Đối với người lao động: theo quy định tại
Điều 62 Bộ luật lao động năm 2012 thì người lao
động phải đền bù chi phí đào tạo bao gồm các khoản
chi có chứng từ hợp lệ về chi phí trả cho người dạy,
tài liệu học tập, trường, lớp, máy, thiết bị, vật liệu
thực hành, các chi phí khác hỗ trợ cho người học và
tiền lương, tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế cho người học trong thời gian đi học. Trường hợp
người lao động được gửi đi đào tạo ở nước ngoài thì
chi phí đào tạo còn bao gồm chi phí đi lại, chi phí
sinh hoạt trong thời gian ở nước ngoài.
Có thế thấy, chi phí đền bù của viên chức
không bao gồm tiền lương, phụ cấp cũng như các
khoản đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế do đơn
vị sự nghiệp công lập trích nộp. Trong khi đó, chi
phí đào đền bù của người lao động theo hợp đồng
lao động lại gồm cả tiền lương và các khoản bảo
hiểm đã được người sử dụng lao động đóng cho.
Chính vì có sự khác biệt này nên khi thực hiện các
đơn vị sự nghiệp công lập cần xác định đúng đối
tượng là viên chức hay lao động hợp đồng để áp
dụng đúng quy định pháp luật nhằm bảo vệ quyền,
lợi ích chính đáng của các bên trong quan hệ lao
động.
2.8. Quy định về chấm dứt hợp đồng
Chấm dứt hợp đồng làm việc đối với viên
chức do Luật viên chức điều chỉnh, còn chấm dứt
hợp đồng lao động đối với người lao động do Bộ
luật lao động điều chỉnh. Tuy nhiên, khoản 3 Điều
28 Luật viên chức năm 2012 lại quy định: “Chấm
dứt hợp đồng làm việc được thực hiện theo quy định
của pháp luật về lao động”. Từ đó có thể thấy, khi
chấm dứt hợp đồng làm việc đối với viên chức sẽ
viện dẫn các quy định về chấm dứt hợp đồng lao
động. Nhưng Điều 29 Luật viên chức lại quy định
các trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng
làm việc đối với đơn vị sự nghiệp công lập và viên
chức. Điều này khiến các đơn vị sự nghiệp công lập
gặp khó khăn, vướng mắc khi áp dụng luật để chấm
dứt hợp đồng làm việc với viên chức, không biết áp
dụng Luật viên chức hay Bộ luật lao động.
Hơn nữa, quy định về chấm dứt hợp đồng
trong Luật viên chức năm 2010 cũng có một số
điểm khác so với quy định chấm dứt hợp đồng trong
Bộ luật lao động năm 2012. Cụ thể:
Đơn vị sự nghiệp công lập được đơn phương
chấm dứt hợp đồng làm việc với viên chức trong các
trường hợp viên chức có 02 năm liên tiếp bị phân
loại đánh giá ở mức độ không hoàn thành nhiệm
vụ. Còn theo quy định Bộ luật lao động, đơn vị
sự nghiệp công lập được quyền đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động khi người lao động thường
xuyên không hoàn thành nhiệm vụ.
Hay đơn vị sự nghiệp công lập không được
đơn phương đơn phương chấm dứt hợp đồng làm
việc với viên chức nữ đang trong thời gian có thai,
nghỉ thai sản, nuôi con dưới 36 tháng tuổi, trừ
trường hợp đơn vị sự nghiệp công lập chấm dứt hoạt
động. Trong khi đó, Bộ luật lao động lại quy định
người sử dụng lao động không được đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động đối với lao động nữ
nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 324 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Pháp luật về sử dụng lao động trong các đơn vị sự nghiệp công lập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ISSN 2354-0575
Journal of Science and Technology98 Khoa học & Công nghệ - Số 21/Tháng 3 - 2019
PHÁP LUẬT VỀ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG
TRONG CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
Lê Thị Nga
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 11/01/2019
Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 05/02/2019
Ngày bài báo được duyệt đăng: 12/03/2019
Tóm tắt:
Đơn vị sự nghiệp công lập đang sử dụng nhiều đối tượng lao động. Các đối tượng lao động lại chịu
sự điều chỉnh của các quy định pháp luật khác nhau. Bài viết phân tích một số quy định của Luật viên chức
năm 2010 và Bộ luật lao động năm 2012 trong việc điều chỉnh các vấn đề liên quan đến sử dụng lao động.
Từ khóa: Sử dụng lao động, người lao động, viên chức, hợp đồng làm việc, hợp đồng lao động.
1. Đặt vấn đề
Hiện nay, các đơn vị sự nghiệp công lập
đang sử dụng song song hai đối tượng lao động
là viên chức làm việc theo chế độ Hợp đồng làm
việc và người lao động làm việc theo chế độ Hợp
đồng lao động. Các văn bản pháp luật điều chỉnh
trực tiếp vấn đề sử dụng hai đối tượng này có nhiều
điểm khác biệt, nhiều quy định còn chồng chéo
tạo ra nhiều trở ngại khi áp dụng cho các đơn vị
sự nghiệp công lập. Nhiều đơn vị sự nghiệp công
lập còn nhầm lẫn khái niệm viên chức với lao động
hợp đồng hay sử dụng Luật viên chức để áp dụng
cho đối tượng lao động theo hợp đồng lao động và
ngược lại. Từ tực tiễn đó, việc các đơn vị sự nghiệp
công lập áp đúng quy định pháp luật trong sử dụng
lao động là điều rất cần thiết nhằm đảm bảo quyền
và lợi ích chính đáng của các chủ thể trong quan hệ
lao động, đồng thời hạn chế các tranh chấp xảy ra.
2. Nội dung
2.1. Khái quát về đơn vị sự nghiệp công lập
Luật viên chức 2010 đã đưa ra khái niệm:
“Đơn vị sự nghiệp công lập là tổ chức do cơ quan
có thấm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội thành lập theo quy định của
pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ
công, phục vụ quản lý Nhà nước”.
Đơn vị sự nghiệp công lập gồm 02 loại:
Thứ nhất, Đơn vị sự nghiệp công lập được
giao tự chủ hoàn toàn về thực hiện nhiệm vụ, tài
chính, tổ chức bộ máy, nhân sự.
Thứ hai, Đơn vị sự nghiệp công lập chưa
được giao quyền tự chủ hoàn toàn về thực hiện
nhiệm vụ, tài chính, tổ chức, bộ máy, nhân sự, chủ
yếu là các Viện nghiên cứu, Bệnh viện, trường
học trực thuộc cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền.
2.2. Quy định về tuyển dụng
Tuyển dụng là quy trình sàng lọc và tuyển
chọn những người có đủ năng lực đáp ứng một công
việc trong một tổ chức, công ty, hoặc một chương
trình tự nguyện hay nhóm cộng đồng.
Các đơn vị sự nghiệp công lập thường sử
dụng rất nhiều lao động bao gồm những người
làm việc theo Hợp đồng làm việc gọi là viên chức
và những người làm việc theo hợp đồng lao động
Chính vì vậy, hoạt động tuyển dụng tại các đơn vị
sự nghiệp công lập thường bao gồm: tuyển dụng
viên chức và tuyển dụng lao động hợp đồng.
Thứ nhất, Quy định về tuyển dụng viên
chức
Theo quy định tại điều 20 Luật Viên chức
năm 2010 thì: “Việc tuyển dụng viên chức phải căn
cứ vào nhu cầu công việc, vị trí việc làm, tiêu chuẩn
chức danh nghề nghiệp và quỹ tiền lương của đơn
vị sự nghiệp công lập”.
Nhu cầu công việc: Hàng năm lãnh đạo đơn
vị sự nghiệp công lập căn cứ vào nhu cầu thực tế
để xây dựng kế hoạch tuyển dụng trình cấp có thẩm
quyền phê chuẩn.
Ví trí việc làm: là công việc hoặc nhiệm vụ
gắn với chức danh nghề nghiệp hoặc chức vụ quản
lý tương ứng, là căn cứ xác định số lượng người
làm việc, cơ cấu viên chức để thực hiện việc tuyển
dụng, sử dụng và quản lý viên chức trong đơn vị sự
nghiệp công lập.
Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển
dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự
nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc,
hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp
công lập theo quy định của pháp luật.
Hợp đồng làm việc là sự thỏa thuận bằng
văn bản giữa viên chức hoặc người được tuyển
dụng làm viên chức với người đứng đầu đơn vị sự
ISSN 2354-0575
Khoa học & Công nghệ - Số 21/Tháng 3 - 2019 Journal of Science and Technology 99
nghiệp công lập về vị trí việc làm, tiền lương, chế
độ đãi ngộ, điều kiện làm việc quyền và nghĩa vụ
của mỗi bên. Có 02 loại hợp đồng làm việc:
Hợp đồng làm việc xác định thời hạn là hợp
đồng mà trong đó hai bên xác định thời hạn, thời
điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong khoảng
thời gian từ đủ 12 tháng đến 36 tháng.
Hợp đồng làm việc không xác định thời hạn
là hợp đồng mà trong đó hai bên không xác định
thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng.
Hợp đồng làm việc không xác định thời hạn áp dụng
đối với trường hợp đã thực hiện xong hợp đồng làm
việc xác định thời hạn.
Theo đó, viên chức được tuyển dụng vào
đơn vị sự nghiệp công lập phải ký hợp đồng làm
việc xác định thời hạn lần đầu với người đứng đầu
đơn vị sự nghiệp công lập sử dụng viên chức từ đủ
12 tháng đến 36 tháng. Sau khi hết thời hạn của hợp
đồng làm việc theo quy định tại khoản 1 Điều này,
người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập đánh giá
kết quả thực thi nhiệm vụ của viên chức và căn cứ
vào nhu cầu sử dụng của đơn vị sự nghiệp công
lập để quyết định ký tiếp hợp đồng xác định thời
hạn hoặc không xác định thời hạn hoặc chấm dứt
hợp đồng làm việc đối với viên chức. Trường hợp
viên chức ký tiếp hợp đồng làm việc xác định thời
hạn thì sau khi hết thời hạn của hợp đồng làm việc,
người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập xem xét
thực hiện việc ký hợp đồng làm việc không xác định
thời hạn hoặc chấm dứt hợp đồng làm việc đối với
viên chức.
Thứ hai, Quy định về tuyển dụng lao động
Người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở
lên, có khả năng lao động, làm việc theo hợp đồng
lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều
hành của người sử dụng lao động.
Người lao động làm việc theo hợp đồng lao
động tại các đơn vị sự nghiệp công lập bao gồm
nhiều đối tượng: Người lao động làm việc theo
Nghị định 68/2000/NĐ-CP như; lái xe, bảo vệ, tạp
vụ, bảo trì điện nước; Người lao động làm việc
tại các đơn vị hoạt động kinh doanh dịch vụ như
công ty, các trung tâm trực thuộc đơn vị sự nghiệp
công lập; Người lao động làm việc trong các dự án
nhiên cứu; Người lao động được tuyển dụng làm
công việc chuyên môn trước ngày 01/07/2003.
Người sử dụng lao động là doanh nghiệp,
cơ quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân
có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng lao
động; nếu là cá nhân thì phải có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ.
Hợp đồng lao động là sự thoả thuận giữa
người lao động và người sử dụng lao động về việc
làm có trả lương, điều kiện làm việc, quyền và nghĩa
vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động.
Theo quy định tại Bộ luật lao động năm
2012 thì Người sử dụng lao động có quyền tuyển
dụng, bố trí, điều hành lao động theo nhu cầu sản
xuất, kinh doanh; khen thưởng và xử lý vi phạm kỷ
luật lao động.
Pháp luật cho phép người sử dụng có quyền
trực tiếp hoặc thông qua tổ chức dịch vụ việc làm,
doanh nghiệp cho thuê lại lao động để tuyển dụng
lao động, có quyền tăng, giảm lao động phù hợp với
nhu cầu sản xuất, kinh doanh.
Người sử dụng lao động có toàn quyền quyết
định trong hoạt động tuyển dụng người lao động
làm việc theo hợp đồng lao động.
2.3. Quy định về tập sự, thử việc
Đối với viên chức làm việc theo chế độ hợp
đồng làm việc sẽ áp dụng quy định của Luật viên
chức năm 2010 về chế độ tập sự. Pháp luật hiện
hành không có quy định liên quan đến chế độ thử
việc đối với viên chức. Theo quy định tại điều 27
Luật viên chức năm 2010 thì người trúng tuyển viên
chức phải thực hiện chế độ tập sự, trừ trường hợp đã
có thời gian từ đủ 12 tháng trớ lên thực hiện chuyên
môn nghiệp vụ phù hợp với yêu cầu vị trí việc làm
được tuyển dụng.
Thời gian tập sự được quy định cụ thể trong
Nghị định 161/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số
quy định về tuyển dụng công chức, viên chức nâng
ngạch công chức, thăng hạng viên chức và thực
hiện chế độ hợp đồng một số loại công việc nhất
định trong cơ quan hành chính Nhà nước, đơn vị
sự nghiệp công lập. Theo đó, thời gian tâp sự là 12
tháng đối với trường hợp tuyển dụng vào chức danh
nghề nghiệp có yêu cầu tiêu chuẩn trình độ đào tạo
đại học. Riêng đối với chức danh nghề nghiệp bác sĩ
là 09 tháng; 09 tháng đối với trường hợp tuyển dụng
vào chức danh nghề nghiệp có yêu cầu tiêu chuẩn
trình độ đào tạo cao đẳng; 06 tháng đối với trường
hợp tuyển dụng vào chức danh nghề nghiệp có yêu
cầu tiêu chuẩn trình độ đào tạo trung cấp. Không
thực hiện chế độ tập sự đối với các trường hợp đã có
thời gian công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc
theo đúng quy định của pháp luật, được bố trí làm
việc theo đúng ngành, nghề đào tạo hoặc theo đúng
chuyên môn nghiệp vụ trước đây đã đảm nhiệm mà
thời gian công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc
(nếu đứt quãng thì được cộng dồn) bằng hoặc lớn
hơn thời gian tập sự quy định ở trên.
Đối với người lao động làm việc theo Hợp
đồng lao động tại các đơn vị sự nghiệp công lập sẽ
áp dụng quy định của Bộ luật lao động năm 2012
về chế độ thử việc. Các quy định về chế độ thử
việc đối với người lao động được quy định từ Điều
ISSN 2354-0575
Journal of Science and Technology100 Khoa học & Công nghệ - Số 21/Tháng 3 - 2019
26 đến Điều 29 trong Bộ luật lao động năm 2012.
Theo đó, chế độ thử việc không phải là nội dung
bắt buộc mà theo thỏa thuận của các bên trong quan
hệ pháp luật lao động, thời gian thử việc tùy thuộc
và tính chất, mức độ phức tạp, tính chất của công
việc và chỉ được thử việc 01 lần đối với một công
việc và bảo đảm các điều kiện không quá 60 ngày
đối với công việc có chức danh nghề cần trình độ
chuyên môn, kỹ thuật từ cao đẳng trở lên; không
quá 30 ngày đối với công việc có chức danh nghề
cần trình độ chuyên môn kỹ thuật trung cấp nghề,
trung cấp chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật, nhân
viên nghiệp vụ; không quá 6 ngày làm việc đối với
công việc khác.
Sau khi kết thúc thời gian thử việc, nếu việc
làm thử đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động phải
giao kết hợp đồng lao động có thời hạn hoặc không
xác định thời hạn với người lao động. Trong thời
gian thử việc, mỗi bên có quyền huỷ bỏ thoả thuận
thử việc mà không cần báo trước và không phải bồi
thường nếu việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai
bên đã thoả thuận.
2.4. Quy định về tiền lương
Đối với viên chức làm việc theo hợp
đồng làm việc được trả lương theo Nghị định số
204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ
quy định về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công
chức, viên chức và lực lượng vũ trang và Nghị định
số 117/2016/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định
204 gồm có 7 bảng lương. Bảng lương chuyên môn
nghiệp vụ đối với viên chức trong các đơn vị sư
nghiệp nhà nước được quy định tại bảng 3 và được
tính căn cứ vào mức lương tối thiểu chung. Ngoài
lương có bản, viên chức còn được hưởng thêm phụ
cấp theo quy định pháp luật.
Đối với người lao động làm việc theo hợp
đồng lao động trong các đơn vị sự nghiệp công lập
được trả lương theo quy định tại Bộ luật lao động
và các văn bản hướng dẫn. Theo đó, tiền lương là
khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho người
lao động để thực hiện công việc theo thỏa thuận.
Tiền lương bao gồm mức lương theo công việc hoặc
chức danh, phụ cấp lương và các khoản bổ sung
khác. Tuy nhiên, mức lương của người lao động
không được thấp hơn mức lương tối thiểu vùng quy
định tại Nghị định 157/2018/NĐ-CP Quy định mức
lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm
việc theo Hợp đồng lao động.
2.5. Quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi
Theo quy định của Bộ luật lao động năm
2012 thì thời giờ làm việc bình thường không quá
08 giờ trong 01 ngày và không quá 48 giờ trong 01
tuần. Thời giờ làm việc không quá 06 giờ trong 01
ngày đối với những người làm công việc đặc biệt
nặng nhọc, độc hại theo danh mục do Bộ lao động-
Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Bộ Y
tế ban hành.
Mỗi tuần, người lao động được nghỉ ít nhất
24 giờ liên tục. Trong trường hợp đặc biệt do chu
kỳ lao động không thể nghỉ hàng tuần thì người sử
dụng lao động có trách nhiệm bảo đảm cho người
lao động được nghỉ tính bình quân 01 tháng ít nhất
04 ngày. Trường hợp làm việc ngoài giờ làm việc
bình thường được xác định là làm thêm giờ và được
trả tiền lương làm thêm giờ theo quy định tại điểm
b khoản 1 Điều 197 Bộ luật lao động năm 2012.
2.6. Quy định về trách nhiệm vật chất
Thứ nhất, Quy định về trách nhiệm vật chất
đối với viên chức.
Viên chức làm mất, hư hỏng trang bị, thiết
bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của
đơn vị sự nghiệp công lập thì phải bồi thường thiệt
hại. Viên chức khi thực hiện công việc hoặc nhiệm
vụ được phân công có lỗi gây thiệt hại cho người
khác mà đơn vị sự nghiệp công lập phải bồi thường
thì có nghĩa vụ hoàn trả cho đơn vị sự nghiệp công
lập. Viên chức gây ra thiệt hại có trách nhiệm bồi
thường, hoàn trả theo quyết định của người đứng
đầu đơn vị sự nghiệp công lập hoặc cấp có thẩm
quyền. Nếu viên chức không đủ khả năng bồi
thường một lần thì bị trừ 20% (hai mươi phần trăm)
tiền lương hàng tháng cho đến khi bồi thường đủ
theo quyết định của người có thẩm quyền.
Tài sản bị mất mát, hư hỏng, thiệt hại do lỗi
cố ý của viên chức thì viên chức phải bồi thường,
hoàn trả toàn bộ giá trị thiệt hại gây ra. Nếu tài sản
bị mất mát, hư hỏng, thiệt hại do lỗi vô ý của viên
chức thì căn cứ vào từng trường hợp cụ thể người
đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập quyết định mức
và phương thức bồi thường, hoàn trả.
Thứ hai, Quy định về trách nhiệm vất chất
đối với người lao động.
Người lao động làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị
hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của người
sử dụng lao động thì phải bồi thường theo quy định
của pháp luật.Trường hợp người lao động gây thiệt
hại không nghiêm trọng do sơ suất với giá trị không
quá 10 tháng lương tối thiểu vùng do Chính phủ
công bố được áp dụng tại nơi người lao động làm
việc, thì người lao động phải bồi thường nhiều nhất
là 03 tháng tiền lương và bị khấu trừ hằng tháng vào
lương. Mức khấu trừ tiền lương hằng tháng không
được quá 30% tiền lương hằng tháng của người lao
động sau khi trích nộp các khoản bảo hiểm xã hội
ISSN 2354-0575
Khoa học & Công nghệ - Số 21/Tháng 3 - 2019 Journal of Science and Technology 101
bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, thuế
thu nhập.
Người lao động làm mất dụng cụ, thiết bị, tài
sản của người sử dụng lao động hoặc tài sản khác
do người sử dụng lao động giao hoặc tiêu hao vật
tư quá định mức cho phép thì phải bồi thường thiệt
hại một phần hoặc toàn bộ theo thời giá thị trường;
trường hợp có hợp đồng trách nhiệm thì phải bồi
thường theo hợp đồng trách nhiệm; trường hợp do
thiên tai, hoả hoạn, địch họa, dịch bệnh, thảm họa,
sự kiện xảy ra khách quan không thể lường trước
được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp
dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép
thì không phải bồi thường.
2.7. Quy định về bồi thường chi phí đào tạo
Công tác đào tạo, bồi dưỡng viên chức,
người lao động là trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp
công lập. Nội dung này đã được cụ thể hóa trong
Luật viên chức năm 2010 và Bộ luật lao động năm
2012 (Điều 62). Theo đó, nếu viên chức, người lao
động thực hiện không đúng quy định về đào tạo,
bồi dưỡng và không làm việc đủ thời gian cam kết
thì phải bồi thường chi phí đào tạo. Tuy nhiên, quy
định về bồi thường chi phí đào tạo đối với viên chức
và người lao động lại có nhiều điểm khác nhau. Cụ
thể:
Đối với viên chức: theo Nghị định 101/2017/
NĐ-CP về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,
viên chức thì chi phí đền bù bao gồm học phí và
tất cả các khoản chi khác phục vụ cho khóa học,
không tính lương và các khoản phụ cấp nếu có và
viên chức chỉ bồi thường theo tỷ lệ tương ứng với
thời gian chưa làm việc cho đơn vị sự nghiệp công
lập theo cam kết.
Đối với người lao động: theo quy định tại
Điều 62 Bộ luật lao động năm 2012 thì người lao
động phải đền bù chi phí đào tạo bao gồm các khoản
chi có chứng từ hợp lệ về chi phí trả cho người dạy,
tài liệu học tập, trường, lớp, máy, thiết bị, vật liệu
thực hành, các chi phí khác hỗ trợ cho người học và
tiền lương, tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế cho người học trong thời gian đi học. Trường hợp
người lao động được gửi đi đào tạo ở nước ngoài thì
chi phí đào tạo còn bao gồm chi phí đi lại, chi phí
sinh hoạt trong thời gian ở nước ngoài.
Có thế thấy, chi phí đền bù của viên chức
không bao gồm tiền lương, phụ cấp cũng như các
khoản đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế do đơn
vị sự nghiệp công lập trích nộp. Trong khi đó, chi
phí đào đền bù của người lao động theo hợp đồng
lao động lại gồm cả tiền lương và các khoản bảo
hiểm đã được người sử dụng lao động đóng cho.
Chính vì có sự khác biệt này nên khi thực hiện các
đơn vị sự nghiệp công lập cần xác định đúng đối
tượng là viên chức hay lao động hợp đồng để áp
dụng đúng quy định pháp luật nhằm bảo vệ quyền,
lợi ích chính đáng của các bên trong quan hệ lao
động.
2.8. Quy định về chấm dứt hợp đồng
Chấm dứt hợp đồng làm việc đối với viên
chức do Luật viên chức điều chỉnh, còn chấm dứt
hợp đồng lao động đối với người lao động do Bộ
luật lao động điều chỉnh. Tuy nhiên, khoản 3 Điều
28 Luật viên chức năm 2012 lại quy định: “Chấm
dứt hợp đồng làm việc được thực hiện theo quy định
của pháp luật về lao động”. Từ đó có thể thấy, khi
chấm dứt hợp đồng làm việc đối với viên chức sẽ
viện dẫn các quy định về chấm dứt hợp đồng lao
động. Nhưng Điều 29 Luật viên chức lại quy định
các trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng
làm việc đối với đơn vị sự nghiệp công lập và viên
chức. Điều này khiến các đơn vị sự nghiệp công lập
gặp khó khăn, vướng mắc khi áp dụng luật để chấm
dứt hợp đồng làm việc với viên chức, không biết áp
dụng Luật viên chức hay Bộ luật lao động.
Hơn nữa, quy định về chấm dứt hợp đồng
trong Luật viên chức năm 2010 cũng có một số
điểm khác so với quy định chấm dứt hợp đồng trong
Bộ luật lao động năm 2012. Cụ thể:
Đơn vị sự nghiệp công lập được đơn phương
chấm dứt hợp đồng làm việc với viên chức trong các
trường hợp viên chức có 02 năm liên tiếp bị phân
loại đánh giá ở mức độ không hoàn thành nhiệm
vụ. Còn theo quy định Bộ luật lao động, đơn vị
sự nghiệp công lập được quyền đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động khi người lao động thường
xuyên không hoàn thành nhiệm vụ.
Hay đơn vị sự nghiệp công lập không được
đơn phương đơn phương chấm dứt hợp đồng làm
việc với viên chức nữ đang trong thời gian có thai,
nghỉ thai sản, nuôi con dưới 36 tháng tuổi, trừ
trường hợp đơn vị sự nghiệp công lập chấm dứt hoạt
động. Trong khi đó, Bộ luật lao động lại quy định
người sử dụng lao động không được đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động đối với lao động nữ
nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Quy định pháp luật hiện nay có sự đan xen,
chồng chéo trong việc chấm dứt hợp đồng. Các đơn
vị sự nghiệp công lập khi áp dụng luật để giải quyết
phải nhất quán nguyên tắc sau: Nếu đối tượng là
viên chức thì phải ưu tiên áp dụng Luật viên chức,
khi pháp luật về viên chức không có quy định mới
áp dụng quy định của Bộ luật lao động. Tương tự,
nếu đối tượng là người lao động theo hợp đồng lao
động thì đơn vị sự nghiệp công lập phải áp dụng
pháp luật về lao động để giải quyết.
ISSN 2354-0575
Journal of Science and Technology102 Khoa học & Công nghệ - Số 21/Tháng 3 - 2019
3. Kết luận
Vấn đề sử dụng lao động trong các đơn vị
sự nghiệp công lập chỉ đạt hiệu quả khi các đơn
vị sự nghiệp công lập áp dụng đúng các quy định
pháp luật đối với từng đối tượng lao động. Hơn nữa,
cần có sự thống nhất trong quy định pháp luật, sửa
đổi các quy định pháp luật điều chỉnh cùng một đối
tượng lao động nhưng lại được quy định ở hai văn
bản chuyên biệt. Chỉ khi các đơn vị sự nghiệp nhận
thức đúng đắn trong việc sử dụng lao động đồng
thời có hành lang pháp lý rõ ràng thì quan hệ lao
động trong các đơn vị sự nghiệp công lập mới ổn
định, hài hòa.
Tài liệu tham khảo
[1]. Luật viên chức năm 2010.
[2]. Bộ luật lao động năm 2012.
[3]. Nghị định 68/2000/NĐ-CP ngày 17/11/2000 về thực hiện chế độ hợp đồng một số loại công việc
trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp.
[4]. Nghị định 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán
bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang.
[5]. Nghị định 29/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên
chức.
[6]. Nghị định 101/2017/NĐ-CP ngày 07/12/2017 về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức, viên
chức.
[7]. Nghị định 157/2018/NĐ-CP ngày 16/11/2018 quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người
lao động làm việc theo Hợp đồng lao động.
[8]. Nghị định 161/2018/NĐ-CP ngày 29/11/2018 sửa đổi, bổ sung một số quy định về tuyển dụng
công chức, viên chức nâng ngạch công chức, thăng hạng viên chức và thực hiện chế độ hợp đồng
một số loại công việc nhất định trong cơ quan hành chính Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập.
THE REGULATION ON LABOUR USAGE AT PUBLIC ADMINISTRATIVE UNITS
Abstract:
The public administrative units use diffent types of labours that are govered by different labour
regulations. This article analyzes the legal provision in the Law on Public Employees 2010 and the Labor
Code 2012 in using types of labours.
Keywords: Labour usage, labour, official, labour contract, employment contract.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phap_luat_ve_su_dung_lao_dong_trong_cac_don_vi_su_nghiep_con.pdf