Pháp luật về hợp đồng trong họat động kinh doanh – thương mại

LỜI MỞ ĐẦU Hợp đồng được hiểu theo nghĩa rộng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về một vấn đề nhất định trong xã hội nhằm làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên đó. Bộ Luật Dân sự 2005 đã đưa ra khái niệm về hợp đồng dân sự một cách khái quát như sau: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.” (Điều 388 Bộ Luật Dân Sự.) Để được coi là sự thỏa thuận thì hợp đồng phải thể hiện được sự tự do bày tỏ ý chí của các bên tham gia quan hệ hợp đồng. Nguyên tắc tự do hợp đồng cho phép các cá nhân, tổ chức được tự do quyết định việc giao kết hợp đồng với ai, như thế nào, vào thời điểm nào. Quan hệ hợp đồng này phải diễn ra trong những mối quan hệ xã hội nhất định và xuất phát từ lợi ích của mỗi bên. Việc giao kết hợp đồng làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên trong quan hệ hợp đồng. Tức là, thông qua hợp đồng, các bên xác lập được đối tượng nghĩa vụ của hợp đồng. Hợp đồng sẽ không có hiệu lực pháp lý đối với những nghĩa vụ không thể thực hiện được. Các bên tham gia quan hệ hợp đồng gọi là chủ thể của hợp đồng. Chủ thể của hợp đồng có thể là cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể khác. Trong hợp đồng quyền và nghĩa vụ giữa các bên có tính chất tương ứng, là đặc trưng cơ bản của nghĩa vụ dân sự. Quyền lợi của bên này chỉ đạt được khi bên kia thực hiện các hành vi mang tính nghĩa vụ đã được hai bên xác nhận trong hợp đồng hoặc pháp luật quy định trong nội dung của quan hệ nghĩa vụ ấy. Mục đích của hợp đồng là nhằm dung hòa và thỏa mãn các lợi ích khác nhau của các bên. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng: Quan hệ hợp đồng muốn có hiệu lực, được pháp luật bảo vệ thì phải tuân theo những quy định của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Thứ nhất, các chủ thể ký kết hợp đồng phải hợp pháp. Thông thường các bên giao kết phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. KẾT LUẬN

doc38 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1843 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Pháp luật về hợp đồng trong họat động kinh doanh – thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Traùnh nhieäm do vi phaïm hôïp ñoàng daân söï. 4.1. Khái niệm, đặc điểm, các nguyên tắc trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng 4.1.1 Khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng: Theo Khoản 1 Điều 302 Bộ Luật Dân sự quy định: “Bên có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền”. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng dân sự là một loại trách nhiệm dân sự, là một trong những trách nhiệm pháp lý cho nên nó cũng có những điểm chung sau đây: - Được áp dụng chỉ khi có hành vi vi pạhm pháp luật và chỉ đối với người có hành vi vi phạm đó. - Là biểu hiện sự cưỡng chế của Nhà nước đối với hành vi vi phạm và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng. - Bao giờ cũng là hậu quả bất lợi cho bên có hành vi vi phạm pháp luật. Thêm vào đó, trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ bao gồm có nghĩa vụ hợp đồng còn có những đặc điểm riêng: - Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự luôn liên quan trực tiếp đối với tài sản, Vì lợi ích của mình các bên tự nguyện quyết định tham gia vào các nghĩa vụ dân sự, quan hệ hợp đồng dân sự. Cho nên, việc vi phạm nghĩa vụ của một bên sẽ tác động trực tiếp đến lợi ích vật chất của bên kia. Xuất phát từ quan điểm đó mà bên vi phạm phải bù đắp những lợi ích vật chất cho bên bị vi phạm. - Hành vi vi phạm trong trách nhiệm dân sự là việc không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ. Trách nhiệm dân sự được áp dụng với những người có hành vi vi phạm nhưng cũng có thể áp dụng đối với người đại diện hoặc người giám hộ khi người có hành vi vi phạm là người chưa thành niên, người được giám hộ. - Bên có hành vi vi phạm phải gánh chịu hậu quả bất lợi mang nội dung tài sản như: bắt buộc phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hoặc phải bồi thường thiệt hại nhằm mục đích thỏa mãn lợi ích chính đáng của bên kia hoặc khắc phục hậu quả cho bên bị vi phạm, ví dụ như nghĩa vụ phải giao vật, phải bồi thường thiệt hại. 4.1.2. Các nguyên tắc của trách nhiệm do vi phạm hợp đồng: Thứ nhất, bên có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền. Thứ hai, trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu traùch nhiệm dân sự, trừ trưởng hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Thứ ba, bên có nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm dân sự nếu chứng minh được nghĩa vụ không thực hiện được là hòan toàn do lỗi của bên có quyền. 4.2. Các hình thức trách nhiệm do vi phạm hợp đồng: 4.2.1 Trách nhiệm thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng: a Trách nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa vụ giao vật (Điều 303 Bộ Luật Dân sự). Trong quá trình thực hiện hợp đồng bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ giao vật đặc định thì bên có quyền được quyền yêu cầu họ phải giao đúng vật đó, nếu không phải thanh toán theo giá thị trường giá trị của vật. nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ mà gây thiệt hại cho bên có quyền thì phải bồi thường cả thiệt hại sau khi đã thanh toán giá trị của vật cho bên có quyền. b. Trách nhiệm dân sự do không thực hiện nghĩa vụ phải thực hiện hoặc không thực hiện một công việc (Điều 304 Bộ Luật Dân sự). Khi đó bên có quyền có thể: Yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện; Tự mình thực hiện; Giao cho người khác thực hiện công việc đó; Tất cả các chi phí phát sinh họ có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thanh toán, nếu phát sinh thiệt hại phải bồi thường thiệt hại. Nhưng đối với một công việc mà bên nghĩa vụ không được thực hiện mà lại thực hiện nó thì phải chấm dứt thực hiện, khôi phục tình trạng ban đầu và bồi thường thiệt hại. 4.2.2. Trách nhiệm tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng: a. Trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự (Điều 305 Bộ Luật Dân sự), có hai trường hợp: - Bên nghĩa vụ chưa hoàn thành nghĩa vụ khi đã quá thời hạn thì vẫn phải thực hiện nghĩa vụ và bồi thường thiệt hại. - Bên nghĩa vụ thực hiện chậm đến mức việc thực hiện nghĩa vụ không còn cần thiết thì bên có quyền từ chối tiếp nhận việc thực hiện đó và đòi bồi thường thiệt hại. Nếu là nghĩa vụ chậm trả tiền thì trả lãi bằng lãi suất cơ bản tại thời điểm đó của ngân hàng nhà nước, từ thời điểm phải thanh toán đối với số tiền chậm trả. b. Trách nhiệm dân sự do chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ dân sự (Điều 306 Bộ Luật Dân sự): Khi bên có nghĩa vụ thực hiện xong nghĩa vụ mà bên có quyền chậm tiếp nhận làm phát sinh thiệt hại thì họ phải bồi thường thiệt hại và chịu mọi rủi ro xảy ra từ thời điểm chậm tiếp nhận đó. 4.2.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại (Điều 307 Bộ Luật Dân sự): Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh trong quan hệ hợp đồng dân sự (trách nhiệm dân sự) trên cơ sở các điều kiện sau đây: Một là, có hành vi vi phạm. Hành vi vi phạm là hành vi của một bên đã xử sự không đúng với nội dung mà hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật. Những hành vi bị coi là vi phạm nghĩa vụ, vi phạm hợp đồng là những hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trong hợp đồng. Hai là, có thiệt hại thực tế xảy ra. Thiệt hại ở đây phải là thiệt hại về tài sản, thiệt hại có thực nghĩa là có thể xác định, tính toán được. Trong thực tế, thiệt hại xảy ra do vi phạm nghĩa vụ dân sự (nghĩa vụ hợp đồng) bao gồm: những tài sản bị mất mát, hư hỏng hoàn toàn, những hư hỏng, hao hụt về giá trị của tài sản, những chi phí để ngăn chặn, hạn chế khắc phục hậu quả do bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng gây ra, những tổn thất xảy ra do hành vi vi phạm hợp đồng phát sinh làm thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút có thể tính toán được, chứ không phải do suy diễn mà có. Ba là, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật và thiệt hại xảy ra. Điều đó đòi hỏi giữa hành vi vi phạm hợp đồng và hậu quả xảy ra phải có mối quan hệ tất yếu. Thiệt hại phát sinh là hậu quả tất nhiên của hành vi vi phạm, nếu không có hành vi vi phạm thì không có thiệt hại xảy ra. Chỉ có người vi phạm gây thiệt hại mới phải áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại. nếu không xác định được chính xác mối quan hệ này thì sẽ dẫn đến những sai lầm khi áp dụng trách nhiệm dân sự. Bốn là, có lỗi của người vi phạm nghĩa vụ dân sự: Lỗi là thái độ chủ quan và nhận thức lý trí của bên vi phạm nghĩa vụ đối với hành vi và hậu quả gây ra. Qua đó, xác định được mức độ lỗi và hình thức lỗi của người vi phạm. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong luật dân sự là có lỗi mới phải bồi thường. Sau đó mới xác định lỗi đó ở hình thức nào, lỗi cố ý hay lỗi vô ý. Việc xác định này trong một số trường hợp nhất định có ý nghĩa rất quan trọng khi xem xét có giảm mức bồi thường thiệt hại hay không. Như vậy, trong quá trình thực hiện hợp đồng nếu một bên không thực hiện, thực hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp đồng thì đương nhiên bị coi là có lỗi. Người bị coi là lỗi cố ý nếu họ nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra. Người bị coi là có lỗi vô ý, nếu họ không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại có thể xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại nhưng họ cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được thiệt hại đó. II. HỢP ĐỒNG TRONG KINH DOANH – THƯƠNG MẠI: 1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng thương mại: Luật Thương mại được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005 không có định nghĩa riêng về “hợp đồng thương mại” nhưng đề cập đến các loại hợp đồng cụ thể trong hoạt động thương mại. Trong chương II có quy định về hợp đồng mua bán hàng hóa. Chương III quy định về hợp đồng dịch vụ. Hợp đồng thương mại được hiểu là thỏa thuận giữa các thương nhân (hoặc một bên là thương nhân) về việc thực hiện một hay nhiều hành vi của hoạt động thương mại nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Hợp đồng thương mại có những đặc điểm của các hợp đồng trong hoạt động kinh doanh nói chung và có những đặc điểm riêng của các hoạt động thương mại. Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng thương mại là thương nhân hoặc một bên là thương nhân. Thương nhân là tổ chức kinh tế, cá nhân có đăng ký kinh doanh và tiến hành hoạt động thương mại một cácg thường xuyên, độc lập. Thương nhân nước ngoài được đặt Văn phòng đại diện, Chi nhánh tại Việt Nam, thành lập tại Việt Nam doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo các hình thức do pháp luật Việt Nam quy định. Thứ hai, hình thức của hợp đồng thương mại có thể bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Thông điệp dữ liệu cũng được coi là hình thức văn bản. Thứ ba, mục đích của hợp đồng thương mại là lợi nhuận. Mục đích lợi nhuận luôn được thể hiện hàng đầu trong các hợp đồng thương mại. Thứ tư, nội dung của hợp đồng thương mại là xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên trong các quan hệ cụ thể khi tiến hành hoạt động thương mại. khái niệm hoạt động thương mại theo Luật Thương mại 2005 đã có sự mở rộng là hầu hết các lĩnh vực kinh doanh. 2. Các loại hợp đồng trong hoạt động thương mại: Theo Luật Thương mại hiện hành, hợp đồng thương mại bao gồm hai nhóm là hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng cung ứng dịch vụ. Trong mỗi nhóm của hoạt động thương mại, chế độ pháp lý về hợp đồng có những quy định cụ thể cho từng loại hợp đồng như mua bán hàng hóa không có yếu tố quốc tế, mua bán hàng hóa quốc tế, mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa, các hợp đồng trong hoạt động xúc tiến thương mại (khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại), hợp đồng trong hoạt động trung gian thương mại (đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hóa đại lý thương mại) và các hợp đồng trong hoạt động cụ thể khác (gia công, đấu giá hàng hóa, đấu thầu hàng hóa, dịch vụ, dịch vụ logistics, giám định, cho thuê hàng hóa, nhượng quyền thương mại). III. MỘT SỐ LOẠI HỢP ĐỒNG ĐIỂN HÌNH TRONG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI: 1. Hợp đồng mua bán hàng hóa: Mua bán hàng hóa là hành vi thương mại, theo đó người bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho người mua và nhận tiền; người mua có nghĩa vụ trả tiền cho người bán và nhận hàng theo thỏa thuận của hai bên. Hoạt động mua bán hàng hóa được thể hiện dưới hình thức pháp lý là các hợp đồng mua bán hàng hóa. 1.1.Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa: - Về chủ thể của hợp đồng, theo Luật Thương mại 2005, Hợp đồng thương mại có thể được giao kết giữa các chủ thể bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Các thương nhân này có quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức và theo các phương thức mà pháp luật không cấm. Ngoài ra, hợp đồng thương mại còn được ký kết giữa các tổ chức, cá nhân khác hoạt động có liên quan đến thương mại. - Đối tượng của hợp đồng là hàng hóa. Hàng hóa theo hợp đồng là hàng hóa được phép mua bán theo quy định của pháp luật của nước bên mua và bên bán. - Nội dung của hợp đồng cần chứa đựng đầy đủ các nội dung cơ bản của một hợp đồng mua bán hàng hóa là: Tên hàng; số lượng; quy cách chất lượng; giá cả; phương thức thanh toán; địa điểm và thời hạn giao hàng. Ngoài ra hợp đồng còn phải có thêm những điều khoản để đảm bảo quyền lợi cho các bên không có chung một hệ thống pháp luật như điều khoản về chọn Luật áp dụng hay cơ quan và nơi giải quyết tranh chấp. - Về hình thức của hợp đồng, theo quy định tại Luật Thương mại, hợp đồng thương mại được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. 1.2. Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa: Hợp đồng có thể được ký kết bằng các phương thức trực tiếp hoặc gián tiếp. Ký kết bằng phương thức trực tiếp: Người đại diện có thẩm quyền của các bên trực tiếp gặp nhau, cùng bàn bạc, thương lượng và thỏa thuận thống nhất về các nội dung của hợp đồng và cùng ký tên vào văn bản hợp đồng. Hợp đồng được xác lập và phát sinh hiệu lực pháp lý từ thời điểm các bên có mặt ký vào hợp đồng. Ký kết bằng phương thức gián tiếp: Các bên không trực tiếp gặp nhau để bàn bạc thảo luận mà trao đổi qua các tài liệu giao dịch như công văn, điện báo, đơn đặt hàng, đơn chào hàng, thông điệp dữ liệu điện tử… trong đó ghi rõ nội dung công việc cần giao dịch. Trình tự ký kết hợp đồng theo phương thức này bao gồm hai giai đoạn: a. Chào hàng: Chào hàng là một đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong một thời hạn nhất định, được chuyển cho một hay nhiều người đã xác định. Ở giai đoan này, một bên đưa ra lời chào hàng, tùy theo nội dung có thể là chào bán hàng hoặc chào mua hàng, đồng thời đưa ra một thời hạn để bên kia xem xét quyết định lập hợp đồng. Bên chào hàng có trách nhiện đối với lời chào hàng của mình trong thời hạn đã đưa ra trong lời chào hàng. Nếu bên nhận được chào hàng đồng ý với toàn bộ chào hàng và trả lời chấp nhận trong thời hạn được quy định trong chào hàng thì quan hệ hợp đồng đã được hình thành. Chào hàng hết hiệu lực khi hết thời hạn chấp nhận quy định trong chào hàng đã hết hoặc chào hàng bị từ chối. b. Chấp nhận chào hàng: Chấp nhận chào hàng là thông báo của bên được chào hàng chuyển cho bên chào hàng về việc chấp thuận toàn bộ các nội dung đã nêu trong chào hàng. Như vậy, chấp nhận chào hàng phỉa là chấp nhận vô điều kiện. Trường hợp bên được chào hàng yêu cầu sửa đổi, bổ sung một trong những nội dung chủ yếu của chào hàng thì hành vi đó được coi là từ chối chào hàng và hình thành một chào hàng mới. Chào hàng chỉ được coi là được chấp nhận nếu người được chào hàng chấp nhận toàn bộ mọi sửa đổi, bổ sung do người chào hàng đưa ra. Luật Thương mại không quy định hình thức chấp nhận chào hàng. Vì vậy, chấp hành chào hàng có thể được thể hiện dưới mọi hình thức để người chào hàng hiểu là chào hàng đã được chấp nhận một cách vô điều kiện. Đó có thể là lời nói hoặc một hành vi cụ thể biểu lộ sự đồng ý với toàn bộ chào hàng. Im lặng hoặc không hành động không được coi là đồng ý với chào hàng. Tuy Luật Thương mại không quy định hình thức chấp nhận chào hàng nhưng để tránh những hiểu lầm dẫn đến tranh chấp, chấp nhận chào hàng nên được thể hiện dưới hình thức văn bản. Nếu các bên áp dụng hình thức ký hợp đồng một cách gián tiếp thì chấp nhận chào hàng trong trường hợp mua bán hàng hóa với người nước ngoài phải được thể hiện dưới hình thức văn bản mới có giá trị pháp lý. Bên nhận được chào hàng trả lời cho bên chào hàng trong thời hạn quy định bằng một thông báo chấp thuận toàn bộ các nội dung đã nêu trong chào hàng. Thời hạn chấp nhận chào hàng được tính từ thời điểm chào hàng được chuyển đi cho bên được chào hàng đến hết thời hạn chấp nhận chào hàng được ghi trong chào hàng. Trong trường hợp thời hạn chấp nhận chào hàng không được xác định rõ trong chào hàng thì thời hạn trách nhiệm của bên chào hàng được Luật Thương mại quy định là ba mươi (30) ngày, kể từ ngày chào hàng được chuyển đi cho bên được chào hàng. Thời điểm chấp nhận là thời điểm bản thông báo chấp nhận được chuyển đi cho bên chào hàng. Đây cũng đồng thời là thời điểm bắt đầu trách nhiệm của bên chấp nhận chào hàng. Trong trường hợp bên được chào hàng chấp nhận chào hàng sau khi hết thời hạn chấp nhận chào hàng quy định thì chấp nhận đó không có hiệu lực, trừ trường hợp bên chào hàng thông báo ngay cho bên được chào hàng về việc mình chấp nhận dù quá hạn. 1.3. Thời điểm xác lập hợp đồng mua bán hàng hóa: Hợp đồng mua bán hàng hóa được coi là đã ký kết từ thời điểm các bên có mặt ký vào hợp đồng. Trong trường hợp các bên không cùng có mặt để ký hợp đồng, hợp đồng mua bán hàng hóa được coi là đã ký kết kể từ thời điểm bên chào hàng nhận được thông báo chấp nhận toàn bộ các điều kiện đã ghi trong chào hàng trong thời hạn trách nhiệm của người chào hàng 1.4. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa: Luật Thương mại quy định những nội dung đặc thù về mua bán hàng hóa với tính chất là một hoạt động thương mại. Trong trường hợp cần có những quy định chuyên biệt trong những hoạt động thương mại cụ thể thì luật chuyên ngành sẽ điều chỉnh theo tính chất chuyên biệt trong hoạt động chuyên ngành và theo nguyên tắc áp dụng luật thì sẽ ưu tiên áp dụng các quy định về hợp đồng chuyên ngành đó. Các quyền và nghĩa vụ các bên trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa được Luật Thương mại 2005 quy định chi tiết trên cơ sở kế thừa những quy định về mua bán hàng hóa trong Luật Thương mại 1997, tham khảo Công ước Viên năm 1980 và các tập quán, thông lệ quốc tế về mua bán hàng hóa để xây dựng được quy định về hợp đồng mua bán hàng hóa phù hợp nhất với điều kiện thực tế của Việt Nam. Quyền và nghĩa vụ chủ yếu của các bên trong hợp đồng thương mại được quy định tại Mục 2 Luật Thương mại. 1.4.1. Quyền và nghĩa vụ của bên bán: Bên bán phải giao hàng hóa phù hợp với quy định của hợp đồng về số lượng, chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng.(Điều 35 Luaät Thöông Maò) quy định bên bán phải giao hàng vào đúng thời điểm giao hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng. Trường hợp bên bán giao hàng trước thời hạn đã thỏa thuận thì bên mua có quyền nhận hoặc không nhận hàng nếu các bên không có thỏa thuận khác (Điều 38 Luaät Thöông Maïi). Nghĩa vụ giao chứng từ liên quan đến hàng hóa được quy định tại (Điều 42 Luaät thöông maïi). Trường hợp có thỏa thuận về việc giao chứng từ thì bên bán có nghĩa vụ giao chứng từ liên quan đến hàng hóa cho bên mua vào thời hạn, tại địa điểm và bằng hình thức đã thỏa thuận. Một trong các nghĩa vụ của bên bán là phải kiểm tra hàng hóa trước khi giao hàng. Bên bán phải chịu trách nhiệm về những khiếm khuyết của hàng hóa mà bên mua hoặc đại diện của bên mua đã kiểm tra nếu các khiếm khuyết của hàng hóa không thể phát hiện được trong quá trình kiểm tra bằng biện pháp thông thường và bên bán biết hoặc không thể không biết về các khiếm khuyết đó nhưng không thông báo cho bên mua (Điều 44 khoản 5. Luaät Thöông Maïi). Bên bán còn có nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu đối với hàng hóa. Theo đó, bên bán phải bảo đảm: 1) quyền sở hữu của bên mua đối với hàng hóa đã bán không bị tranh chấp bởi bên thứ ba; 2) hàng hóa đó phải hợp pháp; 3) việc chuyển giao hàng hóa là hợp pháp. Ngoài ra, bên bán không được bán hàng hóa vi phạm quyền sỡ hữu trí tuệ (Điều 46 Luaät Thöông Maïi).. Trường hợp hàng hóa mua bán có bảo hành thì bên bán phỉa chịu trách nhiệm bảo hành hàng hóa đó theo nội dung và thời hạn đã thỏa thuận và phải chịu các chi phí về việc bảo hành, trừ trường hợp có thỏa thuận khác (Điều 49 Luaät Thöông Maïi). 1.4.2. Quyền và nghĩa vụ của bên mua: Theo Điều 50, Điều 55 Luaät Thöông Maïi.quy định bên mua có nghĩa vụ: Thanh tóan tiền mua hàng và nhận hàng theo thỏa thuận. Tuân thủ các phương thức thanh toán, thực hiện việc thanh toán theo trình tự, thủ tục đã thỏa thuận và theo quy định của pháp luật. Thanh toán cho bên bán vào thời điểm bên bán giao hàng hoặc giao chứng từ liên quan đến hàng hóa; bên mua vẫn phải thanh toán tiền mua hàng trong trường hợp hàng hóa mất mát, hư hỏng sau thời điểm rủi ro được chuyển từ bên bán sang bên mua, trừ trường hợp mất mát, hư hỏng do lỗi của bên bán gây ra. Ngoài ra, bên mua mất quyền sở hữu đối với hàng hóa, quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa nếu bên mua không thông báo ngay cho bên bán về khiếu nại của bên thứ ba đối với hàng hóa được giao sau khi bên mua đã biết hoặc phải biết về khiếu nại đó, trừ trường hợp bên bán biết hoặc phải biết về khiếu nại của bên thứ ba (Điều 49; Điều 46 khoàn 1 Luaät Thöông Maïi).). Bên mua cũng có quyền ngừng thanh toán tiền mua hàng trong các trường hợp: 1) Bên mua có bằng chứng về việc bên bán lừa dối thì có quyền tạm ngừng việc thanh toán; 2) Bên mua có bằng chứng về việc hàng hóa đang là đối tượng bị tranh chấp thì có quyền tạm ngừng thanh tóan cho đến khi việc tranh chấp được giải quyết; 3) Bên mua có bằng chứng về việc bên bán đã giao hàng không phù hợp với hợp đồng thì có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi bên bán đã khắc phục sự không phù hợp đó. 1.5. Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa: Quy định về mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là một hoạt động thương mại mới được bổ sung tại Luật Thương mại 2005. Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là một hoạt động phổ biến trong thực tiễn thương mại quốc tế nhằm bảo hiểm các rủi ro do việc biến động giá cả trên thị trường. Vì vậy, hoạt động này có tác dụng tích cực đến hoạt động mua bán những hàng hóa mà giá cả thường có những biến động lớn, nhằm thúc đẩy việc hình thành và phát triển thị trường buôn bán nông sản một cách ổn định. Trong thực tiễn thương mại Việt Nam hiện nay, nhu cầu của việc thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa đã bắt đầu xuất hiện đòi hỏi cần phải có quy định của pháp luật điều chỉnh. Tuy nhiên, đây là một hoạt động mới, có tính chất tương đối phức tạp nên các hoạt động này cần được quy định tại các văn bản dưới luật phù hợp với điều kiện thực tế. Một số quy định thêm cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được đề cập thành một phần riêng phía dưới. 2. Hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại: Đây là một trong các chế định mới được bổ sung vào Luật Thương mại nhằm xây dựng khung pháp lý chung cho thương mại dịch vụ. 2.1. Khái quát về hoạt động cung ứng dịch vụ thương mại: 2.1.1.Khái niệm về cung ứng dịch vụ thương mại: Đây là một vấn đề còn chưa được định nghĩa chính thức trong pháp luật thương mại của các nước và quốc tế. Trong các hiệp định của WTO cũng chỉ đưa ra bốn phương thức cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên, có thể hiểu dịch vụ là sự thực hiện những công việc nhất định, đáp ứng nhu cầu người sử dụng và được trả thù lao cho việc thực hiện những công việc đó. Thương mại dịch vụ là sự cung cấp dịch vụ thông qua các phương thức khác nhau để đổi lấy tiền công trả cho sự cung cấp dịch vụ đó. Luật Thương mại đã có những quy định cơ bản về quyền cung ứng và quyền sử dụng dịch vụ của thương nhân được xây dựng trên cơ sở những phương thức cung ứng dịch vụ phù hợp với quy định về thương mại dịch vụ của các hiệp định thương mại song phương (BTA) và Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO). 2.1.2.Các loại hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại: WTO phân loại dịch vụ thành caùc ngành: 1) Dịch vụ kinh doanh, bao gồm các dịch vụ nghề nghiệp như pháp lý, kế toán, kiểm toán, kiến trúc, tư vấn, cho thuê, quảng cáo, dịch vụ kỹ thuật…; 2) Dịch vụ liên lạc, bao gồm các dịch vụ bưu chính viễn thông, nghe nhìn…; 3) Dịch vụ xây dựng; 4) Dịch vụ phân phối, bao gồm đại lý hoa hồng, đại lý mượn danh; 5) Các dịch vụ tài chính 6) Môi trường, 7) Giáo dục 8) Vận tải 9) Du lịch 10) Giải trí 11) Y teá 12) Và các dịch vụ khác bao gồm các dịch vụ chưa được liệt kê ở trên. Nghiên cứu việc phân loại này của WTO, có thể thấy các hành vi thương mại dịch vụ ở đây bao gồm 2 nhóm: Các dịch vụ thương mại hỗ trợ trực tiếp cho hoạt động sản xuất, kinh doanh như đại lý, quảng cáo, dịch vụ kỹ thuật… Các dịch vụ kinh doanh không gắn liền với mua bán hàng hóa như: dịch vụ tài chính, du lịch giải trí, liên lạc, y tế, giáo dục, dịch vụ xây dựng… Luật Thương mại 2005 đề cập đến các hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại cụ thể là: Hợp đồng dịch vụ khuyến mại; Hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại; Hợp đồng dịch vụ trưng bày giới thiệu hàng hóa, dịch vụ; Hợp đồng đại diện cho thương nhân; Hợp đồng ủy thác; Hợp đồng đại lý; Hợp đồng gia công; Hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hóa; Hợp đồng dịch vụ quá cảnh; Hợp đồng nhượng quyền thương mại. Đương nhiên, trong thực tế còn có nhiều loại hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại khác trong các hoạt động tư vấn, vận tải, tài chính, bưu chính viễn thông, du lịch, giáo dục, giải trí… Việc xác lập và thực hiện các quan hệ thương mại trong các hoạt động này cũng phải thực hiện những quy định về hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại của Luật Thương mại. 2.2. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng cung ứng dịch vụ: Luật Thương mại có những quy định chung đối với mọi loại hợp đồng dịch vụ được giao kết trong hoạt động thương mại nhằm tạo sự đồng bộ cho hệ thống pháp luật về hợp đồng của Việt nam, khắc phục thực tế là cho dù đã có một số luật chuyên ngành điều chỉnh về hợp đồng dịch vụ nhưng cũng chưa bao hàm hết các lĩnh vực dịch vụ trên thị trường. Trường hợp luật chuyên ngành về dịch vụ như pháp luật về kinh doanh bảo hiểm, hàng hải, du lịch, bưu chính viễn thông… có quy định riêng biệt về hợp đồng thì sẽ ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành đó như nguyên tắc áp dụng luật đã được quy định tại Điều 4 của Luật Thương mại. Trường hợp hoạt động cung ứng dịch vụ chưa có luật chuyên ngành điều chỉnh thì quan hệ hợp đồng trong những hoạt động cung ứng dịch vụ đó sẽ chịu sự điều chỉnh bởi quy định về hợp đồng dịch vụ trong Luật Thương mại. Một số quy định cơ bản mới được bổ sung liên quan đến quyền và nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ và của khách hàng. Ngoài những quy định chung về nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ, Luật Thương mại còn đưa ra các quy định đặc thù về nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ tùy theo tính chất của loại dịch vụ là dịch vụ theo kết quả công việc hay dịch vụ theo nỗ lực cao nhất của bên cung ứng dịch vụ. Một số chế định về nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ như nghĩa vụ hợp tác giữa các bên cung ứng dịch vụ, thời hạn hòan thành dịch vụ trong trường hợp không có thỏa thuận, sự thay đổi của khách hàng về yêu cầu trong quá trình cung ứng dịch vụ đã được quy định cụ thể. Ngoài ra, giá dịch vụ và thanh toán trong trường hợp các bên không có thỏa thuận cụ thể khác cũng được quy định tại Điều 86.Luật Thương mại, 2.2.1 Quyền và nghĩa vụ cụ thể của bên cung ứng dịch vụ: Bên cung ứng dịch vụ có các nghĩa vụ chủ yếu như sau: 1) Cung ứng các dịch vụ và thực hiện những công việc có liên quan một cách đầy đủ, phù hợp với thỏa thuận và theo quy định của Luật; 2) Bảo quản và giao lại cho khách hàng tài liệu và phương tiện được giao để thực hiện dịch vụ sau khi hoàn thành công việc; 3) Thông báo ngay cho khách hàng trong trường hợp thông tin, tài liệu không đầy đủ, phương tiện không bảo đảm để hoàn thành việc cung ứng dịch vụ; 4) Giữ bí mật về thông tin mà mình biết được trong quá trình cung ứng dịch vụ nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Liên quan đến thời hạn hoàn thành dịch vụ, bên cung ứng dịch vụ phải hòan thành dịch vụ đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng (Điều 82 Luật Thương mại) Trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn hoàn thành dịch vụ thì bên cung ứng dịch vụ phải hoàn thành dịch vụ trong một thời hạn hợp lý trên cơ sở tính đến tất cả các điều kiện và hòan cảnh mà bên cung ứng dịch vụ biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng, bao gồm bất kỳ nhu cầu cụ thể nào của khách hàng có liên quan đến thời gian hoàn thành dịch vụ. Trường hợp một dịch vụ chỉ có thể được hoàn thành khi khách hàng hoặc bên cung ứng dịch vụ khác đáp ứng các điều kiện nhất định thì bên cung ứng dịch vụ đó không có nghĩa vụ hoàn thành dịch vụ của mình cho đến khi các điều kiện đó được đáp ứng. 2.2.2. Quyền và nghĩa vụ cụ thể của bên tiếp nhận dịch vụ (khách hàng): Khách hàng có quyền yêu cầu bên cung ứng dịch vụ trao đổi thông tin về tiến độ công việc và các yêu cầu có liên quan đến việc cung ứng dịch vụ, cung ứng dịch vụ vào thời gian và theo phương thức phù hợp; Trong quá trình cung ứng dịch vụ, khách hàng có quyền yêu cầu bên cung ứng dịch vụ phải tuân thủ những yêu cầu hợp lý của nình liên quan đến những thay đổi trong quá trình cung ứng dịch vụ. Các nghĩa vụ cơ bản của bên tiếp nhận dịch vụ theo Điều 85 Luaät Thöông Maïi).là: +Thanh toán tiền cung ứng dịch vụ như đã thỏa thuận trong hợp đồng; + Cung cấp kịp thời các kế hoạch, chỉ dẫn và những chi tiết khác để việc cung ứng dịch vụ được thực hiện không bị trì hoãn hay gián đoạn; + Hợp tác trong tất cả những vấn đề cần thiết khác để bên cung ứng có thể cung ứng dịch vụ một cách thích hợp; + Điều phối hoạt động của các bên cung ứng dịch vụ để không gây cản trở đến công việc của bất kỳ bên cung ứng dịch vụ nào trong trường hợp một dịch vụ do nhiều bên cung ứng dịch vụ cùng tiến hành hoặc phối hợp với bên cung ứng dịch vụ khác. IV. HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ: 1. Khái niệm và luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: 1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: Ở Việt Nam, lần đầu tiên Luật Thương mại 2005 đề cập đến hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại Điều 27, theo đó “hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tái nhập và chuyển khẩu”. Như vậy, có thể thấy rằng đã có một khái niệm thống nhất về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Luật Thương mại đưa ra các khái niệm về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tái nhập và chuyển khẩu. 1.2. Luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là một hình thức pháp lý của quan hệ thương mại quốc tế, Vì vậy, việc sử dụng pháp luật để điều chỉnh loại hợp đồng này tương đối phức tạp. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể chịu sự điều chỉnh của các nguồn luật khác nhau như các điều ước về mua bán hàng hóa quốc tế, các tập quán quốc tế về thương mại, pháp luật của các quốc gia, tùy từng trường hợp cụ thể. 1.2.1 Điều ước quốc tế: Tính đến nay, Việt Nam đã ký kết hơn 80 Hiệp định Thương mại song phương với các nước khác nhau trên thế giới. Các hiệp định này là cơ sở pháp lý quan trọng đối viớ các hợp đồng mua bán hàng hóa thiết lập giữa các doanh nghiệp của Việt Nam với các doanh nghiệp thuộc các quốc gia ký kết. 1.2.2. Tập quán thương mại quốc tế: Các tập quán được hình thành lâu đời trong các quan hệ thương mại quốc tế, khi được các chủ thể ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chấp nhận sẽ trở thành nguồn luật điều chỉnh đối với các hợp đồng giữa các chủ thể đó với nhau. Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam càng ngày càng áp dụng tập quán quốc tế một cách thường xuyên hơn. 1.2.3. Tiền lệ pháp (án lệ) về thương mại: Trong lĩnh vực thương mại quốc tế, việc công nhận và sử dụng các phán quyết của tòa án cũng như thừa nhận vai trò tích cực của các án lệ đang có xu hướng gia tăng tại các nước có hệ thống pháp luật khác nhau. 1.2.4. Luật quốc gia: Trong thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, bên cạnh các điều ước quốc tế, tập quán thương mại quốc tế và án lệ, luật quốc gia có vai trò quan trọng và trong nhiều trường hợp là nguồn luật chính điều chỉnh các quan hệ hợp đồng. Luật quốc gia trở thành luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong các trường hợp: - Khi các bên ký kết hợp đồng thảo thuận trong điều khoản luật áp dụng của hợp đồng về việc chọn luật của một bên để điều chỉnh hợp đồng. Ví dụ, trong hợp đồng bán màn tuyn giữa một công ty của Việt Nam và một công ty của Pháp có điều khoản: “Mọi vấn đề không được quy định, hoặc quy định chưa đầy đủ trong hợp đồng này sẽ được giải quyết theo luật của Pháp”. - Khi điều khoản về luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được quy định trong các điều ước quốc tế liên quan xác định luật của một quốc gia đương nhiên trở thành luật áp dụng cho các hợp đồng đó. Luật quốc gia áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường là luật của nước bên bán, nhưng cũng có thể là luật của nước bên mua, có thể là luật của nước thứ ba, luật nơi ký hợp đồng, luật của nước mà các bên mang quốc tịch, luật nơi thực hiện hợp đồng. Trong quá trình đàm phán hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế điều khoản luật áp dụng thường được ghi một cách rõ ràng trong hợp đồng để tránh tình trạng khó xác định luật quốc gia điều chỉnh các quan hệ hợp đồng 2. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định của Công ước Viên 1980: Công ước này được ký kết ngày 11/4/1980 tại Viên (Áo). Lúc đầu chỉ có 11 quốc gia thành viên tham gia ký kết. Số lượng các quốc gia phê chuẩn Công ước ngày càng một tăng lên và Công ước Viên là nguồn luật chủ yếu để điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế hiện nay. Công ước bao gồm 101 điều khoản được chia thành bốn phần: Phần 1: Phạm vi áp dụng và các quy định chung. Phần 2: Ký kết hợp đồng. Phần 3: Mua bán hàng hóa. Phần 4: Những quy định cuối cùng. Công ước Viên được áp dụng trước hết đối với các hợp đồng mà các bên tham gia có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau và các quốc gia này đã tham gia Công ước. Công ước Viên chỉ coi trọng nơi đặt trụ sở thương mại chứ không chú ý tới quốc tịch của các bên tham gia hợp đồng. Đối với trường hợp các bên tham gia hợp đồng không có quyền lựa chọn luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng của mình mà bắt buộc áp dụng Công ước. Công ước cũng được áp dụng nếu chỉ có một bân có trụ sở tại nước phê chuẩn Công ước, nhưng quy định xung đột về luật điều chỉnh đã dẫn tới việc áp dụng luật của nước này. Công ước cũng có thể được áp dụng đối với hợp đồng được ký giữa các bên không có trụ sở thương mại tại các nước đã phê chuẩn Công ước nhưng lại thỏa thuận áp dụng nó. Tuy nhiên, Công ước cũng quy định cho phép các bên có thể thỏa thuận, trên cơ sở nguyên tắc tự do hợp đồng là không áp dụng hoặc không áp dụng hoàn toàn một điều khoản nào đó của Công ước. Theo Điều 2, Công ước Viên không áp dụng đối với việc mua bán hàng tiêu dùng cho cá nhân, gia đình hoặc nội trợ; mua hàng bán đấu giá; để thi hành luật hoặc văn kiện ủy thác theo luật; cổ phiếu, cổ phần, chứng khoán đầu tư, các chứng từ lưu thông hoặc tiền tệ; tàu thủy, máy bay và các tàu chạy trên đệm không khí và điện năng. 2.1. Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: Theo quy định của hầu hết các nước theo hệ thống luật án lệ, hợp đồng có thể ký kết dưới hình thức bằng lời nói. Đối với một số nước khác trong đó có Việt Nam, hình thức của hợp đồng nhất thiết phải là văn bản hoặc tài liệu giao dịch. Theo Công ước Viên, lời nói hoặc một hành vi biểu thị sự đồng ý với chào hàng được chấp nhận và có hiệu lực pháp lý đối với các bên (Điều 18 khỏan 1 Công ước). Tuy nhiên, để tránh những sự hiểu lầm không cần thiết, thông thường mọi thỏa thuận cần được ghi thành văn bản, nhất là trong trường hợp mua bán hàng hóa quốc tế, khi các bên thường không có cùng tiếng nói, cùng một hệ thống pháp luật và có trụ sở thương mại ở các quốc gia khác nhau. Công ước đã dành 11 điều (từ Điều 14 – 24) để quy định về việc ký kết hợp đồng, bao gồm các giai đoạn chào hàng, chấp nhận chào hàng và giao kết hợp đồng. Chào hàng là giai đoạn trong đó một bên có “đề nghị về việc ký kết hợp đồng được gửi đích danh cho một hoặc vài người” (Điều 14). Chào hàng có thể là bất kỳ một lời đề nghị nào “đủ rõ ràng” và “chỉ rõ tên hàng hóa, xác định một cách trực tiếp hoặc ngầm định về số lượng và giá cả”. Chào hàng chỉ phát sinh hiệu lực khi nó tới nơi người được chào hàng (Điều 15 Khoản 1). Chào hàng có thể bị hủy nếu thông báo của người chào hàng về việc hủy chào hàng gửi tới người được chào trước hoặc cùng lúc với chào hàng (Điều 15 Khoản 2). Chào hàng sẽ mất hiệu lực khi người chào hàng nhận được thông báo về việc từ chối chào hàng (Điều 17). Chấp nhận chào hàng là giai đoạn tiếp theo, khi người nhận được chào hàng có một lời tuyên bố hay một hành vi khác biểu lộ sự đồng ý với chào hàng. Nếu người nhận được chào hàng nhưng im lặng hoặc không hành động thì không được coi là đã chấp nhận chào hàng (Điều 18 Khoản 1). Người nhận được chào hàng sau khi đã chấp nhận cũng có thể suy xét lại và nếu thấy chào hàng đó không có lợi cho mình thì có thể hủy chấp nhận mà mình đã gửi. Tuy nhiên, việc hủy chấp nhận chào hàng chỉ có thể được chấp nhận nếu thông báo về việc hủy chấp nhận chào hàng tới nơi người chào hàng trước hoặc cùng thời điểm chấp nhận có hiệu lực (Điều 22). Thông báo này sẽ được coi là “tới nơi” khi thông báo này, hoặc bằng lời nói, hoặc được giao bằng bất cứ phương tiện nào cho chính người đã chào hàng tại trụ sở thương mại của họ, tại địa chỉ bưu chính hoặc nơi thường trú nếu không có địa chỉ bưu chính. Nếu bên nhận chào hàng trả lời có khuynh hướng chấp nhận nhưng trong thư trả lời có chứa đựng những điểm bổ sung, bớt đi hay thêm vào hay sửa đổi thì đó được coi là từ chối chào hàng và tạo thành một chào hàng mới. Tuy nhiên nếu những điểm bổ sung, sửa đổi hay đề nghị này không làm biến đổi những điểm cơ bản trong nội dung của chào hàng thì được coi là chấp nhận chào hàng, trừ trường hợp người chào hàng gửi thông báo ngay lập tức thể hiện sự phản đối của mình tới người được chào hàng (người đã có yêu cầu sửa đổi). Những điểm cơ bản trong nội dung của chào hàng là những điểm liên quan đến các điều kiện về giá cả, thanh toán, phẩm chất và số lượng Hàng hóa, địa điểm và thời gian giao hàng, phạm vi trách nhiệm của các bên hay đến giải quyết tranh chấp. Chấp nhận chào hàng chỉ có giá trị nếu nó được gửi đến cho người chào hàng trong thời hạn chấp nhận do người chào hàng quy định có thể bằng bất cứ phương tiện thông tin liện lạc nào, được tính từ lúc bức điện được giao để gửi đi hoặc vào ngày ghi trên bì thư hoặc nếu ngày đó không có thì tính từ ngày bưu điện đóng dấu trên bì thư. Thời hạn để chấp nhận chào hàng do người chào hang quy định, bắt đầu tính từ thời điểm người chào hang nhận được chào hang. Các ngày lễ chính thức hoặc ngày nghỉ việc rơi vào khoảng thời hạn được quy định để chấp nhận chào hàng không được tính để cộng thêm vào thời hạn đó. Tuy nhiên, nếu ngày cuối của thời hạn chấp nhận chào hàng không thể chuyển đến cho người chào hàng thì thời hạn chấp nhận chào hàng sẽ đựơc kéo dài tới ngày làm việc đầu tiên kế tiếp các ngày nghỉ đó (Điều 20) Giao kết hợp đồng: Hợp đồng được coi là được giao kết kể từ thời điểm sự chấp nhận chào hàng có hiệu lực (Điều 23). Bắt đầu từ thời điểm này các bên có những quyền và nghĩa vụ được quy định trong hợp đồng. 2.2. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng 2.2.1. Quyền và nghĩa vụ của bên bán Nghĩa vụ giao hàng và chuyển giao chứng từ lieân quan đến hàng hóa. Bên bán có nghĩa vụ giao hàng và các chứng từ lien quan đến hàng hóa cho bên mua theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng về thời gian. Đó là htời điểm mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng hoặc nếu không thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng thì có thể căn cứ vào hợp đồng để xác định được. Nếu các bên không thỏa thuận một thời điểm cụ thể mà thỏa thuận một khoảng thời gian thì bên bán được coi là giao hàng đúng thời hạn nếu hàng được giao vào bất kỳ một thời điểm nào trong khoảng thời gian đó. Ngoài các trường hợp trên, bên bán được giao hàng vào một thời hạn hợp lý sau khi hợp đồng được ký kết (Điều 33). Bên bán có nghĩa vụ giao hàng đúng số lượng chất lượng, quy cách phẩm chất như mô tả trong hợp đồng. Hàng hóa được coi là không phù hợp với hợp đồng nếu hàng hóa không thích hợp với mục đích sử dụng mà các hàng hóa cùng loại thường đáp ứng hoặc không thích hợp cho bất kỳ mục đích cụ thể nào mà bên bán đã biết vào lúc ký kết hợp đồng hoặc hàng không có các tính chất của hàng mẫu hay kiểu dáng mà bên bán đã cung cấp cho bên mua và hàng không được đóng gói theo cách thông thường cho những hàng hóa cùng loại hoặc theo cách thích hợp để có thể bảo vệ hàng hóa đó (Điều 35). Bên bán có nghĩa vụ giao cho bên mua hàng hóa không bị ràng buộc bởi bất cứ quyền hạn hay yêu sách nào của người thứ ba trên cơ sở quyền sở hữu công nghiệp hoặc sở hữu trí tuệ khác (Điều 41). Bên bán có nghĩa vụ giao hàng đúng số lượng, chất lượng, quy cách phẩm chất và điều kiện giao hàng tại địa điểm quy định. Nếu các bên không thỏa thuận về địa điểm giao hàng thì bên bán phải giao hàng theo quy định tại Điều 31 Công ước như sau: + Nếu hợp đồng mua bán quy định cả việc vận chuyển hàng hóa thì bên bán phải giao hàng cho người chuyên chở đầu tiên để chuyển giao cho bên mua. + Nếu hàng hóa là hàng đặc định hoặc hàng được chế tạo theo một phương thức đặc biệt mà địa điểm giao hàng không thuộc phạm vi quy định trên thì bên bán có nghĩa vụ đặt hàng dưới sự định đoạt của bên mua tại nơi sản xuất. +Trong các trường hợp khác, bên ban có nghĩa vụ đặt hàng dưới sự định đoạt của bên mua tại nơi bên bán có trụ sở thưong mại tại thời điểm ký kết hợp đồng. Bên bán có quyền được thanh toán theo những quy định trong hợp đồng. Trong trường hợp bên mua vi phạm nghĩa vụ của mình thì bên bán có quyền thực hiện những biện pháp bảo hộ pháp lý theo quy định tại Công ước. Đó là: + Yêu cầu bên mua nhận hàng, thanh toán tiền hàng và thực hiện các nghĩa vụ khác của bên mua (Điều 62 Công ước); + Cho phép bên mua một thời gian để bổ sung thực hiện các nghĩa vụ chưa hoàn chỉnh (Điều 63); + Tuyên bố hủy bỏ hợp đồng trong một số trường hợp Công ước quy định (Điều 64 Công ước); + Yêu cầu bồi thường thiệt hại (Điều 74 Công ước); + Yêu cầu trả lãi khi bên mua chậm thanh toán (Điều 78 Công ước). 2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của bên mua Theo quy định tại Điều 53 Công ước, bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng và nhận hàng theo quy định của hợp đồng và của Công ước. Bên mua có nghĩa vụ trả tiền vào ngày thanh toán đã quy định hoặc có thể được xác định theo hợp đồng hoặc theo Công ước mà không cần có yêu cầu hoặc việc thực hiện một thủ tục nào về phía bên bán (Điều 59 Công ước). Nghĩa vụ thanh toán tiền hàng của bên mua bao gồm việc áp dụng các biện pháp và tuân thủ các biện pháp mà hợp đồng hoặc luật lệ đòi hỏi để thực hiện được thanh toán tiền hàng tại điểm nhất định. Nếu hợp đồng không quy định cụ thể đại điểm trả tiền thì địa điểm trả tiền sẽ là nơi bên bán có trụ sở thương mại hoặc nơi giao hàng hoặc giao chứng từ. Nếu trong hợp đồng không quy định thời hạn thanh toán tiền thì bên mua phải trả tiền khi bên bán đặt hàng hóa hoặc chứng từ nhận hàng dưới sự định đoạt của bên mua. Nghĩa vụ nhận hàng của bên mua bao gồm việc thực hiện mọi hành vi tạo điều kiện cho bên bán giao hàng và tiếp nhận hàng hóa (Điều 60) theo đúng quy định trong hợp đồng và Công ước. Khi bên bán vi phạm nghĩa vụ của mình thì bên mua có quyền thực hiện một số biện pháp để bảo vệ lợi ích của mình như: + Yêu cầu bên bán thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng; Đó có thể là việc cung cấp hàng hóa đúng với thỏa thuận trong hợp đồng (nếu hàng hóa chưa phù hợp) hoặc tiếp tục bổ sung hàng hóa (nếu còn thiếu về số lượng) hoặc sửa chữa hay đổi hàng mới (nếu hàng hóa được cung cấp có khuyết tật). + Nếu hàng hóa không phù hợp với hợp đồng thì bên mua có quyền yêu cầu bên bán giao hàng thay thế hoặc sửa chữa sự không phù hợp ấy. Trong trường hợp này, bên mua có thể cho phép bên bán có thêm một thời hạn nhất định để thực hiện sự sửa chữa ấy (Điều 46). + Nếu bên bán không đảm bảo được thời hạn giao hàng thì bên mua có thể cho phép bên bán thêm một thời hạn nhất định để thực hiện hợp đồng (Điều 47). + Tuyên bố hủy hợp đồng nếu trong những trường hợp bên bán không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng tạo thành một vi phạm cơ bản hợp đồng hoặc khi bên bán không giao hàng trong thời hạn bên mua gia hạn thêm hoặc bên bán tuyên bố sẽ không giao hàng trong thời hạn bổ sung này (Điều 49). V. TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ TRONG KINH DOANH – THƯƠNG MẠI Các hình thức trách nhiệm Trong quá trình tiến hành các hành vi thương mại, vì dụ như thực hiện một hợp đồng đã giao kết, khi một bên có hành vi vi phạm sẽ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi. Luật Thương mại (Mục1, Chương VII) đã quy định bên vi phạm phải chịu trách nhiệm về những hành vi vi phạm các thỏa thuận giữa các bên chủ thể. Các hình thức chế tài thương mại theo quy định tại Điều 292 Luật Thương mại,là: Buộc thực hiện đúng hợp đồng , phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại, tạm thực hiện đúng hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng. 1.1.Buộc thực hiện đúng hợp đồng - Khi một bên trong hợp đồng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ quy định trong hợp đồng thì bên có quyền lợi bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc áp dụng biện pháp khác để hợp đồng thực hiện và bên vi phạm phải chịu phí tổn phát sinh (Điều 297 Luật Thương mại). Thông thường, đây là biện pháp được ưu tiên áp dụng trước khi áp dụng các biện pháp khác. Chế tài này áp dụng trong trường hợp: - Khi bên vi phạm giao thiếu hàng hoặc cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng thì phải giao đủ hàng hoặc cung ứng dịch vụ theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng. Trường hợp bên vi phạm giao hàng hóa, cung ứng dịch vụ kém chất lượng thì phải loại trừ khuyết tật của hàng hóa, thiếu sót của dịch vụ hoặc giao hàng khác thay thế, cung ứng dịch vụ theo hợp đồng. Bên vi phạm không duøng tiền hoặc hàng khác chủng loại, loại dịch vụ khác để thay thế nếu không được sự chấp thuận của bên bị vi phạm. - Khi bên vi phạm không thực hiện theo quy định nêu trên thì bên bị vi phạm có quyền mua hàng, nhận cung ứng dịch vụ của người khác để thay thế theo đúng loại hàng hóa, dịch vụ ghi trong hợp đồng và bên vi phạm phải trả khoản tiền chênh lệch và các chi phí liên quan nếu có; có quyền tự sửa chữa khuyết tật của hàng hóa, thiếu sót của dịch vụ và bên vi phạm phải trả các chi phí thực tế hợp lý. - Bên bị vi phạm phải nhận hàng, nhận dịch vụ và thanh toán tiền hàng, thù lao dịch vụ, nếu bên vi phạm đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. 1.2. Phạt vi phạm Điều 300 Luật Thương mại quy định “Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm theo quy định của Luật Thương mại”. Các bên có thể thỏa thuận mức phạt đối với một vi phạm hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm (Điều 301 Luật Thương mại). 1.3. Buộc bồi thường thiệt hại Bồi thường thiệt hại là việc buộc bên vi phạm trả tiền bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm (Điều 300,301 Luaät Thöông Maïi). Các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm: - Hành vi vi phạm hợp đồng: Tất cả những hành vi không theo đúng cam kết trong hợp đồng đều bị coi là vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, không phải tất cả những hành vi ấy đều dẫn đến việc áp dụng hình thức trách nhiệm pháp lý bồi thường thiệt hại. Chỉ những hành vi nào trực tiếp dẫn đến những thiệt hại vật chất mà bên kia phải gánh chịu mới tạo thành cơ sở của hình thức bồi thường thiệt hại. - Có thiệt hại thực tế: Những thiệt hại phải là thiệt hại về vật chất và là những thiệt hại thực tế, tức là phải có thể tính toán và chứng minh được chứ không phải do suy diễn mà có. Thiệt hại về khoản đáng lẽ thu được nhưng bị bỏ lỡ là những khoản thu đã được dữ liệu khi ký kết hợp đồng hay ít ra là từ trước khi có hành vi vi phạm. Bên có thiệt hại có nghĩa vụ phải chứng minh có tổn thất và mức độ tổn thất (Điều 304 Luật Thương mai). - Mối quan hệ trực tiếp giữa hành vi vi phạm hợp đồng của một bên và thiệt hại vật chất của bên kia. Hành vi vi phạm hợp đồng của một bên là nguyên nhân trực tiếp và cơ bản dẫn đến thiệt hại của bên kia và thiệt hại này là kết quả không thể trách khỏi của hành vi vi phạm hợp đồng. Bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài buộc bồi thường thiệt hại và chế tài phạt vi phạm nếu các bên có thỏa thuận trước đó về phạt vi phạm. 1.4. Tạm ngừng thực hiện hợp đồng Đây là một chế tài mới quy định tại Luật Thương mại, theo đó một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau: 1) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để tạm ngừng thực hiện hợp đồng; 2) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Khi hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng đó vẫn còn hiệu lực. Trong khi đó bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật Thương mại. 1.5. Đình chỉ thực hiện hợp đồng Là một chế tài mới quy định tại Luật Thương mại, đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau: 1) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên thỏa thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng; 2) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Trong trường hợp một hợp đồng bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng chấm dứt từ thời điểm một bên nhận được thông báo đình chỉ. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng nữa. Bên đã thực hiện nghĩa vụ đối ứng. Bên bị vi phạm vẫn có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật Thương mại. 1.6. Hủy hợp đồng Điều 312 Luật Thương mại quy định, bên có quyền lợi bị vi phạm có quyền tuyên bố hủy hợp đồng nếu vi phạm của bên kia là điều kiện để hủy hợp đồng mà các bên thỏa thuận. Đây là một quy định mới so với Pháp lệnh hợp ñồng kinh tế 1989 về các trường hợp áp dụng chế tài hủy hợp đồng. Chế tài hủy hợp đồng mua bán hàng hóa do các bên thỏa thuận và cần phải ghi vào hợp đồng trong điều khoản: “điều kiện hủy hợp đồng”. Chế tài hủy hợp đồng còn được áp dụng trong các trường hợp một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Hủy bỏ hợp đồng bao gồm hủy bỏ tòan bộ hợp đồng và hủy bỏ một phần hợp đồng. Việc hủy hợp đồng sẽ dẫn tới các hậu quả pháp lý sau: Các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng. Hợp đồng bị hủy sẽ không còn hiệu lực kể từ thời điểm giao kết. Mỗi bên có quyền đòi hỏi lại lợi ích cho việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng. Nếu do việc hủy hợp đồng mà các bên đều có nghĩa vụ bồi hòan thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời. Nếu không thể hoàn trả được bằng chính lợi ích nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền. Quyền đòi bồi thường thiệt hại do hủy hợp đồng thuộc về bên bị vi phạm (Điều 314 Luật Thương mại). 2. Các trường hợp miễn trách nhiệm Điều 294 Luật Thương mại quy định trong một số trường hợp bên vi phạm được miễn trách nhiệm. Cụ thể bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây: Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận; Xảy ra sự kiện bất khả kháng; Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi ở bên kia; Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. Bên vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp mình được miễn trách nhiệm.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLDOCS (141).doc
Tài liệu liên quan