Luật ĐƯQT 2016 của Việt Nam quy
định về việc phản đối bảo lưu cũng như các
thẩm quyền, trình tự thủ tục đưa ra phản đối
bảo lưu từ Điều 48 đến Điều 51. Tuy nhiên,
trên thực tế, khi đưa ra một tuyên bố phản đối
bảo lưu với một bảo lưu của quốc gia khác,
cần cân nhắc/lưu ý một số khía cạnh sau:
- Khía cạnh pháp lý: (1) sự phù hợp
với đối tượng và mục đích của điều ước; (2)
các trường hợp mà ĐƯQT cấm hoặc hạn
chế bảo lưu; (3) các quy định có liên quan
khác của điều ước về bảo lưu (quy trình, thủ
tục )
- Khía cạnh chính trị: (1) quan điểm
lập trường của các quốc gia thành viên (thể
hiện qua các tuyên bố bảo lưu, chấp thuận
hay phản đối bảo lưu đã được các quốc gia
đưa ra); (2) mức độ tác động của tuyên bố
bảo lưu trong mối quan hệ giữa Việt Nam và
các quốc gia thành viên
- Các khía cạnh khác: (1) tính hợp
hiến, hợp pháp với pháp luật Việt Nam; (2)
mức độ đảm bảo lợi ích của Việt Nam; (3)
tính khả thi trong thực tiễn thực hiện
Các phản đối bảo lưu (nếu có) của Việt
Nam cũng không nên ở mức độ quá gay gắt
(phản đối bảo lưu đồng thời phản đối quan
hệ điều ước với quốc gia đưa ra bảo lưu)
mà chỉ nên dừng ở mức không chấp nhận
điều khoản bảo lưu trong mối quan hệ giữa
hai bên, còn các điều khoản khác thì hai bên
thực hiện bình thường. Đây cũng là mức độ
phản đối mà đa số các quốc gia đưa ra trong
thực tiễn. Đồng thời, các cơ quan có chức
năng của Việt Nam cần theo dõi sát sao các
tuyên bố bảo lưu của các quốc gia thành
viên để có các chấp thuận hay phản đối bảo
lưu kịp thời và phù hợp, vì nếu sau 12 tháng
kể từ khi các quốc gia đó đưa ra bảo lưu mà
chúng ta không có ý kiến gì thì coi như là
chấp thuận tuyên bố bảo lưu đó
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 224 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Pháp luật và thực tiễn bảo lưu điều ước quốc tế của Liên Bang Nga và những nội dung Việt Nam có thể tham khảo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Bảo lưu điều ước quốc tế là một thực tiễn pháp lý được các nước,
trong đó có Liên bang Nga, sử dụng trong hoạt động phê chuẩn
điều ước quốc tế. Thông qua việc phân tích các quy định của pháp
luật Liên bang Nga và thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật
về bảo lưu điều ước quốc tế, Việt Nam có thể tham khảo một số nội
dung từ các quy định của pháp luật Liên bang Nga.
Trần Thị Thu Thủy*
* ThS. Khoa Pháp luật Quốc tế - Trường Đại học Luật Hà Nội
Abstract
Reservations of the international treaties are a legal practice
applied by several countries, including the Russian Federation,
in the ratification of the international treaties. By analyzing the
provisions of the law of the Russian Federation and the practical
implementation of the provisions of the law on the reservation
of the international treaties, Vietnam may refer to a number of
contents from the provisions of the legal regulations of the Russian
Federation.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: bảo lưu điều ước quốc tế,
Liên bang Nga, Việt Nam, Hiến pháp,
luật điều ước quốc tế
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 07/04/2018
Biên tập : 18/04/2018
Duyệt bài : 25/04/2018
Article Infomation:
Keywords: reservation of the
international treaties; Russian
Federation; Vietnam; Constitution;
international treaties
Article History:
Received : 07 Apr. 2018
Edited : 18 Apr. 2018
Approved : 25 Apr. 2018
PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN BẢO LƯU ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ CỦA LIÊN BANG NGA
VÀ NHỮNG NỘI DUNG VIỆT NAM CÓ THỂ THAM KHẢO
Bảo lưu là một chế định gắn liền với
luật điều ước quốc tế (ĐƯQT), theo đó, đây
là một tuyên bố đơn phương của một quốc
gia, bất kể cách viết hay tên gọi như thế nào,
đưa ra khi ký, phê chuẩn, chấp thuận, phê
duyệt hoặc gia nhập ĐƯQT, qua đó nhằm
loại trừ hoặc thay đổi hiệu lực của một hoặc
một số điều khoản của điều ước trong việc
1 Điều 2, khoản 1, mục a Công ước Viên 1969 về Luật Điều ước Quốc tế ký kết giữa các quốc gia
áp dụng đối với quốc gia đó1. Mục đích
chính của bảo lưu là “giải thoát” cho bên
ký kết khỏi những nghĩa vụ thực thi một
số điều khoản mà điều ước đặt ra, từ đó tạo
điều kiện tối đa để các quốc gia tham gia vào
các ĐƯQT. Các quốc gia thường có những
quy định khác nhau về bảo lưu ĐƯQT, tuy
nhiên, về cơ bản đều phù hợp với quy định
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
57Số 9(361) T5/2018
của pháp luật quốc tế về vấn đề này. Thực
tiễn thực hiện vấn đề này của các quốc gia
cũng rất đa dạng, phù hợp với mục đích của
từng quốc gia khi tham gia vào các ĐƯQT.
1. Pháp luật và thực tiễn bảo lưu điều ước
quốc tế của Liên bang Nga
a. Thẩm quyền ký kết ĐƯQT trong
pháp luật Liên bang Nga
Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993
(thay thế cho Hiến pháp Liên bang Xô viết
năm 1978) được thông qua bởi một cuộc
trưng cầu ý dân ngày 12/12/1993, có hiệu
lực ngày 25/12/1993. Hiến pháp năm 1993
thiết lập thể chế Tổng thống/Nghị viện với
quyền lực mạnh mẽ được trao cho Tổng
thống. Tổng thống là người đứng đầu Nhà
nước, do nhân dân trực tiếp bầu ra, nhiệm kỳ
bốn năm. Tổng thống bổ nhiệm hoặc cách
chức Thủ tướng Chính phủ (với sự đồng
ý của Viện Duma2). Theo đề nghị của Thủ
tướng, Tổng thống bổ nhiệm và miễn nhiệm
các Phó Thủ tướng và Bộ trưởng liên bang.
Nghị viện liên bang ở Nga bao gồm
hai viện là: Thượng viện gọi là Hội đồng liên
bang (the Soviet of the Federation), Hạ viện
gọi là Viện Duma (the State Duma). Cơ quan
hành pháp - Chính phủ Nga bao gồm Thủ
tướng, các Phó Thủ tướng và các Bộ trưởng
liên bang. Hệ thống tư pháp của Nga bao gồm
các tòa án: Tòa án Hiến pháp Liên bang Nga;
các tòa án thẩm quyền chung liên bang, đứng
đầu là Tòa án tối cao Liên bang Nga; các tòa
án thương mại liên bang, đứng đầu là Tòa án
thương mại tối cao Liên bang Nga.
Những vấn đề liên quan đến các thủ
tục ký kết, chấm dứt các ĐƯQT của Liên
bang Nga được điều chỉnh bởi Hiến pháp
năm 1993; Luật liên bang về ĐƯQT ngày
16/6/1995 (sau đây gọi là Luật năm 1995);
Công ước Viên 1969 về Luật ĐƯQT
2 Viện Duma là Hạ viện của Nga, bao gồm 450 đại biểu được bầu với thời hạn 5 năm trên cơ sở các đảng phái chính trị
và chỉ các đảng nào trong cuộc đua vào Viện Duma giành trên 7% số phiếu cử tri tham gia bỏ phiếu thì mới có đại diện
của đảng mình trong Viện Duma. Viện Duma có thẩm quyền: giám sát và quyết định các vấn đề của Chính phủ; đồng ý
hoặc không đồng ý cơ cấu tổ chức của Chính phủ; bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm Thống đốc ngân hàng Trung ương; công
bố Lệnh ân xá; Luận tội Tổng thống
3 Điều 3 Luật liên bang về ĐƯQT của Liên bang Nga năm 1995
4 Điều 7, Điều 17, Điều 18 Luật liên bang về ĐƯQT của Liên bang Nga năm 1995.
Việc ký kết các ĐƯQT ở Nga thuộc về
cơ quan hành pháp (Chính phủ), tuy nhiên
cơ quan lập pháp và cơ quan tư pháp được
Hiến pháp trao quyền tham gia vào một số
hoạt động liên quan đến ĐƯQT với những
điều kiện nhất định.
Luật năm 1995 đã thiết lập một hệ
thống cấp bậc các ĐƯQT do Liên bang Nga
ký kết. Các ĐƯQT với danh nghĩa liên bang
(interstate treaties), điều ước với danh nghĩa
chính phủ (intergovernmental treaties) và
điều ước với danh nghĩa cấp bộ liên ngành
(interdepartmental treaties). Dù có những
khác biệt, nhưng tất cả những văn kiện này
đều là các ĐƯQT và Liên bang Nga chịu
trách nhiệm về việc thực hiện nó3. Bất kể là
cấp nào đại diện cho quốc gia ký kết ĐƯQT
thì các ĐƯQT này đều bình đẳng và có hiệu
lực pháp luật.
Việc phân cấp ĐƯQT này có tầm quan
trọng pháp lý nhất định. Các ĐƯQT song
phương được ký kết ở mức cao nhất với Liên
bang Nga sẽ được ưu tiên hơn các ĐƯQT do
cùng một quốc gia ký với Liên bang Nga ở cấp
thấp hơn. Tuy nhiên, nguyên tắc phân cấp này
không mở rộng với các ĐƯQT đa phương.
Luật năm 1995 quy định rõ sự phân
cấp thẩm quyền giữa các cơ quan. Theo đó,
Bộ Ngoại giao có trách nhiệm thông báo
cho Nghị viện liên bang về việc tham gia
các ĐƯQT với danh nghĩa liên bang và danh
nghĩa chính phủ. Theo yêu cầu của Nghị
viện liên bang, Chính phủ sẽ đảm bảo việc
cung cấp thông tin về các ĐƯQT đang được
chuẩn bị ký kết. Thẩm quyền quyết định đàm
phán, ký ĐƯQT thuộc về Tổng thống hoặc
Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ trưởng liên
bang, tùy tầm quan trọng và danh nghĩa ký
ĐƯQT. Thẩm quyền quyết định phê chuẩn
ĐƯQT thuộc về Viện Duma và Tổng thống
Liên bang Nga4
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
58 Số 9(361) T5/2018
b. Những quy định về bảo lưu ĐƯQT
trong pháp luật Liên bang Nga
Điều 19 Công ước Viên 1969 về Luật
ĐƯQT và Điều 25 Luật năm 1995 quy định
về bảo lưu như sau:
1. Khi ký, phê chuẩn, phê duyệt,
thông qua hoặc gia nhập các ĐƯQT, Liên
bang Nga có thể đưa ra bảo lưu một số điều
khoản của ĐƯQT với điều kiện là tuân thủ
các điều kiện của ĐƯQT và các quy tắc có
liên quan của luật quốc tế;
2. Bảo lưu có thể bị thu hồi bất cứ lúc
nào (trừ trường hợp ĐƯQT của Liên bang
Nga có quy định khác) theo thủ tục tương tự
mà bảo lưu được đưa ra;
3. Việc các quốc gia khác chấp thuận
hoặc phản đối bảo lưu ĐƯQT của Liên bang
Nga phải được tiến hành phù hợp với các
điều kiện của ĐƯQT đó và các quy tắc của
luật quốc tế về chấp thuận hoặc phản đối bảo
lưu. Các đề xuất cho việc chấp thuận hoặc
phản đối bảo lưu sẽ được thực hiện dưới
hình thức luật liên bang, thủ tục tuân thủ
theo quy định tại Điều 16 của Luật liên bang
hiện hành, và trong các trường hợp khác thì
theo Điều 9 của Luật liên bang hiện hành.
Như vậy, theo quy định của pháp luật
Liên bang Nga, việc bảo lưu khi ký, phê
chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập ĐƯQT có
thể được thực hiện với hai điều kiện: tuân
thủ các quy định của ĐƯQT đó và tuân thủ
các quy định tương ứng của pháp luật quốc
tế. Việc tuân thủ các quy định của ĐƯQT
đó có nghĩa là không thể thực hiện việc bảo
lưu nếu ĐƯQT đó cấm bảo lưu hoặc hạn chế
bảo lưu với những vấn đề nhất định. Đối với
các quy định của pháp luật quốc tế, tối thiểu,
bảo lưu không được trái với các nguyên tắc,
mục đích của ĐƯQT hoặc với các nguyên
tắc cơ bản của luật quốc tế. Các văn bản điều
tra của Nga đã khuyến cáo rằng một bảo lưu
không thể được đưa ra bởi một cơ quan của
Nhà nước một cách độc lập mà không có sự
5 Ducan B.Hollis, Merritt R.Blakeslee, L.Benjamin Ederington, National treaty law and practice, Chapter fifteen:
“Russia”, W.E.Butler; Martinus Nijhoff Publishers, Leiden, Boston, 2005
6 https://treaties.un.org/Pages/ViewDetails.aspx?src=TREATY&mtdsg_no=III-3&chapter=3&clang=_en#EndDec truy
cập ngày 3/3/2018
phối hợp với các cơ quan khác5.
Dựa trên cách tiếp cận này, một ĐƯQT
cần phải phê chuẩn, thì một bảo lưu sẽ được
đưa ra theo quy định của Luật liên bang liên
quan đến việc phê chuẩn ĐƯQT đó, sau đó
phải được sự đồng ý của các cơ quan có
thẩm quyền khác của Nhà nước. Việc bảo
lưu theo nghĩa rộng đã được Liên bang Nga
xây dựng đối với các ĐƯQT song phương,
đặc biệt là trong quan hệ với Ukraine. Chính
sách bảo lưu của các quốc gia trong khối
Thịnh vượng chung các quốc gia độc lập
(the Commonwealth of Independent States -
CIS), bao gồm cả Nga, đã được Tòa kinh tế
của CIS xem xét một cách đặc biệt, và tuyên
bố rằng một số bảo lưu là bất hợp pháp. Luật
năm 1995, trên cơ sở tuân thủ theo Công ước
Viên 1969 về luật ĐƯQT, quy định những
bảo lưu đó có thể bị thu hồi bất cứ lúc nào
theo đúng thủ tục mà nó được đưa ra.
Cơ quan thay mặt cho Liên bang Nga
thông qua quyết định ràng buộc với ĐƯQT
có quyền chấp nhận hoặc phản đối một bảo
lưu của một quốc gia khác tham gia ký kết
ĐƯQT đó theo những điều kiện của ĐƯQT
hoặc các quy định của luật quốc tế. Các đề
xuất liên quan đến việc chấp thuận hay phản
đối bảo lưu được thực hiện theo quy định
của Điều 16 hoặc Điều 9 Luật năm 1995.
c. Thực tiễn bảo lưu ĐƯQT của Liên
bang Nga trong một số lĩnh vực
Khi tham gia Công ước Viên 1961 về
quan hệ ngoại giao, liên quan đến Khoản 1
Điều 11 của Công ước, Liên bang Nga (thời
điểm đó là Liên bang Xô viết) đã đưa ra bảo
lưu như sau: “Theo nguyên tắc bình đẳng
về chủ quyền giữa các quốc gia, Liên bang
Cộng hòa XHCN Xô viết cho rằng, bất kỳ
sự khác biệt nào về quan điểm quy mô của
sứ mệnh ngoại giao phải được giải quyết
trên cơ sở sự thỏa thuận giữa Nước cử và
Nước tiếp nhận”6. Khoản 1 Điều 11 Công
ước Viên 1961 đề cập đến việc, khi không
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
59Số 9(361) T5/2018
có sự thỏa thuận giữa Nước cử và nước tiếp
nhận về số lượng thành viên của cơ quan đại
diện ngoại giao thì Nước tiếp nhận có thể
căn cứ vào các yếu tố khác nhau để đưa ra
con số hợp lý. Tuy nhiên, Nga đã đưa ra yêu
cầu bảo lưu theo hướng sửa đổi điều khoản
này và cho rằng việc này phải theo sự thỏa
thuận của hai bên. Bảo lưu này của Nga là
hoàn toàn hợp pháp, vì Nga dựa trên cơ sở
các quy định của pháp luật quốc tế (nhất là
một trong các nguyên tắc cơ bản: nguyên tắc
bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia),
đồng thời bảo lưu này cũng không làm ảnh
hưởng đến mục đích, đối tượng của Công
ước Viên 1961. Bảo lưu này của Liên bang
Nga cũng không nhận phải bất kỳ sự phản
đối nào từ các quốc gia thành viên khác của
Công ước.
Giống với một số quốc gia khác, đối
với các ĐƯQT đưa ra thủ tục giải quyết tranh
chấp cụ thể, Liên bang Nga cũng thường đưa
ra bảo lưu đối với những điều khoản này để
bảo đảm tối đa lợi ích của mình khi tham gia
vào các vụ tranh chấp. Khi trở thành thành
viên của Công ước về quyền ưu đãi và miễn
trừ cho Liên hiệp quốc năm 1946, Liên bang
Nga (thời điểm đó là Liên bang Xô viết) đã
đưa ra tuyên bố bảo lưu như sau: “Liên bang
Xô viết không xem như mình bị ràng buộc
bởi Điều 30 của Công ước nhằm xem xét
thẩm quyền bắt buộc của Tòa án quốc tế, và
liên quan đến thẩm quyền của Tòa án quốc
tế trong những khác biệt phát sinh từ việc
giải thích, áp dụng Công ước; Liên bang Xô
viết sẽ tuân thủ lập trường rằng, đối với một
tranh chấp cụ thể để đưa ra giải quyết tại Tòa
án quốc tế, trong mỗi trường hợp cụ thể phải
có sự đồng ý của tất cả các bên trong tranh
chấp. Việc bảo lưu này cũng tương tự như
quy định trong phần liên quan đến ý kiến
tư vấn của Tòa án quốc tế”7. Liên bang Nga
cũng đưa ra bảo lưu tương tự như vậy khi
7 https://treaties.un.org/Pages/ViewDetails.aspx?src=TREATY&mtdsg_no=III-1&chapter=3&clang=_en#EndDec truy
cập ngày 3/3/2018
8 https://treaties.un.org/Pages/ViewDetails.aspx?src=TREATY&mtdsg_no=III-2&chapter=3&clang=_en#EndDec truy
cập ngày 3/3/2018
9 https://treaties.un.org/Pages/ViewDetails.aspx?src=TREATY&mtdsg_no=X-10&chapter=10&clang=_en truy cập
ngày 3/3/2018
tham gia vào Công ước về các quyền ưu đãi
và miễn trừ của các cơ quan chuyên môn
năm 1947, Liên bang Nga sẽ không chấp
nhận thẩm quyền đương nhiên của Tòa án
công lý quốc tế với những tranh chấp phát
sinh giữa Nga với các quốc gia thành viên
của Công ước, mà chỉ chấp nhận đệ trình vụ
việc này ra Tòa khi tất cả các bên chấp nhận
đưa vụ việc ra Tòa8. Thông thường các bảo
lưu về thủ tục giải quyết tranh chấp hiếm khi
gặp phải sự phản đối từ các quốc gia thành
viên khác của Công ước.
Khi tham gia Công ước Viên năm
1980 về mua bán hàng hoá quốc tế, dựa trên
quy định của Điều 12 và Điều 96 Công ước,
Liên bang Nga đưa ra tuyên bố bảo lưu đối
với Điều 11, Điều 29 và Phần II Công ước.
Công ước Viên năm 1980 cho phép các quốc
gia thực hiện một số bảo lưu và tuyên bố
bảo lưu của Nga trong phạm vi được Công
ước cho phép. Nội dung tuyên bố bảo lưu
của Nga như sau: “Bất kỳ quy định nào của
Điều 11, Điều 29, hoặc Phần II của Công
ước cho phép một hợp đồng mua bán hoặc
sự sửa đổi hoặc huỷ bỏ trên cơ sở thoả thuận
hoặc bất kỳ một sự chào hàng, chấp nhận
chào hàng, hoặc ý định khác được thực hiện
dưới bất kỳ hình thức nào khác ngoài bằng
văn bản, không được áp dụng nếu một bên
có địa điểm kinh doanh tại Liên bang Nga”9.
Bảo lưu của Nga liên quan đến hình thức
của hợp đồng. Theo đó, hợp đồng cũng như
những vấn đề liên quan đến hợp đồng (sửa
đổi, chấm dứt hợp đồng, chào hàng, chấp
nhận chào hàng) phải được lập thành văn
bản nếu như bất kỳ bên nào trong hợp đồng
có địa điểm kinh doanh tại Liên bang Nga.
d. Phản ứng của Liên bang Nga với
bảo lưu ĐƯQT của các quốc gia khác
Là một thành viên của Công ước Viên
1961 về quan hệ lãnh sự, Liên bang Nga
(thời điểm đó là Liên bang Xô viết) đã đưa
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
60 Số 9(361) T5/2018
ra hàng loạt các tuyên bố phản đối với các
tuyên bố bảo lưu của các quốc gia khác,
trong đó lý do Liên bang Xô viết phản đối
là do việc bảo lưu của các quốc gia đó trái
với các quy định của Công ước, hoặc bảo
lưu không phù hợp với đối tượng, mục đích
của Công ước. Cụ thể, với tuyên bố bảo lưu
của Chính phủ các nước Bahrain, Chủ nghĩa
xã hội nhân dân Libyan Ả rập Jamahiriya,
Vương quốc Ả rập Xê-út về Điều 27 khoản
310, Liên bang Xô viết phản đối rằng “Việc
bảo lưu này là trái với nguyên tắc về khả
năng bất khả xâm phạm của túi ngoại giao
được ghi nhận trong thực tiễn quốc tế và do
đó không thể chấp thuận được”.
Ngoài ra, Chính phủ Liên bang Xô viết
cũng không thừa nhận bảo lưu của Chính
phủ Qatar đối với khoản 3 Điều 27 và khoản
2 Điều 37 của Công ước Viên 1961 về quan
hệ ngoại giao, Liên bang Xô viết cho rằng
bảo lưu này là bất hợp pháp vì nó mâu thuẫn
với mục đích của Công ước. Tương tự, Liên
bang Xô viết không thừa nhận tính hợp pháp
của tuyên bố bảo lưu của Chính phủ Yemen
với các Điều 27, 36, 37 của Công ước Viên
1961 vì những bảo lưu này mâu thuẫn với
mục đích của Công ước11.
Như vậy, có thể thấy rằng, khi đưa ra
tuyên bố phản đối bảo lưu, Liên bang Nga đã
chỉ ra rất rõ lý do vì sao phản đối, và thường
Liên bang Nga sẽ phản đối khi bảo lưu của
các quốc gia không phù hợp với mục đích,
đối tượng của ĐƯQT đó.
2. Một số nội dung Việt Nam có thể
tham khảo
a. Thẩm quyền bảo lưu ĐƯQT
Thẩm quyền bảo lưu ĐƯQT được quy
định gắn với thẩm quyền ký kết ĐƯQT, đặc
biệt là thẩm quyền tiến hành các hành vi ràng
buộc của quốc gia đối với ĐƯQT. Do vậy,
10 Nội dung của khoản 3 Điều 27 Công ước Viên 1961 về quan hệ ngoại giao: “Túi ngoại giao không thể bị mở hoặc giữ
lại”.
11 https://treaties.un.org/Pages/ViewDetails.aspx?src=TREATY&mtdsg_no=III-3&chapter=3&clang=_en truy cập ngày
2/3/2018
12 Điều 15 Luật ĐƯQT 2016 về Thẩm quyền, nội dung quyết định ký ĐƯQT.
13 Điều 29 Luật ĐƯQT 2016 về Thẩm quyền phê chuẩn, nội dung văn bản phê chuẩn ĐƯQT.
14 Điều 38 Luật ĐƯQT 2016 về Thẩm quyền phê duyệt, nội dung văn bản phê duyệt ĐƯQT.
việc quy định cơ quan có thẩm quyền bảo
lưu ĐƯQT chính là cơ quan có thẩm quyền
đại diện quốc gia tiến hành các hành vi ký,
phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hoặc gia
nhập điều ước là hoàn toàn phù hợp.
Thẩm quyền bảo lưu ĐƯQT được trao
cho hoặc nguyên thủ quốc gia (Tổng thống,
Thủ tướng...) hoặc cơ quan lập pháp (Nghị
viện, Quốc hội...), hoặc cơ quan hành pháp
(Chính phủ). Tuy nhiên, thẩm quyền chủ
yếu thuộc về cơ quan nào lại tuỳ thuộc vào
cách thức tổ chức bộ máy nhà nước và việc
phân chia quyền lực giữa các cơ quan.
Đối với Việt Nam, thẩm quyền này
được quy định tại Điều 47 Luật ĐƯQT năm
2016, theo đó “Cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định ký, phê chuẩn, phê duyệt
hoặc gia nhập ĐƯQT có quyền quyết định
việc bảo lưu của nước Cộng hoà XHCN Việt
Nam đối với ĐƯQT đó”. Theo quy định tại
Điều 1512, Điều 2913, Điều 3814 của Luật
này, cơ quan có thẩm quyền đưa ra tuyên
bố bảo lưu gồm Quốc hội, Chủ tịch nước và
Chính phủ; đồng thời những cơ quan này sẽ
có thẩm quyền tuyên bố rút bảo lưu hoặc rút
tuyên bố phản đối bảo lưu. Việt Nam quy
định như vậy là phù hợp với quy định của
pháp luật quốc tế và cũng khá rõ ràng, tránh
sự chồng chéo về thẩm quyền khi thực hiện
trên thực tế.
b. Nội dung bảo lưu ĐƯQT
Trong bối cảnh kinh tế hội nhập như
hiện nay, nhu cầu tham gia các ĐƯQT của
các quốc gia ngày càng tăng, và quan điểm
của mỗi quốc gia cũng có sự khác nhau, vì
vậy, vấn đề bảo lưu cũng theo đó mà khẳng
định tầm quan trọng. Nhiều điều ước đã có
những quy định rất cụ thể và chi tiết về vấn
đề bảo lưu, có thể là "cấm" (như Công ước
Luật biển 1982), có thể là cho phép bảo lưu
(như Công ước Viên 1961 về quan hệ ngoại
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
61Số 9(361) T5/2018
giao, Công ước Viên 1980 về mua bán hàng
hoá quốc tế...). Từ thực tiễn quan hệ quốc tế,
một số điều khoản mà các quốc gia thường
đưa ra tuyên bố bảo lưu về các nội dung như:
- Bảo lưu quy định về việc hạn chế sự
tham gia của một số quốc gia vào ĐƯQT.
Có thể thấy ngay như Công ước về xóa
bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm
1965, Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh
sự, Công ước quốc tế về các quyền dân sự
và chính trị năm 1966, Công ước Viên 1961
về quan hệ ngoại giao... quy định các quốc
gia không phải là thành viên của Liên hiệp
quốc hoặc không thỏa mãn các điều kiện
của điều ước thì không được tham gia điều
ước. Nhiều quốc gia đã đưa ra bảo lưu điều
khoản này vì nó mang tính chất phân biệt,
thiếu bình đẳng. Việt Nam cũng thường đưa
ra tuyên bố bảo lưu những điều khoản liên
quan đến nội dung này khi tham gia vào các
ĐƯQT, ví dụ như: các ĐƯQT trong lĩnh vực
ngoại giao, lãnh sự; các ĐƯQT về quyền
con người Việt Nam đưa ra quan điểm
rằng, việc quy định hạn chế một số quốc gia
tham gia vào ĐƯQT là không phù hợp với
nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các
quốc gia.
- Bảo lưu quy định về cơ chế giải
quyết tranh chấp: Trên thực tế, đây là điều
khoản mà các quốc gia thường hay bảo lưu
nhất. Điều này xuất phát từ nguyên tắc tôn
trọng chủ quyền quốc gia, nguyên tắc hoà
bình giải quyết tranh chấp quốc tế. Thực
tiễn bảo lưu ĐƯQT của Liên bang Nga và
rất nhiều quốc gia khác liên quan đến các
quy định của Công ước Viên 1969 về luật
ĐƯQT, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức
phân biệt chủng tộc 1965, Công ước về ngăn
ngừa và trừng trị tội diệt chủng 1948... Việt
Nam cũng thường đưa ra các tuyên bố bảo
lưu liên quan đến các điều khoản quy định
về cơ chế giải quyết tranh chấp. Với việc
đưa ra bảo lưu này, Việt Nam nhằm đảm bảo
tính chủ động để lựa chọn cơ chế giải quyết
tranh chấp phù hợp với từng tranh chấp mà
Việt Nam là một bên trong tranh chấp.
- Bảo lưu quy định chưa phù hợp với
các nguyên tắc của pháp luật quốc gia. Với
Việt Nam, trước khi trở thành thành viên của
ĐƯQT, Việt Nam luôn thực hiện các hoạt
động thẩm tra, rà soát các quy định của pháp
luật quốc tế và pháp luật Việt Nam có tương
thích với nhau không; nếu chưa tương thích
thì có thể sửa đổi pháp luật quốc gia theo
hướng phù hợp với luật quốc tế được hay
không. Hiện nay, Việt Nam chưa có những
bảo lưu mà lý do là các quy định của ĐƯQT
chưa phù hợp với pháp luật quốc gia, tuy
nhiên, trong tương lai chúng ta cũng cần lưu
ý tới tình huống này, vì khi đưa ra bảo lưu
loại này thường sẽ gặp phải sự phản đối từ
các quốc gia khác do không tuân thủ nguyên
tắc Pacta Sunt Servanda.
Ngoài những nội dung trên, Việt Nam
cũng cần lưu ý khi đưa ra tuyên bố bảo lưu
phải cân nhắc đến tính phù hợp của bảo
lưu với đối tượng và mục đích của ĐƯQT.
Qua thực tiễn của các quốc gia cũng có thể
thấy rằng, bảo lưu là quyền của quốc gia,
tuy nhiên nó phải được thực hiện trên cơ sở
các nguyên tắc chung của pháp luật quốc tế.
Nội dung của tuyên bố bảo lưu, về nguyên
tắc, chỉ được coi là hợp pháp nếu nó không
thuộc các trường hợp ĐƯQT không cho
phép bảo lưu (ĐƯQT cấm hoàn toàn bảo
lưu, hay chỉ cho phép bảo lưu một phần) và
bảo lưu phải phù hợp với đối tượng, mục
đích của ĐƯQT. Những bảo lưu đi ngược
lại với đối tượng, mục đích của ĐƯQT có
thể sẽ bị phản đối từ các quốc gia thành viên
hoặc sẽ gặp vướng mắc khi giải quyết tranh
chấp tại các cơ quan tài phán quốc tế.
Liên quan đến quy định của pháp luật
Việt Nam hiện nay về nội dung bảo lưu, Luật
ĐƯQT năm 2016 mới chỉ có quy định mang
tính thủ tục mà chưa đề cập đến việc kiểm
soát nội dung bảo lưu. Các thủ tục kiểm tra
của Bộ Ngoại giao, thẩm định của Bộ Tư
pháp, thẩm tra của các Hội đồng Dân tộc,
các Uỷ ban của Quốc hội chỉ tập trung vào
nội dung ĐƯQT có đảm bảo tính hợp hiến,
sự phù hợp với quy định của pháp luật Việt
Nam mà chưa đặt vấn đề kiểm tra, thẩm
định, thẩm tra nội dung bảo lưu. Nội dung
bảo lưu phải là một trong những vấn đề cần
xem xét kỹ trước khi Việt Nam quyết định
trở thành thành viên của một ĐƯQT mà Việt
Nam có bảo lưu. Do đó, cần nghiên cứu, bổ
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
62 Số 9(361) T5/2018
sung các vấn đề này trong quy định của Luật
ĐƯQT năm 2016.
c. Phản đối bảo lưu ĐƯQT
Các phản đối bảo lưu một phần dựa
trên các quy định của Công ước Viên năm
1969 về luật ĐƯQT, một phần cũng trên
quan điểm, cách nhìn nhận của quốc gia
đối với các vấn đề mà quốc gia thành viên
bảo lưu. Có những tuyên bố bảo lưu với nội
dung tương tự nhưng nếu đưa ra ở ĐƯQT
này không vấp phải sự phản đối nhưng với
ĐƯQT khác lại bị phản đối khá quyết liệt.
Ví dụ, tuyên bố bảo lưu Điều 9 Công ước
về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng
liên quan đến cơ chế giải quyết tranh chấp
về giải thích và áp dụng ĐƯQT của Ấn Độ,
Hoa Kỳ đã gặp phải sự phản đối của Hà Lan
và Liên hiệp Vương quốc Anh & Bắc Ai-len.
Nhưng cũng nội dung tương tự bảo lưu đó
của Hoa Kỳ đối với Điều 30 khoản 1 Công
ước chống tra tấn và các hình thức trừng
phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ
thấp nhân phẩm năm 1984 lại không bị các
quốc gia này phản đối.
Khi tiến hành phản đối bảo lưu của
quốc gia thành viên khác, quốc gia đưa ra
phản đối, dựa trên các quy định của Công
ước Viên năm 1969, cũng nêu lên hệ quả
pháp lý của hành vi phản đối. Trong đa số
trường hợp, phản đối bảo lưu không làm
chấm dứt quan hệ với tư cách thành viên điều
ước giữa quốc gia bảo lưu và quốc gia phản
đối bảo lưu. Giữa các quốc gia vẫn có quan
hệ điều ước nhưng sẽ không bị ràng buộc
bởi điều khoản đã bị bảo lưu. Tuy nhiên,
trong một số ít trường hợp, quốc gia phản
đối bảo lưu nêu rõ là sẽ không duy trì quan
hệ điều ước với quốc gia đã đưa ra bảo lưu,
ví dụ phản đối bảo lưu của Hà Lan và Liên
hiệp Vương quốc Anh & Bắc Ai-len đối với
tuyên bố bảo lưu của Ấn Độ, Hoa Kỳ đối với
Điều 9 Công ước về ngăn ngừa và trừng trị
tội diệt chủng. Những vấn đề nêu trên cho
thấy, việc phản đối bảo lưu không chỉ thuần
tuý là hành vi mang tính pháp lý, dựa trên
15 Điều 20 Công ước Viên 1969 về Luật ĐƯQT ký kết giữa các quốc gia.
quy định của luật quốc tế mà còn chịu tác
động bởi các yếu tố chính trị, dựa trên quan
điểm của quốc gia phản đối bảo lưu.
Luật ĐƯQT 2016 của Việt Nam quy
định về việc phản đối bảo lưu cũng như các
thẩm quyền, trình tự thủ tục đưa ra phản đối
bảo lưu từ Điều 48 đến Điều 51. Tuy nhiên,
trên thực tế, khi đưa ra một tuyên bố phản đối
bảo lưu với một bảo lưu của quốc gia khác,
cần cân nhắc/lưu ý một số khía cạnh sau:
- Khía cạnh pháp lý: (1) sự phù hợp
với đối tượng và mục đích của điều ước; (2)
các trường hợp mà ĐƯQT cấm hoặc hạn
chế bảo lưu; (3) các quy định có liên quan
khác của điều ước về bảo lưu (quy trình, thủ
tục)
- Khía cạnh chính trị: (1) quan điểm
lập trường của các quốc gia thành viên (thể
hiện qua các tuyên bố bảo lưu, chấp thuận
hay phản đối bảo lưu đã được các quốc gia
đưa ra); (2) mức độ tác động của tuyên bố
bảo lưu trong mối quan hệ giữa Việt Nam và
các quốc gia thành viên
- Các khía cạnh khác: (1) tính hợp
hiến, hợp pháp với pháp luật Việt Nam; (2)
mức độ đảm bảo lợi ích của Việt Nam; (3)
tính khả thi trong thực tiễn thực hiện
Các phản đối bảo lưu (nếu có) của Việt
Nam cũng không nên ở mức độ quá gay gắt
(phản đối bảo lưu đồng thời phản đối quan
hệ điều ước với quốc gia đưa ra bảo lưu)
mà chỉ nên dừng ở mức không chấp nhận
điều khoản bảo lưu trong mối quan hệ giữa
hai bên, còn các điều khoản khác thì hai bên
thực hiện bình thường. Đây cũng là mức độ
phản đối mà đa số các quốc gia đưa ra trong
thực tiễn. Đồng thời, các cơ quan có chức
năng của Việt Nam cần theo dõi sát sao các
tuyên bố bảo lưu của các quốc gia thành
viên để có các chấp thuận hay phản đối bảo
lưu kịp thời và phù hợp, vì nếu sau 12 tháng
kể từ khi các quốc gia đó đưa ra bảo lưu mà
chúng ta không có ý kiến gì thì coi như là
chấp thuận tuyên bố bảo lưu đó15.
Xét cho cùng thì bảo lưu luôn là một
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
63Số 9(361) T5/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phap_luat_va_thuc_tien_bao_luu_dieu_uoc_quoc_te_cua_lien_ban.pdf