Đối với quyền tư pháp
- Hoàn thiện cơ chế hợp lý để Tòa án cấp
dưới phải tuân thủ quyết định giám đốc thẩm nên
được thiết lập trên cơ sở quy định trách nhiệm
bồi thường của Tòa án nhân dân cấp dưới nếu
bản án của họ bị hủy bởi quyết định giám đốc
thẩm. Trách nhiệm bồi thường này không chỉ
được xác định đối với việc xét xử vụ án hình sự
mà còn đối với việc xét xử vụ án dân sự, lao
động, kinh tế và hành chính.
- Cần có quy định cụ thể yêu cầu về nội
dung đối với quyết định giám đốc thẩm và các
bản án của Tòa án. Quyết định giám đốc thẩm
phải giải thích cụ thể về vấn đề pháp luật có
liên quan tới vụ án và các bản án của Tòa án
phải xác định đúng vấn đề giải quyết của vụ
án và đưa ra lời giải đáp một cách cặn kẽ và
thuyết phục.
- Nghiên cứu hoàn thiện khung khổ pháp lý
về kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện quyền tư pháp theo hướng mở
rộng nghĩa vụ công khai bản án và hồ sơ vụ án để
làm cơ sở cho các cơ quan nhà nước khác và báo
chí, người dân giám sát xét xử một cách chính
xác, thực chất và hiệu quả. Đồng thời, việc công
khai bản án cùng với yêu cầu về nội dung của
bản án sẽ là cơ sở để Quốc hội, Uỷ ban thường vụ
Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của
Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp tiến
hành kiểm soát hoạt động xét xử một cách khách
quan, công bằng và hiệu quả.
- Nâng cao tính minh bạch trong hoạt động
của Tòa án: một là, cần phải minh bạch hóa việc
xác lập chứng cứ; hai là, thủ tục công bố án lệ
cần được minh bạch hóa.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 358 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và một số kiến nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá 4/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
3
CAÛI CAÙCH - TÖ PHAÙP
PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
GIỮA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC THỰC HIỆN
QUYỀN LẬP PHÁP, HÀNH PHÁP VÀ TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY -
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Trịnh Đức Thảo1
Tóm tắt: Pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước là công cụ,
phương tiện để bảo đảm hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước có hiệu quả. Bài viết phân tích
một số vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng và kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát
quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp ở Việt Nam hiện nay
Từ khóa: kiểm soát quyền lực; quyền lực nhà nước; pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước;
kiểm soát quyền lực nhà nước.
Nhận bài: 05/05/2018; Hoàn thành biên tập: 13/06/2018; Duyệt đăng: 24/07/2018
Abstract: the Law on controlling state power between state agencies is the tool, measure to
ensure the effectiveness of controlling state power. The article analyzes some reasoning matters,
assesses reality and suggests solutions of finalizing law on controlling power state between state
agencies in implementation of legislative, executive and judicial rights in Vietnam nowadays.
Keywords: controlling power; state power; the law on controlling state power; controlling state
power.
Date of receipt: 05/05/2018; Date of revision: 13/06/2018; Date of approval: 24/07/2018
1. Khái niệm, nội dung và vai trò của pháp
luật về kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp
Kiểm soát quyền lực nhà nước là việc đánh
giá, xem xét, theo dõi nhằm ngăn chặn những
hành vi vi phạm pháp luật của các chủ thể thực
hiện quyền lực nhà nước. Có ý kiến nhấn mạnh
đến mục đích của kiểm soát quyền lực nhà nước
cho rằng kiểm soát quyền lực nhà nước là hoạt
động nhằm ngăn ngừa hay “loại bỏ những nguy
cơ, những việc làm sai trái của Nhà nước, cơ
quan, nhân viên nhà nước trong việc tổ chức và
thực hiện quyền lực nhà nước, bảo đảm cho
quyền lực nhà nước được tổ chức và thực hiện
đúng Hiến pháp, pháp luật, đạt được mục đích
mong muốn”2. Ý kiến khác cho rằng kiểm soát
quyền lực nhà nước là nhằm “khắc phục sự tha
hóa quyền lực nhà nước, đưa quyền lực nhà nước
trở về với đúng nghĩa của nó là quyền lực của
nhân dân”3. Từ những phân tích trên có thể hiểu:
kiểm soát quyền lực nhà nước là toàn bộ những
cách thức, biện pháp trên cơ sở pháp luật các
chủ thể ngăn chặn, loại bỏ những hành vi sai trái
của các thiết chế thực hiện quyền lực nhà nước;
nhằm phát hiện và điều chỉnh được việc thực thi
quyền lực nhà nước; bảo đảm cho quyền lực nhà
nước được sử dụng và thực thi đúng mục đích và
đạt được hiệu quả cao.
Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật phải
luôn được các chủ thể tôn trọng và thực hiện một
cách triệt để. Nhà nước ban hành pháp luật, sử
dụng pháp luật như là công cụ để quản lý xã hội;
tuy nhiên, mọi hoạt động của các cơ quan nhà
nước, cán bộ, công chức đều phải tuân theo pháp
luật. Hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước
1 Phó Giáo sư, Tiến sỹ, Giảng viên cao cấp, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
2 Nguyễn Minh Đoan (chủ biên), (2016), Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước
ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. tr35
3 Trần Ngọc Đường (2012), Một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr88
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
4
cũng phải được điều chỉnh bởi pháp luật mới đạt
hiệu quả cao. Có thể hiểu pháp luật về kiểm soát
quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước
là tổng thể các quy phạm pháp luật, có mối liên
hệ chặt chẽ, thống nhất; điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong hoạt động kiểm soát quyền
lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp; do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành theo trình tự, thủ tục luật định; được
biểu hiện thông qua hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật nhằm đạt được mục tiêu của
kiểm soát quyền lực nhà nước.
Về nội dung, pháp luật về kiểm soát quyền
lực nhà nước có các nhóm quy định các nguyên
tắc kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ
quan nhà nước; xác lập địa vị pháp lý của các chủ
thể cũng như đối tượng của kiểm soát quyền lực
nhà nước; đồng thời, xác định phạm vi, hình
thức, phương pháp, trình tự, thủ tục và hậu quả
pháp lý của kiểm soát quyền lực nhà nước giữa
các cơ quan nhà nước; được biểu hiện trong các
văn bản quy phạm pháp luật.
Về hình thức, pháp luật về kiểm soát quyền
lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước được
biểu hiện trong hệ thống các văn bản pháp luật,
sắp xếp theo một trật tự pháp lý từ Hiến pháp, Bộ
luật, Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết, Nghị định,
Quyết định, Chỉ thị, Thông tư liên quan đến việc
thực hiện quyền lực nhà nước và kiểm soát việc
thực hiện quyền lực nhà nước; quy định, ràng
buộc hành vi của các chủ thể và đối tượng liên
quan đến kiểm soát quyền lực nhà nước. Trong
hệ thống các văn bản pháp luật đó Hiến pháp có
giá trị hiệu lực pháp lý cao nhất. Hiếp pháp kiến
tạo nên mô hình, cơ chế pháp lý kiểm soát quyền
lực nhà nước, quy định những nguyên tắc nền
tảng, địa vị pháp lý của các chủ thể kiểm soát
quyền lực nhà nước. Vì vậy, hoàn thiện pháp luật
về kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ
quan nhà nước cần và phải chú ý đến việc bổ
sung, sửa đổi các quy định trong Hiến pháp;
đồng thời, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp
liên quan đến kiểm soát quyền lực nhà nước.
Pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước
giữa các cơ quan nhà nước có vai trò quan trọng.
Trước hết, pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà
nước thể chế hóa quan điểm, chủ trương của
Đảng về kiểm soát quyền lực nhà nước; bảo đảm
quyền lực nhà nước vận hành hiệu quả, mạnh
mẽ, chính đáng, đúng mục đích, phục vụ nhân
dân tốt hơn. Quyền lực nhà nước là quyền lực
công, phục vụ cho lợi ích chung, bao gồm lợi ích
của giai cấp thống trị và các giai cấp khác và toàn
bộ xã hội. Pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà
nước là phương thức bảo đảm các quyền con
người, quyền công dân. Pháp luật về kiểm soát
quyền lực nhà nước là biện pháp để giới hạn
phạm vi hoạt động của quyền lực nhà nước, làm
cho quyền lực nhà nước vận hành trong khuôn
khổ nhất định theo nguyên tắc công dân được
làm những gì mà pháp luật không cấm, cán bộ,
công chức, viên chức nhà nước được làm những
gì mà pháp luật cho phép. Theo tinh thần đó,
kiểm soát quyền lực nhà nước bảo đảm cho Nhà
nước hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Pháp
luật được coi là “cái lồng” để “nhốt” quyền lực
nhà nước. Từ đó, Nhà nước hoạt động trong
phạm vi, chức năng nhiệm vụ của mình mà
không xâm phạm, can thiệp đến các quyền con
người, quyền công dân.
2. Thực trạng pháp luật về kiểm soát
quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp ở Việt Nam hiện nay
Theo nội dung và tinh thần của Hiến pháp
năm 2013 về phân công, phối hợp và kiểm soát
việc thực hiện quyền lực nhà nước, thực trạng
pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Việt Nam hiện
nay có thể chia thành bộ phận như: quy định
pháp luật kiểm soát việc thực hiện quyền lập
hiến, lập pháp; quy định pháp luật kiểm soát việc
thực hiện quyền hành pháp; quy định pháp luật
kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp.
* Quy định pháp luật kiểm soát quyền lực
nhà nước trong việc thực hiện quyền lập hiến,
lập pháp: Hiến pháp và pháp luật xác định đối
tượng của kiểm soát quyền lập pháp là kiểm soát
“thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp”, “làm
luật và sửa đổi luật”, ghi nhận nguyên tắc xác
Soá 4/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
5
định phạm vi quyền lập pháp như nguyên tắc giới
hạn quyền con người, quyền công dân phải do
luật định, việc thực hiện một số quyền con người,
quyền công dân, quyền bầu cử, ứng cử, thành
lập, điều chỉnh địa giới hành chính phải do luật
định. Pháp luật giới hạn phạm vi quyền lập pháp
bằng quy định thẩm quyền ban hành văn bản quy
phạm pháp luật của các chủ thể khác ngoài Quốc
hội như thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm
pháp luật của Chính phủ (Điều 96, Điều 100
Hiến pháp năm 2013), thẩm quyền ban hành văn
bản quy phạm pháp luật của Chính quyền địa
phương (Điều 112 Hiến pháp năm 2013). Pháp
luật quy định về lập pháp ủy quyền (thẩm quyền
ban hành pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc,
thẩm quyền ban bành văn bản của Chính phủ,
các cơ quan nhà nước khác và chính quyền
địa phương)
Bên cạnh những kết quả đạt được trên đây,
thực trạng pháp luật về kiểm soát việc thực hiện
quyền lập hiến, lập pháp còn nhiều bất cập:
Việc kiểm soát thực hiện quyền lập hiến,
kiểm soát việc thực hiện quyền lập hiến ở nước
ta không giao cho một cơ quan chuyên trách, độc
lập. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và
pháp luật hiện hành trách nhiệm bảo hiến thuộc
về Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện
kiểm sát nhân dân, các cơ quan nhà nước khác
và công dân. Tuy nhiên việc bảo hiến được giao
cho nhiều cơ quan dẫn đến tình trạng né tránh
trách nhiệm, hay tâm lý “cha chung không ai
khóc” làm cho nhiệm vụ bảo hiến kém hiệu quả.
Nội dung bảo hiến còn bị hạn chế, mới chỉ tập
trung vào việc giám sát tính hợp hiến của các văn
bản luật mà chưa bao hàm các văn bản dưới luật.
Quy trình, thủ tục, trình tự và phương thức hoạt
động bảo hiến còn chưa đầy đủ, cụ thể nên việc
xem xét hành vi bị cho là vi hiến hay văn bản
pháp luật bị cho là trái Hiến pháp không hiệu
quả. Đến nay thiết chế chuyên trách bảo vệ Hiến
pháp vẫn chưa được thiết lập theo tinh thần mà
Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã khẳng định:
“Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm
Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp
và tư pháp”. Theo đó, hoạt động lập pháp của
Quốc hội vẫn nằm ngoài cơ chế pháp lý kiểm
soát quyền lực nhà nước
Các quy định pháp luật về kiểm soát Quốc
hội trong thực hiện quyền lập hiến và lập pháp
có những bất cập, hạn chế. Quốc hội tự kiểm soát
hoạt động của Quốc hội và các cơ quan thuộc
Quốc hội về tính hợp hiến của các dự án luật
trước khi Quốc hội thảo luận, thông qua (tiền
kiểm) nhưng Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc
hội hiện hành không quy định rõ cơ chế, quy
trình để Quốc hội tự xem xét lại tính hợp hiến
của các đạo luật. Pháp luật cũng chưa quy định
cụ thể về cách giải quyết, trách nhiệm của cơ
quan thẩm tra, thẩm định và cơ quan trình dự án
luật về tính hợp hiến của các dự án luật, pháp
lệnh, nghị quyết trong trường hợp có ý kiến khác
nhau về tính hợp hiến giữa Ủy ban pháp luật của
Quốc hội với cơ quan trình dự án. Hiến pháp và
pháp luật không quy định Quốc hội có thẩm
quyền bãi bỏ những đạo luật có dấu hiệu trái
Hiến pháp. Ủy ban pháp luật của Quốc hội có
thẩm quyền xem xét các kiến nghị của các cơ
quan hữu quan về những văn bản có dấu hiệu trái
Hiến pháp (Điều 70, Luật Tổ chức Quốc hội năm
2014) nhưng không nói rõ văn bản đó có bao
gồm luật của Quốc hội không. Điều 15 Luật Tổ
chức Quốc hội quy định Quốc hội chỉ có thẩm
quyền bãi bỏ văn bản của Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ,
Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ
quan khác do Quốc hội thành lập khi các văn bản
đó trái với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc
hội theo đề nghị của các chủ thể có thẩm quyền.
Như vậy, cho đến nay, chưa có quy định nào về
nhiệm vụ, quyền hạn, cơ chế kiểm tra, phát hiện
và xử lý các đạo luật đã ban hành có dấu hiệu vi
phạm Hiến pháp kể cả từ phía các cơ quan nhà
nước khác lẫn tự kiểm soát của Quốc hội4.
Một số quy định pháp luật về kiểm soát việc
thực hiện quyền lập pháp Quốc hội chưa bảo đảm
tính đồng bộ, thống nhất mà còn nhiều mâu
thuẫn. Khoản 3, Điều 2 của Hiến pháp ghi nhận
nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước là
4 Nguyễn Minh Đoan (chủ biên), (2016), Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước
ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.113
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
6
“có sựkiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp”. Tuy nhiên Điều 94 của Hiến
pháp lại quy định: Chính phủ là cơ quan “chấp
hành” của Quốc hội. Tính chất “chấp hành” đối
với Quốc hội của Chính phủ giống như “vòng
kim cô”; vì thế, Chính phủ không thể kiểm soát
được Quốc hội theo đúng tinh thần của nguyên
tắc này. Thực tiễn các quy định pháp luật cho
thấy rằng, mối quan hệ giữa Quốc hội - cơ quan
thực hiện quyền lập pháp với Chính phủ - cơ
quan thực hiện quyền hành pháp - mới chỉ thể
hiện ở một chiều theo hướng kiểm soát hoạt động
của Chính phủ mà chưa có chiều ngược lại là
Chính phủ kiểm soát hoạt động của Quốc hội.
Hiện nay, Tòa án là thiết chế thực hiện chức
năng xét xử và thực hiện quyền tư pháp. Ở hầu
hết các quốc gia trên thế giới, Tòa án được coi là
thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước, có thẩm
quyền kiểm soát việc thực hiện quyền lập pháp
của Nghị viện. Tuy nhiên, Toà án nhân dân ở
nước ta, cụ thể là Toà hành chính “không có chức
năng xem xét lại và phán quyết các văn bản của
Quốc hội hoặc các văn bản quy phạm pháp luật
của các cơ quan hành chính nhà nước mà chỉ có
thẩm quyền xem xét và phán quyết đối với các
văn bản hành chính cá biệt”5. Từ những quy định
của Hiến pháp và pháp luật, thực tiễn vận hành
cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước cho
thấy chưa có cơ quan nào có thẩm quyền kiểm
soát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật trong
hoạt động lập pháp của Quốc hội mà Quốc hội
tự thực hiện chức năng kiểm soát nội bộ đối với
Quốc hội và đối với các cơ quan thuộc Quốc hội
nhưng trên thực tế hoạt động tự kiểm soát của
Quốc hội đạt hiệu quả không cao. Nói cách khác,
pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước giữa
các cơ quan nhà nước đang thiếu vắng những quy
định để thực hiện việc kiểm soát tính hợp hiến
của các đạo luật từ phía cơ quan nhà nước khác,
Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án, Viện kiểm
sát). Đây là “lỗ hổng” của pháp luật về kiểm soát
quyền lực (lập pháp) ở Việt Nam hiện nay.
*Quy định pháp luật kiểm soát quyền lực
nhà nước trong việc thực hiện quyền hành
pháp: pháp luật xác định đối tượng của kiểm
soát quyền hành pháp, quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể có thẩm quyền kiểm soát quyền
hành pháp. Hệ thống các thiết chế về kiểm soát
quyền lực hành pháp không ngừng hoàn thiện,
phát huy vai trò trong hoạt động giám sát. Các
hình thức kiểm soát quyền hành pháp đa dạng,
phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và phương
thức hoạt động của mỗi cơ quan. Cụ thể, giám
sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân đối với
Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp thông
qua hoạt động xem xét báo cáo, văn bản quy
phạm pháp luật, chất vấn, thành lập Ủy ban hay
Đoàn giám sát, bỏ phiếu tín nhiệm. Chủ tịch
nước kiểm soát cơ quan hành pháp thông qua
quy định về trách nhiệm của Chính phủ báo cáo
công tác của Chính phủ với Chủ tịch nước, Chủ
tịch nước có quyền xem xét các báo cáo của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; có quyền đề
nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ
tướng Chính phủ; có quyền yêu cầu Chính phủ
họp bàn các vấn đề cần thiết. Toà án - cơ quan
thực hiện quyền tư pháp - có vai trò trong kiểm
soát thực hiện quyền hành pháp thông qua xét
xử của Toà hành chính đối với quyết định hành
chính, hành vi hành chính của các cơ quan hành
chính và các cá nhân có thẩm quyền của các cơ
quan đó. Kiểm toán nhà nước là thiết chế độc
lập lần đầu tiên được hiến định có nhiệm vụ,
quyền hạn kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài
chính, tài sản công của các cơ quan hành chính
nhà nước. Kiểm soát quyền lực hành pháp trong
nội bộ cơ quan hành chính nhà nước thông qua
các hoạt động thanh tra, kiểm tra của Chính phủ
đối với nền hành chính nhà nước nói chung, của
cơ quan hành chính nhà nước cấp trên đối với
cấp dưới, của cơ quan quản lý ngành đối với cơ
quan hành chính khác, của thủ trưởng cơ quan
đối với công chức.
Bên cạnh những kết quả đạt được trên đây,
thực trạng pháp luật kiểm soát quyền lực nhà
5 Tào Thị Quyên (2017), Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nguồn: tháng 1/2017.
Soá 4/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
7
nước trong việc thực hiện quyền hành pháp có
những bất cập, hạn chế như:
Các quy định về trình tự, thủ tục, công cụ
giám sát quyền lực hành pháp của Quốc hội chưa
hoàn thiện và đồng bộ. Cơ chế kiểm soát quyền
lực nhà nước của Quốc hội đối với Chính phủ
chưa thật hiệu quả. Các hình thức Quốc hội sử
dụng để kiểm soát như xét báo cáo, chất vấn,
thành lập đoàn giám sát, thành lập ủy ban lâm
thời, hay hoạt động của các cơ quan thuộc Quốc
hội, hình thức lấy phiếu tín nhiệm đối các chức
danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn chuẩn
chưa phải là những biện pháp đủ mạnh để quy
kết trách nhiệm của các đối tượng chịu sự kiểm
soát. Trong khi đó, hoạt động kiểm soát quyền
lực trong hệ thống cơ quan hành pháp chủ yếu
mang tính nội bộ6.
Về mặt thực tiễn, năng lực của đại biểu
Quốc hội trong sử dụng các công cụ pháp lý để
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao còn
chưa mạnh mẽ. Đại biểu Quốc hội hoạt động
kiêm nhiệm, giữ các chức vụ trong bộ máy hành
pháp còn nhiều, dẫn đến giảm tính độc lập trong
giám sát của Quốc hội. Năng lực bộ máy giúp
việc cho Quốc hội trong việc thông tin, tổng
hợp và tham mưu còn hạn chế, hiện nay chủ yếu
thông qua các vụ chuyên môn thuộc Văn phòng
Quốc hội. Cho đến nay, Quốc hội vẫn chưa thực
hiện quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với các thành
viên của Chính phủ. Các quy định về trình tự,
thủ tục tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm còn nhiều
bất cập, thiếu tính khả thi như việc quy định
phải có ít nhất 20% tổng số đại biểu Quốc hội
có đề nghị thì việc bỏ phiếu tín nhiệm mới được
tiến hành7.
Quy định pháp luật về kiểm soát của Chủ tịch
nước đối với Chính phủ chỉ thể hiện thông qua
các quyền hạn của Chủ tịch nước trong việc đề
nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ
tướng Chính phủ. Vai trò của Chủ tịch nước đối
với Chính phủ thông qua hình thức tham dự các
phiên họp của Chính phủ chưa được thể hiện rõ
nét bởi vì khi tham dự, vai trò của Chủ tịch nước
cũng không khác gì các chủ thể tham dự khác
như Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ. Hiến
pháp năm 2013 chưa quy định vị trí, tư cách của
Chủ tịch nước khi tham dự các phiên họp của
Chính phủ. Vì vậy, giá trị, hiệu lực pháp lý của
các ý kiến phát biểu của Chủ tịch nước khi tham
dự các phiên họp này chưa được làm rõ.
Hiến pháp và pháp luật tuy không trực tiếp
quy định về quyền giám sát của Tòa án đối với
các cơ quan hành pháp. Tuy nhiên, có thể suy ra
rằng hoạt động kiểm soát của Tòa án đối với các
cơ quan hành pháp được thực hiện thông qua
hoạt động xét xử, đặc biệt là khi xét xử các vụ
án hành chính. Thông qua hoạt động xét xử
hành chính, Tòa án thực hiện hoạt động giám
sát của mình đối với hoạt động của các cơ quan
hành pháp và các cơ quan khác của nhà nước
trong việc ban hành các quyết định hành chính,
thực hiện hành vi hành chính. Nhưng Tòa án chỉ
có quyền phán quyết về tính hợp pháp hay
không hợp pháp của của các quyết định hành
chính, hành vi hành chính, mà không có quyền
bãi bỏ đối với quyết định hành chính, hành vi
hành chính.
* Các quy định pháp luật về kiểm soát
quyền lực nhà nước trong việc thực hiện quyền
tư pháp: Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử và
thực hiện quyền tư pháp. Kiểm soát quyền tư
pháp là làm sao để hoạt động xét xử của Tòa án
không bị lạm dụng, không vi phạm pháp luật,
dẫn đến oan sai; và ngược lại các cơ quan khác
không được can thiệp vào hoạt động xét xử của
Tòa án, bảo đảm tính độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật của hội đồng xét xử. Có nhiều thiết
chế thực hiện hoạt động kiểm soát quyền tư
pháp: Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp,
hệ thống cơ quan hành pháp, hệ thống cơ quan
Viện kiểm sát và hệ thống Tòa án (tự thực hiện
nhiệm vụ kiểm sát trong nội bộ ngành), các cơ
quan tham gia thực hiện quyền tư pháp, cơ quan
bổ trợ tư pháp.
Bên cạnh những kết quả đạt được, pháp luật
kiểm soát quyền lực nhà nước trong việc thực
6 Nguyễn Minh Đoan (chủ biên), (2016), sách đã dẫn, tr161-163
7 Xem: Nghị quyết số 85/2014/QH13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín
nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn (điểm c, khoản 1, Điều 11).
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
8
hiện quyền tư pháp tồn tại những bất cập: Quốc
hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Hội đồng
nhân dân đối với Tòa án còn rất hình thức, không
cụ thể, chủ yếu thông qua báo cáo, chất vấn tại
các kỳ họp của các cơ quan dân cử. Hoạt động
kiểm soát trong nội bộ ngành Tòa án cũng chưa
đạt hiệu quả cao vì pháp luật chưa có quy định cụ
thể về tiêu chuẩn, chất lượng của một bản án và
của quyết định giám đốc thẩm. Tương tự, pháp
luật đang thiếu vắng những quy định về yêu cầu,
trình tự, thủ tục công bố bản án. Điều này gây ra
không ít khó khăn khi các chủ thể thực hiện
quyền kiểm soát đối với hoạt động xét xử của
Tòa án.
Một số quy định pháp luật chưa đúng tinh
thần của Hiến pháp năm 2013 về phân công
thực hiện quyền tư pháp và chức năng của Tòa
án. Hiến pháp năm 2013 quy định Tòa án có
chức năng xét xử và thực hiện quyền tư pháp;
nguyên tắc tranh tụng được bảo đảm trong xét
xử; tòa án phải độc lập khi xét xử, thực hiện
nguyên tắc suy đoán vô tội trong hoạt động xét
xử. Tuy nhiên, khoản 3 Điều 2 Luật tổ chức Tòa
án nhân dân năm 2014 lại quy định: “khi thực
hiện nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự, Tòa án có
quyền: khi xét thấy cần thiết, trả hồ sơ yêu
cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu
Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc
Tòa án kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung
chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự khởi tố vụ án hình sự nếu phát hiện có việc
bỏ lọt tội phạm”.
Bên cạnh đó, Tòa án nhân dân tối cao và Tòa
án nhân dân cấp cao vẫn chưa có thẩm quyền giải
thích Hiến pháp và luật. Điều này gây khó khăn
cho Tòa án khi thực hiện hoạt động kiểm soát
thông qua hình thức giám đốc thẩm.
Viện kiểm sát có chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm soát hoạt động xét xử của Tòa án
tuy nhiên thật khó tách bạch giữa hai chức năng
này trong một chủ thể, trong cùng một thời điểm.
Vì vậy, trong nhiều phiên tòa thiếu sự bình đẳng
giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, một số nguyên
tắc trong hoạt động xét xử như công bằng, tranh
luận công khai, bình đẳng chưa được áp dụng
triệt để.
3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật
về kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Việt Nam
hiện nay
3.1. Đối với quyền lập pháp
- Xác định rõ trình tự, thủ tục để Quốc hội tự
xem xét lại tính hợp hiến của các đạo luật do
Quốc hội đã thông qua khi có dấu hiệu vi phạm
Hiến pháp. Điều 119 Hiến pháp đã tạo cơ sở hiến
định để xây dựng một cơ chế bảo vệ Hiến pháp
do luật định. Theo đó, cần tiếp tục nghiên cứu
xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp do Luật định
để thực hiện trong thời gian tới.
- Mở rộng thẩm quyền của Chủ tịch nước
trong hoạt động lập pháp: Bổ sung quy định Chủ
tịch nước có quyền yêu cầu Quốc hội phải xem
xét lại một luật hay pháp lệnh.
- Quy chế hóa hoạt động phối hợp thực
hiện quyền lập pháp giữa các cơ quan của
Quốc hội và các cơ quan của Chính phủ, các
Bộ, ngành để phân định rõ nhiệm vụ của từng
công đoạn, gắn với trách nhiệm của tập thể, cá
nhân người đứng đầu trong quy trình xây dựng
pháp luật. Thực hiện biện pháp để Chính phủ
là cơ quan thực hiện quyền hành pháp phải có
quyền kiểm soát đối với Quốc hội. Theo đó
Chính phủ phải có quyền “bảo lưu ý kiến hay
rút các dự án luật” khi Chính phủ có những lý
do chính đáng.
- Hoàn thiện quy định về ủy quyền lập pháp
của Quốc hội. Hoàn thiện các quy định về ủy
quyền lập pháp và thiết lập cơ chế kiểm soát chặt
chẽ (cả tiền kiểm và hậu kiểm) của Quốc hội đối
với việc ban hành văn bản được ủy quyền. Đây
là biện pháp nhằm tạo thêm cơ chế tự kiểm soát
việc thực hiện quyền lập pháp của Quốc hội. Bên
cạnh đó, cần quy định cụ thể về những căn cứ,
điều kiện cũng như cơ sở khoa học và thực tiễn
khi Quốc hội ban hành nghị quyết “thí điểm”
nhằm giải quyết hay thực hiện nhiệm vụ thuộc
thẩm quyền của Quốc hội.
3.2. Đối với quyền hành pháp
- Quy định cụ thể hơn về quyền hạn xem xét
báo cáo công tác của Chủ tịch nước đối với việc
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng
Soá 4/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
9
Chính phủ và các chức danh trong hệ thống hành
pháp do Chủ tịch nước bổ nhiệm theo Hiến pháp
và pháp luật.
- Phân định thẩm quyền và mối quan hệ giữa
Chủ tịch nước và Chính phủ khi Chủ tịch nước
yêu cầu Chính phủ họp, bàn về những vấn đề mà
Chủ tịch nước thấy cần thiết theo quy định của
Hiến pháp năm 2013.
- Bảo đảm sự minh bạch, trách nhiệm giải
trình trong hoạt động của cơ quan hành pháp.
Phải có quy định rõ ràng về trách nhiệm thông
tin của các cơ quan hành pháp để bảo đảm Quốc
hội kiểm soát hiệu quả hoạt động của Chính phủ.
Thiếu thông tin, thông tin không trung thực thì
không thể kiểm soát hiệu quả Chính phủ.
- Nghiên cứu hình thức lấy phiếu tín nhiệm hay
hình thức bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với Thủ tướng
Chính phủ, các thành viên Chính phủ hay tập thể
Chính phủ khi thực hiện chính sách không hiệu quả
hoặc để xảy ra tham nhũng lớn trong bộ máy hành
pháp, làm thất thoát ngân sách nhà nước.
- Tăng cường kiểm soát việc thực hiện quyền
lực nhà nước của các Bộ, cơ quan ngang bộ bằng
hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội và giám
sát của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc
hội, trong đó tập trung giám sát việc sử dụng
ngân sách nhà nước hàng năm được Quốc hội
phân cho các Bộ, cơ quan ngang bộ là một nội
dung giám sát hàng đầu.
- Tăng cường hiệu quả của cơ chế tự kiểm
tra trong hệ thống cơ quan hành chính nhà
nước. Xác định rõ trách nhiệm của người đứng
cầu cơ quan hành chính nhà nước với tập thể
đơn vị, người đứng đầu cơ quan hành chính
với tập thể cấp ủy khi có sai phạm. Nghiêm túc
thực hiện việc đề cao trách nhiệm cá nhân, chế
tài nghiêm túc đối với người đứng đầu mỗi cơ
quan hành chính trong hoạt động thanh tra,
kiểm tra.
3.3. Đối với quyền tư pháp
- Hoàn thiện cơ chế hợp lý để Tòa án cấp
dưới phải tuân thủ quyết định giám đốc thẩm nên
được thiết lập trên cơ sở quy định trách nhiệm
bồi thường của Tòa án nhân dân cấp dưới nếu
bản án của họ bị hủy bởi quyết định giám đốc
thẩm. Trách nhiệm bồi thường này không chỉ
được xác định đối với việc xét xử vụ án hình sự
mà còn đối với việc xét xử vụ án dân sự, lao
động, kinh tế và hành chính.
- Cần có quy định cụ thể yêu cầu về nội
dung đối với quyết định giám đốc thẩm và các
bản án của Tòa án. Quyết định giám đốc thẩm
phải giải thích cụ thể về vấn đề pháp luật có
liên quan tới vụ án và các bản án của Tòa án
phải xác định đúng vấn đề giải quyết của vụ
án và đưa ra lời giải đáp một cách cặn kẽ và
thuyết phục.
- Nghiên cứu hoàn thiện khung khổ pháp lý
về kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện quyền tư pháp theo hướng mở
rộng nghĩa vụ công khai bản án và hồ sơ vụ án để
làm cơ sở cho các cơ quan nhà nước khác và báo
chí, người dân giám sát xét xử một cách chính
xác, thực chất và hiệu quả. Đồng thời, việc công
khai bản án cùng với yêu cầu về nội dung của
bản án sẽ là cơ sở để Quốc hội, Uỷ ban thường vụ
Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của
Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp tiến
hành kiểm soát hoạt động xét xử một cách khách
quan, công bằng và hiệu quả.
- Nâng cao tính minh bạch trong hoạt động
của Tòa án: một là, cần phải minh bạch hóa việc
xác lập chứng cứ; hai là, thủ tục công bố án lệ
cần được minh bạch hóa.
- Nâng cao hơn nữa trách nhiệm, chuyên
môn cũng như phẩm chất đạo đức của những
người làm việc trong cơ quan tư pháp. Việc
tuyển chọn và bổ nhiệm các chức danh kiểm sát
viên và thẩm phán cần trải qua quá trình sát
hạch nghiêm khắc, kiên quyết loại bỏ những cán
bộ thoái hóa, biến chất, yếu năng lực chuyên
môn khỏi ngành tư pháp.
- Nghiên cứu, thực hiện ngân sách độc lập
cho hoạt động của hệ thống Tòa án. Hiện tại Tòa
án khó có thể độc lập về ngân sách hoạt động mà
chịu sự chi phối và lệ thuộc cơ quan hành pháp.
Thực tế, nhiều Tòa án không đủ ngân sách để trả
phí luật sư tham gia các vụ án bào chữa chỉ định,
không đủ chi phí xét xử lưu động. Do vậy, cần
thực hiện chế độ ngân sách độc lập cho Tòa án và
bỏ chế độ “khoán chi” đối với các hoạt động
hành chính của Tòa án./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phap_luat_ve_kiem_soat_quyen_luc_nha_nuoc_giua_cac_co_quan_n.pdf