Bộ
luật Hammurabi ở Babylon được ban hành
vào khoảng năm 1700 TCN, lấy cảm hứng
từ tập hợp những phán quyết và tập quán của
người Sumeri và Akkad5; Luật 12 Bảng
được ban hành ở La Mã cổ đại năm 450
TCN và nổi bật nhất là Bộ luật của hoàng đế
Justinian La Mã vào năm 534 SCN với
những quy định ở nhiều vấn đề và lĩnh vực
khác nhau6. Kỹ thuật pháp lý để tạo nên
những bộ luật này được gọi là pháp điển hóa.
Pháp điển hóa (codification), theo định
nghĩa của Black’s Law Dictionary, là “quá
trình tập hợp, sắp xếp và hệ thống hóa các
quy định của hệ thống pháp luật, hoặc của
một ngành luật nhất định, vào trong một bộ
luật có trật tự”7.
Theo truyền thống khoa học pháp lý Việt
Nam, pháp điển hóa“là hoạt động của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền về tập hợp,
sắp xếp các quy phạm pháp luật trong các
văn bản quy phạm pháp luật đang còn hiệu
lực theo một trình tự nhất định, loại bỏ
những quy phạm lỗi thời, mâu thuẫn, sửa
đổi, bổ sung, hoàn thiện, xây dựng những
quy phạm mới thay thế cho các quy phạm đã
bị loại bỏ để xây dựng các bộ pháp điển”,
và kết quả của quá trình này là việc “tạo lập
nên những văn bản quy phạm pháp luật mới
theo đúng trình tự, thủ tục pháp lý nhất định
và có giá trị pháp lý bắt buộc thực hiện”8.
Từ hai định nghĩa trên, có thể hiểu rằng,
pháp điển hóa là quá trình không chỉ tập hợp
các quy tắc pháp lý có sẵn vào một đạo luật
hay bộ luật, mà còn làm cho tập hợp những
quy tắc ấy có sự liên kết và có tính hệ thống.
Trên thế giới ngày nay, hoạt động pháp điển
hóa thường diễn ra trong lĩnh vực luật tư nói
chung, hay cụ thể hơn là các ngành luật như
dân sự, thương mại, sở hữu trí tuệ, hình
sự, đối với những quốc gia không có sự
phân loại công - tư trong hệ thống pháp luật.
Một trong những điểm khác biệt giữa hệ
thống pháp luật xã hội chủ nghĩa và các hệ
thống pháp luật khác là việc đặt luật hình sự
vào ngành luật công. Về bản chất, phần lớn
quan hệ hình sự trong các hệ thống pháp luật
Dân luật hay Thông luật gắn bó chặt chẽ với
các quyền lợi của các chủ thể tư, gồm các
quyền liên quan đến nhân thân như quyền
được sống, quyền được bảo đảm về thân
thể, và các quyền liên quan đến tài sản
như quyền sở hữu. Vì vậy, khi nhắc đến pháp
điển hóa, các bộ pháp điển hóa luật tư vẫn
được xem là phổ biến và mang tính đại diện
hơn cả.
Trong hệ thống khoa học pháp lý ngày
nay, đặc biệt là trong lĩnh vực luật so sánh,
các luật gia thường phân loại các hệ thống
pháp luật chính yếu trên thế giới thành hệ
thống Dân luật (Civil Law) và hệ thống
Thông luật (Common Law). Một trong
những đặc điểm quan trọng nhất dùng để
phân biệt hai truyền thống pháp luật phổ
biến này nằm ở tính pháp điển hóa: nếu như
truyền thống Dân luật, chịu nhiều ảnh hưởng
của luật La Mã, xây dựng các bộ luật chứa
đựng những quy định mang tính khái quát,
luật thành văn trong truyền thống Thông
luật, dù là nguồn được ưu tiên nhất, nhưng
không phổ biến bởi ảnh hưởng của các phán
quyết tư pháp. Tuy nhiên, nhu cầu hài hòa
và thống nhất hóa pháp luật đã kéo gần
khoảng cách giữa hai truyền thống pháp luật
để tiếp thu và học hỏi những kinh nghiệm
4 Nguyễn Minh Tuấn, “Bộ luật Urnammu - Nội dung và giá trị”;
bo-luat-urnammu-noi-dung-va-gia-tri.html, accessed 13 September 2018.
5 Jean Louis Bergel, ‘Principal Features and Methods of Codification’ (1988) 48 Louisiana Law Review.
6 George Mousourakis (n 3) p.119.
7 Codification: The process of compiling, arranging, and systematizing the laws of a given jurisdiction, or
of a discrete branch of the law, into an ordered code, Bryan A. Gagner (ed), Black’s Law Dictionary (9th
edn, West Publishing Co 2009) p.294.
8 Hoàng Thị Kim Quế (ed), Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội năm
2015, tr.388-389.
Số 7(407) - T4/202054 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
của nhau, nhằm hoàn thiện hệ thống pháp
luật của mình với cứu cánh là đạt đến sự
công bằng và hợp lý của các quy tắc pháp lý.
Vì vậy, án lệ ngày nay không còn là kỹ thuật
pháp lý xa lạ với các luật gia Dân luật, và
quá trình pháp điển hóa cũng trở nên phổ
biến hơn tại các quốc gia thuộc truyền thống
Thông luật. Do đó, nghiên cứu về pháp điển
hóa không thể chỉ dừng lại ở những quan
điểm và tri thức truyền thống của hệ thống
Dân luật, mà cần thiết phải đánh giá và xem
xét xu hướng phát triển của quá trình pháp
điển diễn ra ở những quốc gia thuộc truyền
thống Thông luật.
2. Pháp điển hóa trong truyền thống Dân
luật (Substantive Codification)
2.1. Khái quát chung
Truyền thống Dân luật thường được gắn
với sự hình thành và phát triển của luật La
Mã cổ đại, đánh dấu bởi sự ra đời của luật
Mười Hai Bảng9. Nhưng sau nhiều thế kỷ bị
lãng quên kể từ sự sụp đổ của Đế
chếByzantine, luật La Mã được tái sinh
trong thời kỳ Phục Hưng, giai đoạn mà xã
hội châu Âu tái nhận thức được tầm quan
trọng của các quy tắc pháp lý trong việc duy
trì ổn định và trật tự xã hội, thay thế cho
những giáo điều tôn giáo trong thời kỳ Trung
cổ. Pháp luật trở lại với vị thế độc lập của
nó, và từ đó, trở thành đặc trưng cho lối tư
duy cũng như nền văn minh châu Âu10. Sự
tái sinh của pháp luật trong xã hội cũng đánh
dấu sự phát triển của các trường phái pháp
lý mới: (1) trường phái Luật học sư
(Glassators), (2) trường phái Chú giải
(Commentators) hay Hậu Luật học sư (post-
Glossators), (3) trường phái Nhân văn
(Humanists), (4) trường phái Luật Tự nhiên
(Natural Law) và (5) trường phái Hiện đại
kiểu Đức (Pandectists).
Pháp điển hóa được xem là một trong
những phương diện thành công của phong
trào Luật Tự nhiên từ thế kỷ XVI đến thế kỷ
XVIII. Khác với tên gọi của mình, trường
phái Luật Tự nhiên chối bỏ sự phụ thuộc của
con người vào một đấng toàn năng, đặt con
người vào trung tâm của mọi chế độ xã hội.
Theo xu hướng chung của phong trào Phục
hưng, các luật gia của trường phái này khẳng
định rằng luật pháp là sản phẩm của lý trí
con người chứ không phải là một hiện tượng
tự nhiên, thay thế các phương pháp kinh viện
bằng việc mượn các phương pháp từ các
ngành khoa học để xây dựng nên một hệ
thống có tính logic11. Sự ủng hộ cho chủ
nghĩa duy lý đã hướng mối quan tâm của các
luật gia tới pháp điển hóa, cách thức được
xem là hiệu quả nhất để lưu giữ và duy trì
những nguyên tắc và quy tắc pháp lý được
gìn giữ, phát triển, và giảng dạy tại các
trường đại học, nơi tập hợp những trí tuệ đạt
đến đỉnh cao, và để mang những tinh hoa đó
áp dụng vào đời sống xã hội trong thực
tiễn12. Pháp điển hóa được coi là kỹ thuật cần
thiết để hiện thực hóa những ý đồ của trường
phái Luật Tự nhiên, củng cố tiến trình phát
triển của Luật La Mã qua nhiều thế kỷ, giải
thích một cách có hệ thống pháp luật sao cho
phù hợp với hoàn cảnh xã hội thế kỷ XVIII,
do đó được tiếp nhận và áp dụng ở cả
phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn13.
Kỹ thuật pháp điển hóa ở các quốc gia
thuộc truyền thống dân luật được gọi là kỹ
thuật pháp điển hóa nội dung (substantive
codification). Pháp điển hóa nội dung, hay
pháp điển hóa thực chất, là quá trình bao
gồm việc tạo ra và định hình “một tập hợp
chặt chẽ của các quy tắc mới và tân tiến”
với mục đích nhằm “tạo lập hoặc đánh giá
một trật tự pháp lý”14. Cụ thể hơn, kỹ thuật
9 John Henry Merryman and Rogelio Pérez-Perdomo, The Civil Law Tradition: An Introduction to the Legal
Systems of Europe and Latin America (3rd edn, Stanford University Press 2007) p.2.
10 René David and John E. C. Brierley, Major Legal Systems in the World Today: An Introduction to the
Comparative Study of Law (Third, Stevens & Sons 1985) p.39.
11 René David and John E. C. Brierley (n 10) p.47.
12 Peter de Cruz, Comparative Law in a Changing World (Cavendish Publishing 1999) p.58.
13 René David and John E. C. Brierley (n 10) p.64.
55Số 7(407) - T4/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
pháp điển hóa này tập trung vào việc xây
dựng một văn bản quy phạm pháp luật mới
trên cơ sở tập hợp, rà soát và hệ thống hóa
các quy định của pháp luật ở nhiều văn bản
quy phạm pháp luật khác nhau, cùng với sự
sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện. Nói cách
khác, kỹ thuật pháp điển hóa nội dung có
bản chất là một hoạt động lập pháp của Nghị
viện/Quốc hội, xây dựng một đạo luật thành
văn mới để đáp ứng nhu cầu của thực tiễn15.
Pháp điển hóa nội dung, không chỉ bó
hẹp như tên gọi của mình, có những yêu cầu
về cả phương diện nội dung và phương diện
hình thức. Về mặt nội dung, mỗi bộ luật đều
chịu ảnh hưởng của những tư tưởng nhất
định, thể hiện tính hệ thống hóa và hoàn thiện
của nó trong mối tương quan với toàn bộ hệ
thống pháp luật hay một ngành luật cụ thể với
mục đích duy trì sự ổn định16. Hơn nữa, bởi
mỗi đạo luật là sự thể hiện ra bên ngoài các
quy tắc pháp lý, hình thức của kỹ thuật pháp
điển không chỉ thể hiện tính đặc thù mà còn
phản ánh nội dung và tính hệ thống của đạo
luật ấy. Về phương diện hình thức này, các
luật gia thường đề cập tới hai khía cạnh, đó
là (1) cấu trúc của bộ pháp điển và (2) cách
thức diễn đạt ngôn từ trong bộ pháp điển đó.
Phụ thuộc vào tư tưởng, trường phái, cũng
như quan điểm của những nhà lập pháp, mỗi
đạo luật, bộ luật lại mang một dấu ấn riêng
về hình thức, qua đó thể hiện mong muốn đạt
được mục đích của họ? thông qua quá trình
xây dựng pháp luật, đồng thời tạo nên sự hài
hòa và thống nhất cho cả hệ thống17.
Khi nhắc tới pháp điển hóa luật tư, ý
tưởng đầu tiên xuất hiện thường sẽ tập trung
vào các bộ dân luật, đặc biệt là hai bộ dân
luật điển hình của Pháp và Đức. Hai quốc gia
kể trên có chung đường biên giới, cùng
thuộc lục địa châu Âu, chia sẻ một nền tảng
lịch sử pháp lý chung của Tây Âu, nhưng hai
bộ pháp điển của hai quốc gia này lại đi theo
những trường phái hoàn toàn khác biệt, thể
hiện những cách tiếp cận khác nhau về quá
trình pháp điển hóa, qua đó cung cấp cho
chúng ta những chất liệu quan trọng để phân
tích, đánh giá và xem xét sự đa dạng trong
quá trình pháp điển hóa trong cùng một
truyền thống pháp luật.
2.2. Pháp điển hóa luật tư ở Pháp
Cho tới trước Cách mạng Pháp năm
1789, nước Pháp không có hệ thống luật tư
thống nhất trên toàn lãnh thổ, mà chia thành
hai vùng với hệ thống pháp luật khác nhau:
nửa phía Bắc áp dụng pháp luật thành văn
dựa trên nền tảng luật La Mã, trong khi nửa
phía Nam lại áp dụng các tập quán pháp có
nguồn gốc chủ yếu từ Đức và từ những ghi
chép của các cá nhân. Chính sự thiếu nhất
quán này là một trong những trở lực lớn kìm
hãm sự phát triển kinh tế xã hội18. Và khi
tình hình nước Pháp đã ổn định trở lại sau
Cách mạng nhờ sự kiểm soát của Napoléon,
công cuộc pháp điển hóa được tiến hành như
một trong những biện pháp cải tổ và chấn
chỉnh xã hội sau những biến cố mới xảy ra.
Nước Pháp được xem như quê hương
của pháp điển hóa19; điều này được đánh dấu
bởi sự ra đời của Bộ luật Dân sự Pháp, hay
Bộ luật Napoléon vào năm 1804, với sự nỗ
lực của ông cùng bốn luật gia hàng đầu của
Pháp lúc bấy giờ. Tuy nhiên, tiến trình pháp
điển hóa cần được xem xét trước tiên từ
những ảnh hưởng về mặt tư tưởng và lý
thuyết. Ý niệm về lý trí tự nhiên ảnh hưởng
mạnh mẽ tởi tư duy pháp lý của Pháp vào thế
kỷ XVII và XVIII. Một mặt, các luật gia sử
dụng Luật La Mã như một dạng lý trí thành
14 Jean Louis Bergel (n 5).
15 HoàngThị Kim Quế (ed), Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật,Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội năm
2015, tr.389.
16 Sigmund Samuel, ‘The Codification of Law’ (1943) 5 The University of Toronto Law Journal p.148; Jean
Louis Bergel (n 5).
17 Jean Louis Bergel (n 5).
18 Michael Bogdan, Luật so sánh (Lê Hồng Hạnh and Dương Thị Hiền trs, Swiss: KLuwer Law and Taxation
2004) 131, 132.
19 Rémy Cabrillac, ‘Les Enjeux de La Codification En France’ (2005) 46 Les Cahiers de droit p.533.
Số 7(407) - T4/202056 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
văn để giải thích và bình luận các tập quán,
coi Luật La Mã như những giải pháp cần
thiết khi tập quán có thiếu sót, từ đó cố gắng
xây dựng một hệ thống pháp luật dựa trên
luật La Mã cổ đại20. Mặt khác, những quan
niệm về pháp luật của trường phái Luật Tự
nhiên là nền tảng quan trọng của những học
giả soạn thảo nên Bộ dân luật. Chính điều
này đã dẫn đến sự xem xét lại một cách toàn
diện các quy tắc của Luật La Mã dưới ánh
sáng của lý trí: các quy tắc đang tồn tại được
sắp xếp theo một lối logic hợp lý hơn; các
nguyên tắc chung của pháp luật được phát
triển, tạo tiền đề cho lối tư duy diễn dịch có
hệ thống. Chủ nghĩa duy lý, vì vậy, đã tạo
nên cơ sở lý thuyết vững chắc cho quá trình
thống nhất pháp luật của Pháp trong giai
đoạn này21.
Về phương diện nội dung, trường phái
luật tự nhiên cung cấp cho những nhà lập
pháp ý niệm rằng pháp luật phải bình đẳng
với tất cả mọi người. Bên cạnh đó, Bộ luật
Napoléon cũng được đặt trên những ý niệm
cơ bản khá mới mẻ trong thời kỳ này: sự
thống nhất của pháp luật trên toàn bộ lãnh thổ,
sự ghi nhận lập pháp như là cơ quan duy nhất
được quyền làm luật, sự bao hàm của luật
pháp tới mọi quan hệ xã hội khác nhau, và sự
tách biệt của luật pháp khỏi đạo đức, tín
ngưỡng và chính trị22. Một điểm đáng chú ý
khác, Bộ luật Dân sự Pháp là kết quả của
nhưng sự thỏa hiệp: thỏa hiệp về mặt tư tưởng
giữa chủ nghĩa cá nhân của thế kỷ XVIII với
nền đạo đức Cơ đốc giáo, thỏa hiệp về mặt
chính trị giữa các nguyên tắc hình thành nhờ
cuộc Cách mạng và những di sản của chế độ
cũ, thỏa hiệp về mặt kỹ thuật pháp lý giữa áp
dụng các quy tắc từ tập quán truyền thống và
các quy tắc của Luật La Mã23.
Theo quan niệm truyền thống của Pháp,
một bộ luật cùng lúc phải thỏa mãn hai đặc
tính là khái quát và thực tế; cùng với đó, phải
tránh được hai nhược điểm là quá chung
chung và ngụy biện. Một bộ luật phải đưa ra
những quy tắc có tính khái quát phù hợp để
có thể điều chỉnh mọi quan hệ trong xã hội
và không được đặt ra những quy tắc cho
những trường hợp cụ thể hay cá biệt, bởi lẽ
nhà làm luật không thể dự đoán trước mọi
quan hệ xã hội có thể phát sinh24. Vì vậy, một
trong những đặc trưng quan trọng và cũng
được nhiều quốc gia khác học hỏi, đó là việc
Bộ luật Dân sự Pháp thiết lập nên những quy
tắc mang đủ tính khái quát để thẩm phán dựa
trên phương thức diễn dịch có thể tìm thấy
những giải pháp cho các quan hệ khác nhau.
Về phương diện hình thức, trước tiên,
Bộ luật Dân sự Pháp sử dụng hệ thống ngôn
ngữ rõ ràng, khúc chiết và dễ hiểu, với mục
đích rằng ngay cả những người có dân trí ở
mức trung bình cũng có thể nắm được các
quy định của pháp luật, nhưng vẫn giữ được
sự tinh tế trong ngôn từ25. Bên cạnh một số
ít điều khoản được quy định trong Thiên Mở
đầu (Titre préliminaire), hơn 2300 điều
khoản tiếp theo được chia vào ba phần
chính, được gọi là các quyển: (1) Quyển đầu
tiên đề cập đến vấn đề cá nhân, bao gồm các
vấn đề về cá nhân và gia đình; (2) Quyển thứ
hai đề cập đến vấn đề tài sản và quyền tài
sản; (3) Quyển thứ ba giải quyết các vấn đề
về thủ đắc tài sản26. Cho đến ngày nay, các
quy định trong Bộ luật này đã được sửa đổi,
bổ sung khá nhiều; trong đó, về cấu trúc,
Nghị viện Pháp đã bổ sung thêm hai quyển
mới: Quyển thứ tư giải quyết các vấn đề liên
quan đến các biện pháp bảo đảm, và Quyển
thứ năm chứa đựng những quy định áp dụng
đối với Đảo Mayotte thuộc lãnh thổ Pháp.
Sau hơn 200 năm tồn tại, dù đã trải qua
nhiều lần sửa đổi và nhận không ít phê bình
từ những học giả về vai trò và vị trí của nó
trong bối cảnh thay đổi nhanh chóng của xã
hội, Bộ luật Dân sự Pháp vẫn được xem như
20 René David and John E. C. Brierley (n 10) p.54-55.
21 J.G. Sauveplane, Codified and Judge Made Law, The Role of Courts and Legislators in Civil and Common
Law Systems (North- Holland 1982).
22 Jean Louis Bergel (n 5).
23 Jean Louis Bergel (n 5).
57Số 7(407) - T4/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
nền tảng và là nguyên mẫu pháp điển hóa
của truyền thống Dân luật trên khắp thế giới
ngày nay.
Sau khi Bộ luật Dân sự ra đời, nước
Pháp tiếp tục cho ra đời những bộ luật, đạo
luật khác ví dụ như Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 1806, Bộ luật Thương mại năm 1807,
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1808 và Bộ luật
Hình sự năm 1810. Một điểm đáng chú ý là
quan niệm về sự phân biệt giữa luật dân sự
và luật thương mại ngay từ thế kỷ XIX. Mặc
dù có thể xếp luật thương mại vào ngành luật
tư, và chịu sự điều chỉnh của các quan hệ tư
được quy định trong Bộ luật Dân sự, nhưng
trên thực tế, Bộ luật Thương mại không có
những quy định liên quan đến các quan hệ
tư khái quát, mà chỉ tập trung vào các vấn đề
đặc trưng của luật thương mại, hay các vấn
đề liên quan đến thương nhân và các hành vi
pháp lý của họ.
2.3. Pháp điển hóa luật tư ở Đức
Nếu như Pháp là quốc gia tiến hành quá
trình pháp điển hóa khá sớm, vào khoảng
đầu thế kỷ XIX, thì ở Đức, công việc này chỉ
được bắt đầu vào khoảng cuối thế kỷ này.
Một trong những nguyên nhân chính của sự
chậm trễ kể trên nằm ở vấn đề tổ chức quyền
lực nhà nước của quốc gia Tây Âu này. Cho
đến tận năm 1871, Đức mới trở thành một
quốc gia hoàn toàn thống nhất, còn trước đó,
nước Đức dù có hoàng đế nhưng vẫn là một
quốc gia bao gồm hàng trăm vương quốc
lãnh địa độc lập khác nhau, và thậm chí đôi
khi còn gây chiến với nhau27. Điều này khiến
nước Đức khó có thể có cho mình một hệ
thống pháp luật thống nhất. Tuy vậy, bởi yếu
tố tâm lý và hệ tư tưởng rằng Đức là quốc
gia kế thừa của đế chế La Mã, luật La Mã
nhận được sự chấp nhận rộng rãi trên toàn
lãnh thổ của đất nước này, được nghiên cứu,
giảng dạy và được coi là nguồn luật bổ sung
khi các tập quán không đưa ra được giải
pháp28.
Cũng như ở Pháp, những viên gạch đầu
tiên đặt nền móng cho hệ thống pháp luật
thành văn và quá trình pháp điển hóa mạnh
mẽ ở Đức sau này đã khởi nguồn từ trong
suốt hai thế kỷ, từ thế kỷ XVI đến thế kỷ
XVIII. Trong khoảng thời gian này, các luật
gia La Mã ở Đức tiến hành phát triển những
tổng hợp về luật La Mã hiện đại bằng việc
dung hòa nó với luật tự nhiên và luật của lý
trí. Trường phái và đặc trưng về mặt triết lý
của phong trào này nhằm mục đích phù hợp
hóa luật La Mã với xã hội Đức bằng những
sự phát triển có tính khoa học và trật tự của
những ý niệm29. Trường phái khoa học pháp
lý mang đậm chất Đức này được gọi là
trường phái Hiện đại, hay Pandectists.
Những luật gia theo trường phái này nghiên
cứu mọi nguồn gốc lịch sử hình thanh nên
luật La Mã, nhìn nhận pháp luật như một hệ
thống đóng gồm các ý niệm, nguyên tắc và
thiết chế của luật La Mã, đặt pháp luật ngoài
mọi quan niệm về đạo đức, tôn giáo, và tiếp
cận bằng một phương pháp khoa học và cách
tiếp cận logic để tìm kiếm giải pháp cho các
vấn đề pháp lý30.
Ra đời vào cuối thế kỷ XIX, Bộ luật Dân
sự Đức được đánh giá là hiện đại và vượt trội
hơn nhiều so với Bộ luật Dân sự Pháp,
nhưng điều này không phải do sự chênh lệch
về trình độ của những người soạn thảo mà
chỉ đơn giản rằng bộ luật ở Đức ra đời sau
đến gần 100 năm31. Mục đích chính của các
nhà làm luật khi soạn thảo Bộ luật này đó là
sự rõ ràng và ổn định của pháp luật, cùng với
nỗ lực hài hòa các quy tắc pháp lý ở khắp các
vùng miền trên toàn lãnh thổ32. Cũng như Bộ
luật Dân sự Pháp, giá trị về mặt chính trị của
Bộ Dân luật Đức là sự phản ánh một cách
24 René David and John E. C. Brierley (n 10) p.96-97.
25 Peter de Cruz (n 12) p.63.
26 Michael Bogdan (n 18) p.133.
27 Michael Bogdan (n 18) p.145.
28 Michael Bogdan (n 18) p.147.
29 Peter de Cruz (n 12) p.81.
30 Peter de Cruz (n 12) p.81.
31 Michael Bogdan (n 18) p.147.
32 Peter de Cruz (n 12) p.86.
Số 7(407) - T4/202058 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
hoàn hảo của nó về những quan niệm về tự
do của thời đại này: chủ nghĩa tự do, bảo vệ
quyền sở hữu tư nhân, tự do ý chí và tự do
giao kết hợp đồng33. Bộ luật này trao cho các
bên sự tự do rộng rãi trong quá trình giao kết
các quan hệ tư cũng như trong địa hạt về tài
sản, thể hiện quan niệm về sự bình đẳng của
tự do dành cho mọi cá nhân, qua đó đảm bảo
cho sự vận hành ổn định của công lý xã hội34.
Về phương diện cấu trúc, Bộ luật Dân
sự Đức cũng được đánh giá là có cấu trúc
khoa học, khi đặt riêng Quyển đầu tiên chứa
đựng những quy định chung của hệ thống
luật tư, đúng như những kết quả nghiên cứu
về pháp luật La Mã của Đức được giảng dạy
ở trường đại học35. Các quy định riêng còn
lại được xếp vào bốn quyển, bao quát các
vấn đề về trái quyền, quyền đối với tài sản,
hôn nhân gia đình và thừa kế. Tuy nhiên,
trong khi Bộ luật Napoléon là công trình của
những nhà hoạt động thực tiễn đầy kinh
nghiệm, Bộ luật Dân sự Đức chịu ảnh hưởng
của trường phái Hiện đại và lối tư duy truyền
thống của người Đức và được xem như
không dành cho đại chúng, mà là sản phẩm
của những trí tuệ bác học dành cho những
luật gia và những người hành nghề luật.36 Vì
vậy, các thuật ngữ trong bộ luật này thường
rất chặt chẽ và hoàn toàn thống nhất, nhưng
mang tính trừu tượng cao. Hơn nữa, những
câu văn mặc dù có tính chính xác nhưng
thường dài, phức tạp, viết theo lối văn phong
học thuật dễ gây khó hiểu cho những người
không có chuyên môn trong khoa học pháp
lý37. Một ví dụ điển hình là bộ luật này liên
tục sử dụng viện dẫn chéo trong văn bản,
một công việc giúp cho nó trở nên rõ ràng
hơn, khiến cho người đọc không có nền tảng
về luật cảm thấy khó khăn trong việc cố
gắng hiểu nội dung khái quát của nó38.
Bộ luật Dân sự, tương tự như tại Pháp,
không phải là sản phẩm pháp điển hóa đáng
chú ý duy nhất ở Đức. Bên cạnh bộ luật này,
Nghị viện Đức cũng đã cho ra đời những đạo
luật có nhiều ảnh hưởng trong lĩnh vực luật
tư như Bộ luật Thương mại, Bộ luật Tố tụng
dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng
hình sự. Đức cũng lựa chọn việc pháp điển
hóa riêng biệt các vấn đề chung của luật tư
và các vấn đề mang tính chuyên ngành và cụ
thể của luật thương mại, nhằm đáp ứng nhu
cầu được đối xử một cách đặc thù của lĩnh
vực này. Một điểm đáng chú ý trong hoạt
động pháp điển hóa ở Đức, đó là việc quốc
gia này cũng tiến hành pháp điển hóa trong
lĩnh vực luật công, một lĩnh vực vốn được
xem là khó khăn để ban hành một đạo luật
chung bởi sự đa dạng mà vẫn đòi hỏi sự điều
chỉnh chi tiết của nó, bao gồm Bộ luật Hành
chính và Bộ luật Tố tụng hành chính39.
3. Pháp điển hóa trong hệ thống Thông
luật (Common Law)
3.1. Đặc điểm chung của pháp điển
hóa ở các nước theo hệ thống Thông luật
Như đã nhắc đến trong phần trước, pháp
điển hóa thường được giới thiệu như một
trong những sản phẩm quan trọng và phổ
biến nhất của truyền thống pháp luật Dân
luật, trong khi đó án lệ luôn được coi là đặc
trưng riêng biệt của thuyền thống Thông
luật. Quan niệm này dẫn đến những hiểu
nhầm phổ biến khi nghiên cứu và giảng dạy
về hai hệ thống pháp luật chính trên thế giới
này, khi cho rằng án lệ không được sử dụng
33 Jacky Hummel, ‘La Codification En Allemagne (XIXe - XXe Siècles): Une Cristallisation Du Droit
National Entre Romanité et Germanité’ (2007) 85 Revue historique de droit français et étranger p.105.
34 Peter de Cruz (n 12) p.86.
35 Michel Fromont, Các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới, Nxb. Tư Pháp 2006, tr. 56.
36 Michael Bogdan (n 18) 146, 147; Peter de Cruz (n 12) p.86.
37 Michel Fromont (n 35) p.57.
38 Michael Bogdan (n 18) p.148.
39 Michael Bogdan (n 18) p.146.
40 Eva Steiner, ‘Codification in England: The Need to Move from an Ideological to a Functional Approach -
A Bridge Too Far?’ (2004) 25 Statute Law Review p.209, p.215.
41 Eva Steiner (n 40) p.215.
42 Eva Steiner (n 40) p.215.
59Số 7(407) - T4/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
ở các nước theo truyền thống Dân luật, cũng
như ở các nước theo hệ thốngThông luật, đặc
biệt là ở Anh, không tồn tại luật thành văn.
Ngược lại, đã tồn tại một lịch sử pháp điển
hóa ở Anh, bắt nguồn từ dự án pháp điển hóa
các luật lệ dưới thời James I của Sir Francis
Bacon vào năm 161440. Vào cuối thế kỷ
XVIII, Jeremy Bentham, một trong những
luật gia người Anh, trong các tác phẩm của
mình, đã đề cao pháp điển hóa như một
phương tiện thống nhất pháp luật. Nhiều luật
gia Anh nổi tiếng khác, như J. Austin, F. W.
Maitland, H. Maine, S. Amos và Mackenzie
Chalmers, cũng là những người ủng hộ
mạnh mẽ cho pháp điển hóa41. Đặc biệt, vào
thế kỷ XIX, những luật sư lỗi lạc người Anh
đương thời đã soạn cho Ấn Độ, lúc này là
thuộc địa của Anh, một tập hợp các bộ luật,
với tên tên gọi Indian Codes, bao gồm các
lĩnh vực hợp đồng, hình sự, ủy thác (trust),
sở hữu, bằng chứng và các chủ đề khác
nhằm quản lý hiệu quả hơn thông qua con
đường tư pháp42. Đây được xem là công
trình pháp điển hóa thành công nhất của Anh
ở thế kỷ XIX43. Sang thế kỷ XX, ở Anh, việc
soạn thảo và ban hành các đạo luật trở nên
phổ biến, nhưng mỗi đạo luật chỉ có phạm
vi điều chỉnh hạn chế hơn nên không được
soạn thành các bộ, như Đạo luật Mua bán
hàng hóa 1893 (Sale of Goods Act) hay Đạo
luật về Trẻ em 1989 (Children Act),44. Ở
Hoa Kỳ, bộ luật đầu tiên được pháp điển hóa
cũng đã xuất hiện từ thế kỷ XIX với công lao
của David Dudley Field45.
Như vậy, không thể nói rằng pháp điển
hóa không hề được coi trọng ở các quốc gia
theo hệ thống Thông luật mà trái lại, còn có
một lịch sử phát triển từ lâu đời. Tuy nhiên,
pháp điển hóa ở các nước theo hệ thống
Thông luật có những đặc điểm khác biệt so
với pháp điển hóa ở truyền thống Dân luật.
Đặc điểm đầu tiên của pháp điển hóa ở
các nước thuộc hệ thống Thông luật là kỹ
thuật pháp điển hóa hình thức (formal
codification). Khác với pháp điển hóa nội
dung, kỹ thuật pháp điển hóa hình thức
không nhằm xây dựng một tập hợp các quy
tắc có tính liên kết và hệ thống, mà đơn
thuần là sự tập hợp các quy tắc riêng lẻ mà
không có sự thay đổi gì về nội dung46. Mục
đích của kỹ thuật pháp điển hóa này là đảm
bảo sự hài hòa giữa các quy định của pháp
luật, đồng thời giúp tập trung các điều luật,
tạo điều kiện cho sự tìm kiếm dễ dàng các
giải pháp pháp lý. Chính vì vậy, các đạo luật
thông thường không được trình bày dưới
dạng các nguyên tắc chung, mà ngược lại
chứa đựng những quy tắc riêng nhằm điều
chỉnh một số tình huống đặc biệt một cách
khá chi tiết47.
Khi nhận định vị trí và đặc điểm của luật
thành văn trong hệ thống pháp luật Thông
luật, không thể bỏ qua yếu tố lịch sử rằng sự
phát triển của Nghị viện là nhằm cân bằng
quyền lực với Nhà vua. Về phần mình, nhà
vua và các bộ phận thuộc Tòa án Hoàng gia
giữ một thái độ căm ghét và đôi khi thù địch
đối với quyền lực đang ngày càng lên cao
của Nghị viện. Một trong những biểu hiện
của sự chống đối này là việc các thẩm phán
cố tình né tránh hiệu lực của các đạo luật
bằng cách diễn giải luật cứng nhắc trên câu
chữ, và hoàn toàn không quan tâm đến lịch
sử lập pháp hay quá trình soạn thảo, điều mà
các thẩm phán trong truyền thống Dân luật
thường làm48. Trước tình trạng này, các nhà
lập pháp đã chuyển từ những nguyên tắc khái
quát chung sang soạn thảo những quy định
chi tiết nhằm buộc thẩm phán phải áp dụng
luật của mình. Họ cố gắng giải thích ý định
của mình một cách rõ ràng và chi tiết nhất có
thể, và đưa vào các trường hợp cụ thể mà luật
43 Gunther A. Weiss, ‘The Enchantment of Codification in the Common-Law World’ (2000) 25 Yale Journal
of International Law 484.
44 Eva Steiner (n 40) 215, 216.
45 Eva Steiner (n 40) 218.
46 Jean Louis Bergel (n 5).
47 HoàngThị Kim Quế (n 15) 389.
48 Joseph Dainow, ‘The Civil Law and the Common Law: Some Points of Comparison’ (1966) 15 The
American Journal of Comparative Law 419, 425.
Số 7(407) - T4/202060 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
bắt buộc phải áp dụng. Họ hạn chế khái quát
thành những nguyên tắc chung bởi thẩm
phán có thể dễ dàng cho rằng chúng quá mơ
hồ để họ nắm được ý nghĩa của điều luật49.
Mặc dù một trong những người ủng hộ mạnh
mẽ việc sử dụng luật thành văn là luật gia
người Anh Jeremy Bentham, các thẩm phán
và luật sư ở Anh giữ thái độ khá bảo thủ đối
với vai trò của luật thành văn. Đối với hệ
thống pháp luật này, sự thống nhất của pháp
luật hoàn toàn có thể đạt được thông qua hoạt
động xét xử của tòa án.
Tuy nhiên, ý tưởng của Bentham lại
được đón nhận rộng rãi ở Hoa Kỳ50. Từ thế
kỷ XIX, dưới sự ảnh hưởng của Dudley
Field, người ủng hộ mạnh mẽ ý tưởng của
Bentham về pháp điển hóa, nhiều bang bắt
đầu ban hành các bộ luật. Tuy nhiên, những
bộ luật này không giống với những bộ luật
được ban hành ở châu Âu. Chúng được coi
như kết quả của công việc thuần “tổng hợp”
thành văn bản những quy tắc rút ra từ án lệ
và được giải thích dựa trên cơ sở án lệ.
Chúng không cố gắng bao trùm tất cả những
quan hệ pháp luật liên quan đến một lĩnh vực
và điều chỉnh mọi khả năng xảy ra của các
vấn đề pháp lý liên quan đến các quan hệ
pháp luật đó, ngoài ra bất cứ khiếm khuyết
nào đều có thể được giải quyết bằng án lệ.
Do đó, mặc dù pháp điển hóa mạnh mẽ hơn
so với Anh, hệ thống pháp luật Hoa Kỳ vẫn
được xem là một hệ thống pháp luật dựa trên
án lệ51. Dù vậy, trong các bộ luật Hoa Kỳ, ví
dụ như Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa
Kỳ (U.C.C), vẫn có thể chứa đựng những
điều luật mang nguyên tắc chung tương tự
như các điều luật trong các Bộ luật lớn của
các nước châu Âu lục địa.
Khác biệt về nội dung dẫn đến khác biệt
về hình thức. Một điểm khác biệt nền tảng
giữa các bộ luật tổng hợp Hoa Kỳ và các bộ
luật ở châu Âu lục địa được thể hiện bởi cấu
trúc trình bày. Phần lớn các bộ luật Hoa Kỳ
sắp xếp các vấn đề theo mục và theo thứ tự
alphabet, thay vì một cấu trúc chặt chẽ như
ở các bộ luật châu Âu, ví dụ như “quản trị
nhà nước”, “chiến tranh và quốc phòng”,
“ngân hàng và tài chính”, “mua bán và
thương mại”,52. Ngoài ra, chỉ có các bộ
luật chịu ảnh hưởng của truyền thống pháp
luật La Mã-Đức hay phong cách lập pháp
Châu Âu, như Bộ luật Dân sự và Tố tụng
dân sự Lousiana hay Bộ luật Thương mại
Thống nhất Hoa Kỳ, mới được trình bày
theo một cấu trúc có trình tự53. Mục đích của
điều này, theo các luật gia Hoa Kỳ, là để
khiến cho các văn bản luật dễ tiếp cận và dễ
cập nhật hơn54.
3.2. Pháp điển hóa luật tư ở các quốc
gia theo hệ thống Thông luật
Một đặc điểm của hệ thống pháp luật
Common Law bắt nguồn từ tính cách của
các luật gia Anh, đó là không chấp nhận sự
phân biệt giữa luật công (jus publicum) và
luật tư (jus privatum) như cách phân chia
của các luật gia châu Âu lục địa55. Sự ác cảm
với cách phân chia này, một mặt, có liên
quan tới các cuộc đấu tranh về quyền lực
chính trị vào thế kỷ XVII, khi việc phân chia
này được xem là ý muốn của những người
bảo hoàng áp đặt chế độ quân chủ trên pháp
luật. Bởi vậy, học thuyết phân quyền không
được áp dụng ở Anh. Trong suốt nhiều thế
kỷ trong lịch sử, nhiều cơ quan nhà nước
cùng thực hiện cả ba quyền lực lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Không hề có một sự
ranh giới rõ ràng về mặt chức năng giữa tòa
án, Hội đồng cơ mật Hoàng gia và Nghị
viện, mặc dù ba cơ quan này tách biệt nhau.
Nghị viện hoạt động như một tòa án công lý,
và tòa án hầu như là những nhà làm luật chủ
yếu. Ngay cả ngày nay, Thượng viện vẫn là
cơ quan tài phán tối cao ở Anh56.
49 Joseph Dainow (n 48) 426.
50 J.G. Sauveplane (n 21) 12.
51 J.G. Sauveplane (n 21) 12.
52 Jean Louis Bergel (n 5) 1902.
53 Jean Louis Bergel (n 5) 1092.
54 Jean Louis Bergel (n 5) 1093.
55 Michael Bogdan (n 18) 83.
56 Wencelas J. Wagner, ‘Codification of Law in Europe and the Codification Movement in the Middle of the
Nineteenth Century in the United States’ [1953] Articles by Maurer Faculty: Indiana University 339.
61Số 7(407) - T4/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
Mặt khác, các luật gia Anh từ chối cách
phân chia này, là do đã quen thuộc với cách
phân chia truyền thống các loại trát khác
nhau, mỗi loại trát đại diện cho một quan hệ
pháp luật khác nhau57. Mặc dù trát đã bị xóa
bỏ, cách phân chia truyền thống này vẫn tiếp
tục ảnh hưởng đến các quan niệm của các luật
gia Anh về pháp luật, và sau này là cả hệ
thống Thông luật mà hiện nay vẫn còn thể
hiện rõ. Theo cách phân chia này, hệ thống
pháp luật được tách thành rất nhiều các nhánh
nhỏ, như quan hệ hợp đồng, quan hệ giao phó
tài sản, quan hệ tặng cho, (trong khi đó, đối
với truyền thống Dân luật, các quan hệ này
đều được coi là quan hệ hợp đồng).
Vì tính chất này, khó có thể tìm được
một khái niệm về luật tư trong khoa học
pháp lý thuộc truyền thống Thông luật, cũng
như không thể tìm được một bộ luật chung
nền tảng cho lĩnh vực luật tư ở các nước theo
truyền thống này. Nhưng điều đó không có
nghĩa rằng ở các nước này không tồn tại các
quan hệ pháp luật mang tính chất dân sự,
ngược lại, chúng được điều chỉnh bởi các
nhánh pháp luật nhỏ như luật hợp đồng, luật
trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng, luật
ủy thác, luật đại diện, luật tài sản, luật gia
đình, Cũng không thể cho rằng không có
pháp điển hóa luật tư, bởi thay vì một bộ luật
dân sự chung như các nước châu Âu lục địa,
các quan hệ pháp luật dân sự ở các nước theo
hệ thống Thông luật được điều chỉnh bởi các
đạo luật riêng tương ứng với từng nhánh luật
riêng biệt. Tuy nhiên, vì luật thành văn, theo
quan điểm của các quốc gia này như đã nêu
ở phần trước, không được xây dựng với
tham vọng bao quát toàn bộ lĩnh vực pháp
luật, nên chỉ một số quan hệ pháp luật quan
trọng và chứa nhiều nội dung cần điều chỉnh,
mới pháp điển hóa thành các đạo luật. Ở
Anh, có thể kể đến Đạo luật Mua bán hàng
hóa (Sale of Good Act 1893, đã bị thay thế
bởi Sale of Good Act 1979), Đạo luật về Tài
sản (Law of Property Act 1925), Đạo luật về
Cho thuê tài sản (Rent Act 1977), Đạo luật
về Thủ tục và tài sản hôn nhân (Matrimonial
Proceedings and Property Act 1970), Ở
Hoa Kỳ, ngoài các đạo luật ban hành riêng
bởi các bang, không thể không nhắc đến Bộ
luật Thương mại Thống nhất (Uniform
Commerical Code).
3.3. Đạo luật Mua bán hàng hóa (Sale
of Good Act 1893, đã được thay thế bởi Sale
of Good Act 1979)
Đạo luật về Mua bán hàng hóa năm
1893 là một đạo luật được bàn hành bởi
Quốc hội Vương quốc Anh và Ireland nhằm
điều chỉnh các hợp đồng mà trong đó hàng
hóa được bán và mua. Mục đích của đạo luật
này là xác định các quyền và nghĩa vụ của
các bên (mà không được xác định rõ ràng
trong thỏa thuận), trong khi đặc biệt không
ảnh hưởng đến hiệu lực điều chỉnh của các
nguyên tắc hợp đồng thông thường có liên
quan. Đạo luật này hiện nay đã bị bãi bỏ và
thay thế tại Anh, nhưng vẫn còn hiệu lực tại
Cộng hòa Ireland58.
Đạo luật Mua bán hàng hóa 1893 được
coi là ví dụ điển hình của pháp điển hóa kiểu
Anh; nó dựa trên các nguyên tắc pháp lý phổ
biến do thẩm phán thiết lập và được chuyển
đổi thành một hình thức thành văn dễ tiếp
cận hơn. Cấu trúc của Đạo luật này bao gồm
6 phần: Sự hình thành hợp đồng (Phần I),
Hiệu lực của hợp đồng (Phần II), Thực hiện
hợp đồng (Phần III), Quyền của người bán
chưa được thanh toán đối với hàng hóa
(Phần IV), Hành vi vi phạm hợp đồng (Phần
V), và Cac quy định bổ sung (Phần VI). Đạo
luật này đã được soạn thảo tốt đến mức, khi
nó được bãi bỏ và tái ban hành, Đạo luật
Mua bán hàng hóa 1979 kế nhiệm đã được
soạn thảo với cùng một cấu trúc, cách sử
dụng thuật ngữ và thậm chí là cách đánh số
giống như Đạo luật năm 189359.
Mặc dù Đạo luật ra đời không nhằm
mục đích xóa bỏ án lệ, nhưng sự toàn diện
57 Michael Bogdan (n 18) 83.
58 ‘Electronic Irish Statute Book’ (electronic Irish Statute Book) accessed 25
September 2018.
59 ‘Sale of Goods Act 1893’ (Wikipedia) accessed
25 September 2018.
Số 7(407) - T4/202062 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
của đạo luật này được xem là đã khiến các
thẩm phán tập trung vào ngôn ngữ và ý
nghĩa của nó để áp dụng khi xét xử thay vì
áp dụng các án lệ ra đời trước đạo luật này.
Đạo luật này được xem là một trong những
đạo luật đã có đóng góp đáng kể trong việc
tăng tính ổn định và logic của một lĩnh vực
pháp luật60.
3.4. Bộ luật Thương mại Thống nhất
(Uniform Commercial Code)
Tại Hoa Kỳ, từ những năm 40, trước
nhu cầu về một khung pháp luật ổn định và
có tính dự đoán trước cho các hoạt động
thương mại, ý tưởng về một bộ luật thương
mại thống nhất đã ra đời. Chịu trách nhiệm
soạn thảo Bộ luật Thương mại Thống nhất
(Uniform Commercial Code – U.C.C), thay
vì sử dụng từ ngữ một cách chi tiết và cụ thể
nhất có thể, Karl Llewellyn (1893-1962),
một người theo chủ nghĩa hiện thực pháp
luật (legal realism), nhận biết rõ sự hạn chế
của quan điểm lập pháp cứng nhắc kiểu Anh,
đã chủ trương đưa vào U.C.C những quy
định khái quát chung và dành phần việc còn
lại cho thẩm phán61.
U.C.C được thông qua năm 1951, và đã
trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung. Hiện nay,
U.C.C bao gồm 9 nội dung sau đây: mua bán
hàng hóa (Điều 2), cho thuê hàng hóa (Điều
2A), các công cụ chuyển nhượng (Điều 3),
tiền gửi và các khoản thu ngân hàng (Điều
4), chuyển tiền (Điều 4A), thư tín dụng
(Điều 5), mua bán hàng hóa số lượng lớn
(Điều 6), biên lai/vận đơn kho bãi và các
chứng từ khác (Điều 7), chứng khoán đầu tư
(Điều 8), và giao dịch/mua bán có bảo đảm
và giấy tờ cầm cố (Điều 9)62. Về hiệu lực, cả
50 bang của Hoa Kỳ đều đã thông qua
U.C.C, trong đó chỉ có bang Louisiana –
bang duy nhất của Hoa Kỳ theo dòng họ
pháp luật châu Âu lục địa không thông qua
toàn văn mà có bảo lưu một số điều khoản
liên quan đến hệ thống pháp luật của mình.
Mặc dù được đặt tên là một bộ luật, vẫn
còn nhiều tranh cãi giữa các học giả xung
quanh tính chất pháp điển hóa của nó. Nhiều
học giả không cho rằng U.C.C là một thành
quả pháp điển hóa hoàn chỉnh, bởi nó không
thể thay thế hoàn toàn cho những tập quán,
án lệ đã tồn tại trước khi bộ luật ra đời63. Một
số học giả khác cũng cho rằng U.C.C chỉ là
sự tổng hợp các giải pháp điều chỉnh đã có
mà không có ý định bao hàm và dự liệu cho
tương lai64. Về mặt cấu trúc, có ý kiến cho
rằng không thể tìm thấy trong U.C.C một kết
cấu có hệ thống, và mức độ khái quát hóa cao
như ở các bộ luật điển hình của hệ thống Dân
luật65. Tuy nhiên, đây là những đánh giá cực
đoan và quá đề cao các bộ luật ở châu Âu, bởi
bản thân các bộ luật này cũng không hề hoàn
chỉnh về nội dung, và cũng không thể bao
quát toàn bộ các vấn đề pháp lý mà không cần
đến sự bổ sung của tập quán và án lệ.
Nỗ lực của các nhà lập pháp và sự thành
công của U.C.C là không thể phủ nhận. Hiện
nay, U.C.C được biết đến như một bộ luật
thành công trong việc đáp ứng tính rõ ràng
và đồng thời duy trì tính linh hoạt của luật,
và dẫn đến thẩm phán có thể giải thích luật
dựa trên mục đích, ý nghĩa của bộ luật và dựa
trên những nguyên tắc nền tảng của nó, thay
vì giải thích luật đơn thuần dựa vào các án lệ
như trước đây66. Sự thành công này được cho
là bởi: sự toàn diện về nội dung của một bộ
luật, hướng dẫn tại Điều 1-103, theo đó bộ
luật phải được hiểu một cách thống nhất với
mục đích của nó, tuy nhiên không loại bỏ
việc duy trì áp dụng án lệ và các quy tắc công
bình không trái với các quy định của bộ
luật67, và số lượng lớn những bình luận và
60 Mary Keyes and Therese Wilson, Codifying Contract Law: International and Consumer Law Perspectives
(Ashgate 2014) 5.
61 Gunther A. Weiss (n 43) 520.
62 ‘Uniform Commercial Code’ (Legal Information Institute) accessed
25 September 2018.
63 Gunther A. Weiss (n 43) 518.
64 Gunther A. Weiss (n 43) 519.
65 Gunther A. Weiss (n 43) 521,522.
66 Mary Keyes and Therese Wilson (n 60) 6.
67 § 1-103. Xây dựng [Bộ luật thương mại thống nhất] nhằm thúc đẩy các mục đích và chính sách của nó:
63Số 7(407) - T4/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
hướng dẫn kèm theo các điều luật. U.C.C
được xem là một bộ luật “mẫu” đáng tham
khảo đối với mỗi nỗ lực pháp điển hóa nào
trong truyền thống Thông luật68.
4. Kết luận
Dựa trên những phân tích ở hai phần
trên, có thể thấy rằng quá trình pháp điển hóa
ở Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với
các quốc gia thuộc truyền thống châu Âu lục
địa, thứ nhất bởi sự ảnh hưởng của truyền
thống này tới nước ta qua quá trình thuộc địa
trước đây, và thứ hai là bởi sự gần gũi giữa
truyền thống Dân luật và truyền thống pháp
luật xã hội chủ nghĩa. Từ sau Đổi Mới, với
nhu cầu cấp thiết cần những đạo luật điều
chỉnh các quan hệ từ mới phát sinh, quá trình
pháp điển hóa phát triển mạnh mẽ ở Việt
Nam với hàng loạt các đạo luật lớn nhỏ,
trong đó đáng chú ý phải nhắc tới Bộ luật
Dân sự đầu tiên năm 1995. Sau hơn 20 năm,
sự ra đời của Bộ luật Dân sự hiện hành vào
năm 2015 đã phần nào khắc phục được thiếu
sót của những bộ luật trước nó. Nhưng điều
này không đồng nghĩa với việc bộ luật hiện
hành đã thực sự hoàn hảo. Từ những phân
tích ở trên, tác giả đưa ra hai điểm quan
trọng mà thiết nghĩ, chúng ta có thể cân nhắc
để có những thay đổi trong lần sửa đổi tiếp
theo của bộ luật này, cũng như trong quá
trình pháp điển hóa các đạo luật thuộc lĩnh
vực luật tư.
Thứ nhất, lựa chọn một mô hình pháp
điển hóa thống nhất. Bộ luật Dân sự Việt
Nam hiện nay là sự kết hợp giữa mô hình
Đức và mô hình Pháp, với cấu trúc bao gồm
phần chung chứa đựng các quy định mang
tính khái quát, nhưng các phần riêng lại có
nội dung khá tương tự với Bộ luật Dân sự
Pháp69. Việc sao chép một cách hoàn toàn
chưa bao giờ được xem là đúng đắn, đặc biệt
là trong quá trình pháp điển hóa, nhưng
những thay đổi và kết hợp cần phải đi cùng
với sự cân nhắc về tính hệ thống và sự phù
hợp của chúng. Kỹ thuật pháp điển hóa theo
trường phái Pandectists của người Đức tỏ rõ
sự vượt trội về tính khoa học và rõ ràng của
nó, nhưng lại đòi hỏi trình độ và kỹ thuật
pháp lý cao, điều mà Việt Nam chưa thể đáp
ứng trong một thời gian tương đối dài trong
tương lai. Do đó, lựa chọn mô hình của Pháp
như một hình mẫu để chúng ta có thể thiết
kế nên một bộ luật là phương án xứng đáng
được cân nhắc cẩn trọng.
Thứ hai, bên cạnh Bộ luật Dân sự, Quốc
hội Việt Nam đã ban hành đạo luật riêng biệt
về thương mại. Tuy nhiên, một mặt, đạo luật
này lại chưa bao quát hết được những vấn đề
về thương mại. Mặt khác, đạo luật này cũng
cho thấy sự tụt hậu của mình, thiếu các giải
pháp pháp lý thỏa đáng để đáp ứng được nhu
cầu phát triển kinh tế trong thời điểm hiện
tại cũng như trong tương lai. Do đó, trong
quá trình xem xét và xây dựng dự thảo Luật
Thương mại (mới), cần cân nhắc pháp điển
một bộ luật mang tính tổng quan, chứa đựng
các vấn đề chung và bao quát của các quan
hệ có tính chất thương mại, làm cơ sở vững
chắc cho việc xác định tư cách pháp lý, hoạt
động cũng như hình thức hoạt động của
thương nhân.
Những đề xuất sơ khởi trên cùng với
những phân tích, đánh giá về các hình mẫu
pháp điển hóa khác nhau trên thế giới mong
rằng sẽ là những ví dụ sinh động và thực
tiễn, góp phần hoàn thiện quá trình pháp điển
hóa của Việt Nam trong tương lai n
Khả năng áp dụng các nguyên tắc bổ sung của Luật.
(a) [Bộ luật thương mại thống nhất] phải được hiểu và áp dụng một cách tự do để thúc đẩy các mục đích và
chính sách cơ bản của nó, đó là: (1) đơn giản hóa, làm rõ và hiện đại hoá luật điều chỉnh các giao dịch
thương mại; (2) cho phép tiếp tục mở rộng các hoạt động thương mại thông qua thông lệ, tập quán và thỏa
thuận của các bên; và (3) để thống nhất luật giữa các thẩm quyền pháp lý khác nhau.
(b) Trừ khi bị thay thế bởi các quy định cụ thể của [Bộ luật thương mại thống nhất], các nguyên tắc của luật
và công bình, bao gồm luật buôn bán và luật liên quan đến năng lực hợp đồng, trụ sở và đại lý, không phủ
nhận (estoppel), gian lận, xuyên tạc, cưỡng ép, ép buộc, sai sót, phá sản, và các căn cứ công nhận hiệu lực
hoặc vô hiệu khác bổ sung cho các quy định của bộ luật.
68 Mary Keyes and Therese Wilson (n 60) 6.
69 Ngô Huy Cương, “Tổng luận về chế định tài sản trong Dự thảo sửa đổi Bộ luật dân sự năm 2005”, Chế
định tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng trong Dự thảoBộ luật Dân sự (sửa đổi) năm 2015.
Số 7(407) - T4/202064 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Hoàng Thị Kim Quế (ed), Giáo trình Lý luận Nhà Nước và Pháp luật, Nxb. Đại học Quốc
gia Hà Nội năm 2015.
2. Michael Bogdan, Luật so sánh (Lê Hồng Hạnh and Dương Thị Hiền trs, Swiss : KLuwer
Law and Taxation 2004).
3. Michel Fromont, Các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới, Nxb. Tư Pháp 2006.
4. Ngô Huy Cương, “Tổng luận về chế định tài sản trong Dự thảo sửa đổi Bộ luật Dân sự năm
2005”, Chế định tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng trong Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) năm 2015.
5. Nguyễn Minh Tuấn, “Bộ luật Urnammu - Nội dung và giá trị”, trên
truy cập
ngày 13/9/2018.
Tài liệu tiếng Anh
1. Bryan A. Gagner (ed), Black’s Law Dictionary (9th edn, West Publishing Co 2009).
2. Csaba Varga, Codification as a Socio-Historical Phenomenon (Second, Szent István Társulat
2011).
3. “Electronic Irish Statute Book” (electronic Irish Statute Book), www.irishstatutebook.ie,
accessed 25 September 2018.
4. Eva Steiner, ‘Codification in England: The Need to Move from an Ideological to a
Functional Approach - A Bridge Too Far?’ (2004) 25 Statute Law Review 209.
5. George Mousourakis, The Historical and Institutional Context of Roman Law (Routledge
2003).
6. Gunther A. Weiss, ‘The Enchantment of Codification in the Common-Law World’ (2000)
25 Yale Journal of International Law.
7. Jean Louis Bergel, ‘Principal Features and Methods of Codification’ (1988) 48 Louisiana
Law Review.
8. J.G. Sauveplane, Codified and Judge Made Law, The Role of Courts and Legislators in
Civil and Common Law Systems (North- Holland 1982).
9. Joseph Dainow, ‘The Civil Law and the Common Law: Some Points of Comparison’
(1966). 15 The American Journal of Comparative Law 419.
10. Mary Keyes and Therese Wilson, Codifying Contract Law: International and Consumer
Law Perspectives (Ashgate 2014).
11. Peter de Cruz, Comparative Law in a Changing World (Cavendish Publishing 1999).
12. René David and John E. C. Brierley, Major Legal Systems in the World Today: An
Introduction to the Comparative Study of Law (Third, Stevens & Sons 1985)
13. Sigmund Samuel, ‘The Codification of Law’ (1943) 5 The University of Toronto Law
Journal 148.
14. ‘Uniform Commercial Code’ (Legal Information Institute), https://www.law.cornell.edu/
ucc> accessed 25 September 2018.
15. Wencelas J. Wagner, ‘Codification of Law in Europe and the Codification Movement in
the Middle of the Nineteenth Century in the United States’ [1953] Articles by Maurer
Faculty: Indiana University.
Tài liệu tiếng Pháp
1. Jacky Hummel, ‘La Codification En Allemagne (XIXe - XXe Siècles) : Une Cristallisation
Du Droit National Entre Romanité et Germanité’ (2007) 85 Revue historique de droit
français et étranger 105.
2. Rémy Cabrillac, ‘Les Enjeux de La Codification En France’ (2005) 46 Les Cahiers de
droit 533.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phap_dien_hoa_luat_tu_mo_hinh_va_thuc_tien_quoc_te.pdf