Một là, thay đổi cụm từ: “tổng giá trị phần
vốn góp” trong khoản 1 Điều 48 LDN năm 2014
bằng cụm từ: “tổng giá trị tài sản” để tương thích
với khoản 29 Điều 4 LDN năm 2014. Sau khi
thay đổi, nội dung của khoản 1 Điều 48 sẽ là:
“Điều 48. Thực hiện góp vốn thành lập công
ty và cấp giấy chứng nhận phần vốn góp
1. Vốn điều lệ của công ty trách nhiệm hữu
hạn hai thành viên trở lên khi đăng ký doanh
nghiệp là tổng giá trị tài sản do các thành viên
cam kết góp vào công ty”.
Hai là, việc không góp đúng hạn số vốn đã
đăng ký, không góp đủ số vốn như đã đăng ký sẽ
dẫn đến việc doanh nghiệp lợi dụng việc được
phép cam kết góp vốn để tạo niềm tin cho bên đối
tác khi tạo ra một nguồn vốn rất lớn nhưng thực
chất là “ảo”, có thể gây thiệt hại cho doanh
nghiệp tham gia giao dịch khi có tranh chấp xảy
ra8.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 277 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Pháp luật về góp vốn điều lệ và xử lý việc góp vốn điều lệ không đúng theo cam kết, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá 4/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
41
1. Tổng quan về vốn điều lệ
Theo quy định tại khoản 6 Điều 4 Luật doanh
nghiệp (LDN) năm 2005 quy định: Vốn điều lệ là
số vốn do các thành viên, cổ đông góp hoặc cam
kết góp trong một thời hạn nhất định và được ghi
vào Điều lệ công ty.
Khoản 4 Điều 4 LDN năm 2005 đã làm rõ
khái niệm, góp vốn là việc đưa tài sản vào công
ty để trở thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu
chung của công ty. Tài sản góp vốn có thể là tiền
Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị
quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ,
công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi
trong Điều lệ công ty do thành viên góp để tạo
thành vốn của công ty.
Khoản 29 Điều 4 LDN năm 2014 giải thích
lại vốn điều lệ như sau: Vốn điều lệ là tổng giá trị
tài sản do các thành viên đã góp hoặc cam kết góp
khi thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty hợp danh; là tổng giá trị mệnh giá cổ phần đã
bán hoặc đã được đăng ký mua khi thành lập
doanh nghiệp đối với công ty cổ phần.
Khoản 13 Điều 4 LDN năm 2014 quy định,
góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành vốn
điều lệ của công ty. Góp vốn bao gồm góp vốn
để thành lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn
điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập.
Như vậy, pháp luật đã giải thích rõ thêm các
trường hợp góp vốn trong quá trình hoạt động
của doanh nghiệp.
Như vậy, LDN năm 2014 đã làm rõ khái niệm
về vốn điều lệ khi giải thích, đó là tổng giá trị tài
sản chứ không bó hẹp ở thuật ngữ: số vốn. Điều
đó có nghĩa là, những loại mà pháp luật thừa nhận
là tài sản thì có thể góp hoặc cam kết góp khi
thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
hợp danh như: (i) Vật, tiền, giấy tờ có giá và
quyền tài sản: tức là quyền trị giá được bằng tiền,
PHÁP LUẬT VỀ GÓP VỐN ĐIỀU LỆ VÀ XỬ LÝ VIỆC GÓP VỐN ĐIỀU LỆ
KHÔNG ĐÚNG THEO CAM KẾT
Lê Ngọc Thạnh1
Tóm tắt: Vốn là một yếu tố không thể thiếu trong kinh doanh, thương mại. Vốn có thể được dùng
để duy trì việc sản xuất, kinh doanh, hoặc mở rộng quy mô, cải tiến công cụ lao động, tư liệu sản xuất,
và đầu tư phát triển khoa học, công nghệ để áp dụng trong thực tiễn. Hiện nay, chúng ta có 2 loại vốn
để thành lập doanh nghiệp, đó là vốn điều lệ và vốn pháp định. Trong phạm vi bài viết này, tác giả
tập trung phân tích một số nội dung có liên quan đến góp vốn điều lệ về việc xử lý góp vốn không đúng
theo cam kết của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, tác giả luận giải và đề nghị sửa đổi, bổ sung một số
quy định pháp luật có liên quan.
Từ khóa: Vốn điều lệ, góp vốn không đúng theo cam kết, doanh nghiệp.
Ngày nhận bài: 02/04/2018; Hoàn thành biên tập: 13/06/2018; Duyệt đăng: 24/07/2018
Abstract: Capital is an indispensable element in business and commerce. Capital can be used to
sustain the production, business, or to scale-up, to improve labor tools, production materials, and to
invest in the development of science and technology for practical application. Nowadays, we have
two types of capital to establish an enterprise, namely charter capital and legal capital. This article
analyses some contents related to the charter capital contribution of the enterprise. On that basis, the
author has given some comments and proposed amendments and supplements to some relevant
provisions of the field.
Key words: Charter capital, capital contribution not in accordance with commitments, enterprises.
Date of receipt: 02/04/2018; Date of revision: 13/06/2018; Date of approval: 24/07/2018
1 Tiến sỹ Luật học, Trường Đại học Lao động Xã hội (Cơ sở II TP. Hồ Chí Minh).
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
42
bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở
hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài
sản khác; (ii) Hình thức biểu hiện của tài sản có
thể là bất động sản và động sản. Bất động sản và
động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình
thành trong tương lai2. Còn đối với công ty cổ
phần thì vốn điều lệ là tổng giá trị mệnh giá cổ
phần đã bán hoặc đã được đăng ký mua khi thành
lập doanh nghiệp.
Từ những quy định của Luật doanh nghiệp
nói trên, chúng ta thấy rằng thuật ngữ vốn điều lệ
trong LDN năm 2014 “dường như” mở rộng hơn
so với LDN năm 2005. Tuy nhiên, nội dung: “các
tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành
viên góp để tạo thành vốn của công ty” không
được kế thừa trong quá trình lập pháp nên ranh
giới ấy trong một số trường hợp cụ thể sẽ không
còn nữa. Và các khái niệm trên gần như tương
đồng với nhau.
Bên cạnh đó, cho dù hoạt động bằng loại hình
doanh nghiệp nào: công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty hợp danh hay công ty cổ phần, xét về thời
gian góp vốn (từ vốn trong trường hợp này được
hiểu là, tổng giá trị tài sản do các thành viên đã
góp hoặc cam kết góp khi thành lập công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh; là tổng giá trị
mệnh giá cổ phần đã bán hoặc đã được đăng ký
mua khi thành lập doanh nghiệp đối với công ty
cổ phần) sẽ có hai loại vốn điều lệ:
Loại thứ nhất, góp vốn khi thành lập công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, hoặc giá
trị mệnh giá cổ phần đã bán được khi thành lập
doanh nghiệp hoạt động bằng hình thức công ty
cổ phần;
Loại thứ hai, mới cam kết góp khi thành lập
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh,
hoặc, giá trị mệnh giá cổ phần đã đã được đăng
ký mua khi thành lập doanh nghiệp hoạt động
bằng hình thức công ty cổ phần.
Bên cạnh vốn điều lệ còn có vốn pháp định
được quy định trong LDN năm 2005. Đó là mức
vốn tối thiểu phải có theo quy định của pháp luật
để thành lập doanh nghiệp3. Nội dung này đã
không được đề cập trong LDN năm 2014. Tuy
nhiên, đối với một số doanh nghiệp kinh doanh có
điều kiện (theo Phụ lục 4 Luật Đầu tư năm 2014)
như kinh doanh bảo hiểm chẳng hạn thì vốn pháp
định được xem là một trong những điều kiện bắt
buộc để được cấp giấy phép thành lập và hoạt
động, thay vì được cấp giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp. Theo đó, các điều kiện để được cấp
giấy phép thành lập và hoạt động doanh nghiệp
bảo hiểm bao gồm:
(i) Có số vốn điều lệ đã góp không thấp hơn
mức vốn pháp định theo quy định của Chính phủ;
(ii) Có hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và
hoạt động theo quy định tại Điều 64 của Luật
kinh doanh bảo hiểm;
(iii) Có loại hình doanh nghiệp và điều lệ phù
hợp với quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm
và các quy định khác của pháp luật;
(iv) Người quản trị, người điều hành có năng
lực quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ về bảo hiểm4.
2. Góp vốn và xử lý việc góp vốn điều lệ
không đúng như cam kết
2.1. Đối với công ty trách nhiệm một thành
viên
Liên quan đến việc góp vốn và xử lý việc góp
vốn không đúng như cam kết, pháp luật hiện hành
đã quy định đối với loại hình công ty trách nhiệm
một thành viên như sau:
Thứ nhất, vốn điều lệ của công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên tại thời điểm đăng
ký doanh nghiệp là tổng giá trị tài sản do chủ sở
hữu cam kết góp và ghi trong Điều lệ công ty.
Thứ hai, chủ sở hữu phải góp đủ và đúng loại
tài sản như đã cam kết khi đăng ký thành lập
doanh nghiệp trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày
được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp.
Thứ ba, trường hợp không góp đủ vốn điều lệ
trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, chủ
2 Quốc hội (2015), Bộ Luật dân sự, Điều 105, Điều 115.
3 Quốc hội (2005), Luật doanh nghiệp, khoản 7 Điều 4.
4 Quốc hội (2000, 2010), Luật kinh doanh bảo hiểm, Điều 63.
Soá 4/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
43
sở hữu công ty phải đăng ký điều chỉnh vốn điều
lệ bằng giá trị số vốn thực góp trong thời hạn 30
ngày, kể từ ngày cuối cùng phải góp đủ vốn điều
lệ. Trường hợp này, chủ sở hữu phải chịu trách
nhiệm tương ứng với phần vốn góp đã cam kết
đối với các nghĩa vụ tài chính của công ty phát
sinh trong thời gian trước khi công ty đăng ký
thay đổi vốn điều lệ.
Thứ tư, chủ sở hữu chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình đối với các nghĩa vụ tài
chính của công ty, thiệt hại xảy ra do không góp,
không góp đủ, không góp đúng hạn vốn điều lệ5.
2.2. Đối với công ty trách nhiệm hai thành
viên trở lên
Liên quan đến việc góp vốn và xử lý việc góp
vốn không đúng như cam kết, pháp luật hiện hành
đã quy định đối với loại hình công ty trách nhiệm
hai thành viên trở lên như sau:
Thứ nhất, vốn điều lệ của công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên khi đăng ký
doanh nghiệp là tổng giá trị phần vốn góp các
thành viên cam kết góp vào công ty.
Thứ hai, thành viên phải góp vốn phần vốn
góp cho công ty đủ và đúng loại tài sản như đã
cam kết khi đăng ký thành lập doanh nghiệp trong
thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Thành viên
công ty chỉ được góp vốn phần vốn góp cho công
ty bằng các tài sản khác với loại tài sản đã cam
kết nếu được sự tán thành của đa số thành viên
còn lại. Trong thời hạn này, thành viên có các
quyền và nghĩa vụ tương ứng với tỷ lệ phần vốn
góp như đã cam kết góp.
Thứ ba, tại thời điểm góp đủ phần vốn góp,
công ty phải cấp giấy chứng nhận phần vốn góp
cho thành viên tương ứng với giá trị phần vốn đã
góp. Giấy chứng nhận phần vốn góp có các nội
dung chủ yếu sau đây: (i) Tên, mã số doanh
nghiệp, địa chỉ trụ sở chính của công ty; (ii) Vốn
điều lệ của công ty; (iii) Họ, tên, địa chỉ thường
trú, quốc tịch, số Thẻ căn cước công dân, Giấy
chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực
cá nhân hợp pháp khác đối với thành viên là cá
nhân; tên, số quyết định thành lập hoặc mã số
doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính đối với thành
viên là tổ chức; (iv) Phần vốn góp, giá trị vốn góp
của thành viên; (v) Số và ngày cấp giấy chứng
nhận phần vốn góp; (vi) Họ, tên, chữ ký của
người đại diện theo pháp luật của công ty.
Trong trường hợp giấy chứng nhận phần vốn
góp bị mất, bị hủy hoại, bị hư hỏng hoặc bị tiêu
hủy dưới hình thức khác, thành viên được công ty
cấp lại giấy chứng nhận phần vốn góp theo trình
tự, thủ tục quy định tại Điều lệ công ty.
Thứ tư, sau thời hạn 90 ngày, kể từ ngày
được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
mà vẫn có thành viên chưa góp hoặc chưa góp đủ
số vốn đã cam kết thì được xử lý như sau: (i)
Thành viên chưa góp vốn theo cam kết đương
nhiên không còn là thành viên của công ty; (ii)
Thành viên chưa góp vốn đủ phần vốn góp như
đã cam kết có các quyền tương ứng với phần vốn
góp đã góp; (iii) Phần vốn góp chưa góp của các
thành viên được chào bán theo quyết định của
Hội đồng thành viên.
Thứ năm, trường hợp có thành viên chưa góp
hoặc chưa góp đủ số vốn đã cam kết, công ty phải
đăng ký điều chỉnh, vốn điều lệ, tỷ lệ phần vốn
góp của các thành viên bằng số vốn đã góp trong
thời hạn 60 ngày, kể từ ngày cuối cùng phải góp
vốn đủ phần vốn góp nói trên. Các thành viên
chưa góp vốn hoặc chưa góp đủ số vốn đã cam
kết phải chịu trách nhiệm tương ứng với phần vốn
góp đã cam kết đối với các nghĩa vụ tài chính của
công ty phát sinh trong thời gian trước ngày công
ty đăng ký thay đổi vốn điều lệ và phần vốn góp
của thành viên6.
2.3. Đối với công ty cổ phần
Liên quan đến việc thanh toán cổ phần đã
đăng ký mua khi đăng ký doanh nghiệp như cam
kết, pháp luật hiện hành đã quy định đối với loại
hình công ty cổ phần như sau:
Thứ nhất, vốn điều lệ công ty cổ phần là tổng
giá trị mệnh giá cổ phần đã bán các loại. Vốn điều
lệ của công ty cổ phần tại thời điểm đăng ký
thành lập doanh nghiệp là tổng giá trị mệnh giá cổ
5 Quốc hội (2014), Luật doanh nghiệp, Điều 74.
6 Quốc hội (2014), Luật doanh nghiệp, Điều 48.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
44
phần các loại đã được đăng ký mua và được ghi
trong Điều lệ công ty.
Thứ hai, các cổ đông phải thanh toán đủ số cổ
phần đã đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ
ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp, trừ trường hợp Điều lệ công ty hoặc hợp
đồng đăng ký mua cổ phần quy định một thời hạn
khác ngắn hơn. Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm
giám sát, đôn đốc thanh toán đủ và đúng hạn các
cổ phần các cổ đông đã đăng ký mua.
Thứ ba, trong thời hạn từ ngày công ty được
cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đến
ngày cuối cùng phải thanh toán đủ số cổ phần đã
đăng ký mua quy định nói trên, số phiếu biểu
quyết của các cổ đông được tính theo số cổ phần
phổ thông đã được đăng ký mua, trừ trường hợp
Điều lệ công ty có quy định khác.
Thứ tư, nếu sau thời hạn quy định nói trên
(quá thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp) có cổ đông
chưa thanh toán hoặc chỉ thanh toán được một
phần số cổ phần đã đăng ký mua, thì thực hiện
theo quy định sau đây:
(i) Cổ đông chưa thanh toán số cổ phần đã
đăng ký mua sẽ đương nhiên không còn là cổ
đông của công ty và không được chuyển nhượng
quyền mua cổ phần đó cho người khác;
(ii) Cổ đông chỉ thanh toán một phần số cổ
phần đã đăng ký mua sẽ có quyền biểu quyết,
nhận lợi tức và các quyền khác tương ứng với số
cổ phần đã thanh toán; không được chuyển
nhượng quyền mua số cổ phần chưa thanh toán
cho người khác;
(iii) Số cổ phần chưa thanh toán được coi là
cổ phần chưa bán và Hội đồng quản trị được
quyền bán;
(iv) Công ty phải đăng ký điều chỉnh vốn điều
lệ bằng giá trị mệnh giá số cổ phần đã được thanh
toán đủ và thay đổi cổ đông sáng lập trong thời
hạn 30 ngày, kể từ ngày kết thúc thời hạn phải
thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong
thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, trừ trường
hợp Điều lệ công ty hoặc hợp đồng đăng ký mua
cổ phần quy định một thời hạn khác ngắn hơn.
Thứ năm, cổ đông chưa thanh toán hoặc chưa
thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua phải
chịu trách nhiệm tương ứng với tổng giá trị mệnh
giá cổ phần đã đăng ký mua đối với các nghĩa vụ
tài chính của công ty phát sinh trong thời hạn quy
định tại khoản 1 Điều này. Thành viên Hội đồng
quản trị, người đại diện theo pháp luật phải chịu
trách nhiệm liên đới về các thiệt hại phát sinh do
không thực hiện hoặc không thực hiện đúng: (i)
việc thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua
trong thời hạn quy định và (ii) đăng ký điều chỉnh
vốn điều lệ bằng giá trị mệnh giá số cổ phần đã
được thanh toán đủ và thay đổi cổ đông sáng lập
trong thời hạn quy định7.
3. Một số đề xuất, kiến nghị
Qua việc phân tích một số quy định có liên
quan đến việc góp vốn điều lệ và xử lý việc thực
hiện không đúng như cam kết, tác giả có một số
nhận định như sau:
Thứ nhất, LDN năm 2014 không quy định về
việc công ty được điều chỉnh giảm vốn điều lệ
trong thời hạn thành viên, cổ đông công ty thực
hiện góp vốn điều lệ theo cam kết.
Thứ hai, xung quanh khái niệm vốn điều lệ
được cụ thể hóa trong từng điều luật cụ thể quy
định loại hình doanh nghiệp, chúng ta có thể thấy
sự thiếu nhất quán trong việc sử dụng thuật ngữ
như sau:
(i) Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên: Vốn điều lệ của công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên tại thời điểm đăng ký
doanh nghiệp là tổng giá trị tài sản do chủ sở hữu
cam kết góp và ghi trong Điều lệ công ty.
(ii) Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên: Vốn điều lệ của công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên khi đăng ký
doanh nghiệp là tổng giá trị phần vốn góp các
thành viên cam kết góp vào công ty.
Về nội dung vốn điều lệ đã được giải thích tại
khoản 29 Điều 4 LDN năm 2014. Việc giải thích
lại thuật ngữ này đã không thống nhất giữa “tổng
7 Quốc hội (2014), Luật doanh nghiệp, khoản 1 Điều 111, Điều 112.
Soá 4/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
45
giá trị tài sản” và “tổng giá trị phần vốn góp”, và
như vậy sẽ không tương thích với phần giải thích
thuật ngữ pháp lý như đã nêu trên.
Thứ ba, “kê khai khống vốn điều lệ, không
góp đủ số vốn điều lệ như đã đăng ký; cố ý định
giá tài sản góp vốn không đúng giá trị” là hành vi
bị nghiêm cấm theo quy định tại khoản 5 Điều 17
LDN năm 2014. Quy định này được kế thừa từ
nội dung của quy định tại khoản 4 Điều 11 LDN
năm 2005. Đã là hành vi nghiêm cấm mà các chủ
thể khi tham gia quan hệ pháp luật doanh nghiệp
vi phạm, cần thiết phải có chế tài xử lý tương
xứng với hành vi vi phạm. Bởi lẽ đó, Điều 23
Nghị định số 155/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013
của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực kế hoạch đầu tư đã xác định
các hành vi: Không góp đúng hạn số vốn đã đăng
ký, không góp đủ số vốn như đã đăng ký; Cố ý
định giá tài sản góp vốn không đúng giá trị thực
tế là hành vi vi phạm hành chính và bị xử phạt từ
10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng tùy từng
trường hợp cụ thể.
Tuy nhiên, tại Điều 28 (Vi phạm các quy định
về thành lập doanh nghiệp) Nghị định số
50/2016/NĐ-CP thay thế Nghị định 155/2013/NĐ-
CP nói trên chỉ quy định: Cố ý định giá tài sản
góp vốn không đúng giá trị thực tế là hành vi vi
phạm hành chính; còn các hành vi khác như:
Không góp đúng hạn số vốn đã đăng ký, không
góp đủ số vốn như đã đăng ký thì không thấy đề
cập đến.
Theo chúng tôi, nội dung này cần thiết phải
được bổ sung để cơ quan nhà nước có thẩm
quyền có cơ sở pháp lý xử lý hành vi vi phạm
hành chính của doanh nghiệp.
Trên cơ sở phân tích và luận giải nêu trên, tác
giả có một số kiến nghị như sau:
Một là, thay đổi cụm từ: “tổng giá trị phần
vốn góp” trong khoản 1 Điều 48 LDN năm 2014
bằng cụm từ: “tổng giá trị tài sản” để tương thích
với khoản 29 Điều 4 LDN năm 2014. Sau khi
thay đổi, nội dung của khoản 1 Điều 48 sẽ là:
“Điều 48. Thực hiện góp vốn thành lập công
ty và cấp giấy chứng nhận phần vốn góp
1. Vốn điều lệ của công ty trách nhiệm hữu
hạn hai thành viên trở lên khi đăng ký doanh
nghiệp là tổng giá trị tài sản do các thành viên
cam kết góp vào công ty”.
Hai là, việc không góp đúng hạn số vốn đã
đăng ký, không góp đủ số vốn như đã đăng ký sẽ
dẫn đến việc doanh nghiệp lợi dụng việc được
phép cam kết góp vốn để tạo niềm tin cho bên đối
tác khi tạo ra một nguồn vốn rất lớn nhưng thực
chất là “ảo”, có thể gây thiệt hại cho doanh
nghiệp tham gia giao dịch khi có tranh chấp xảy
ra8.
Suy cho cùng, các hành vi đã liệt kê nêu trên
chính là nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm
hành chính tiếp theo: không đăng ký thay đổi
với cơ quan đăng ký kinh doanh khi không góp
đủ vốn Điều lệ như đã đăng ký. Do vậy, tác giả
đề nghị sửa đổi, bổ sung Nghị định số 50/2016/
NĐ-CP:
(i) Bổ sung: “Không góp đúng hạn số vốn đã
đăng ký; Không góp đủ số vốn như đã đăng ký”
là hành vi vi phạm hành chính vào khoản 2,
khoản 3 Điều 28 (Vi phạm các quy định về thành
lập doanh nghiệp);
(ii) Bãi bỏ nội dung: “Không đăng ký thay
đổi với cơ quan đăng ký kinh doanh khi không
góp đủ vốn Điều lệ như đã đăng ký” tại khoản 3
Điều 28;
(iii) Bổ sung nội dung buộc doanh nghiệp
phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả bằng
quy định: “Buộc góp đủ số vốn như đã đăng ký”
hoặc “Buộc đăng ký thay đổi với cơ quan đăng
ký kinh doanh khi không góp đủ vốn Điều lệ như
đã đăng ký” tại khoản 5 Điều 28 .
Còn đối với hành vi: “Không góp đúng hạn
số vốn đã đăng ký” là không thể khắc phục hậu
quả được, để nội dung của khoản 5 Điều 17
LDN năm 2014 về các hành vi bị nghiêm cấm
có tính khả thi trong hoạt động áp dụng pháp
luật./.
8 Minh Tâm (2011), Quy định vốn góp nhiều kẽ hở, truy cập tại địa chỉ:
dinh-ve-von-gop-nhieu-ke-ho.html, ngày 15/10/2017.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phap_luat_ve_gop_von_dieu_le_va_xu_ly_viec_gop_von_dieu_le_k.pdf