Một số khía cạnh khác
Duy trì thời hạn của các hợp đồng đã
ký trước thời điểm mở thủ tục phá sản
Do khoản 3 Điều 41và điểm b khoản 1
Điều 48 Luật Phá sản quy định việc tạm hoãn
thực hiện thanh toán các khoản nợ của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán, nên có thể
hiểu chủ nợ có khoản nợ có bảo đảm được
xác lập trước thời điểm tòa án thụ lý đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản hay có khoản nợ
không có bảo đảm được xác lập trước khi tòa
án ra quyết định mở thủ tục phá sản dù đã
đến hạn về nguyên tắc vẫn không thể yêu cầu
doanh nghiệp thanh toán. Nếu xuất phát từ
quy định tại điểm b khoản 1 Điều 53, theo
đó “đối với hợp đồng có bảo đảm chưa đến
hạn thì trước khi tuyên bố doanh nghiệp [.]
phá sản, tòa án nhân dân đình chỉ hợp đồng
và xử lý các khoản nợ có bảo đảm”, có thể
suy luận rằng, từ khi tòa án thụ lý đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản hay từ khi có quyết
định mở thủ tục phá sản đến khi tuyên bố
doanh nghiệp phá sản thì thời hạn của hợp
đồng vẫn được duy trì một cách bình thường
theo quy định của các bên trong hợp đồng.
Tuy nhiên, trong thực tế các hợp đồng
thương mại và tín dụng thường có điều
khoản quy định nghĩa vụ thanh toán một
khoản nợ sẽ lập tức đến hạn trong trường hợp
một bên mất khả năng thanh toán hay bị mở
thủ tục phá sản. Điều 61 và Điều 62 Luật Phá
sản chỉ đề cập trường hợp doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán chủ động chấm dứt hợp
đồng đang có hiệu lực, chứ không nêu rõ liệu
điều khoản này có hiệu lực hay không. Tuy
nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 426,
Bộ luật Dân sự “một bên có quyền đơn
phương chấm dứt thực hiện hợp đồng nếu
các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy
định”, nên về nguyên tắc giá trị pháp lý của
điều khoản này được pháp luật thừa nhận12.
Lãi suất phát sinh từ quyền đòi nợ
Một trong các điểm mới đáng ghi nhận
của Luật Phá sản so với quy định cũ là đã
dành riêng Điều 52 để xử lý vấn đề tiền lãi
của các khoản nợ của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán. Theo đó, kể
từ ngày tòa án ra quyết định
mở thủ tục phá sản, các khoản
nợ được tiếp tục tính lãi theo
thỏa thuận nhưng được tạm
dừng việc trả lãi. Việc tạm
dừng thanh toán tiền lãi phù
hợp với quy định về việc tạm
hoãn thực hiện nghĩa vụ thanh
toán của doanh nghiệp nêu ở
trên.
Đối với khoản nợ mới phát
sinh sau khi mở thủ tục phá sản
đến thời điểm tuyên bố doanh nghiệp phá sản
thì tiền lãi của khoản nợ đó được xác định
theo thỏa thuận nhưng không trái với quy
định của pháp luật13. Kết hợp quy định này
với điểm c khoản 1 và khoản 3 Điều 49 Luật
Phá sản có thể thấy, nếu quản tài viên hay
doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản chấp
thuận việc thanh toán khoản nợ mới phát
sinh thì có thể thanh toán cả nợ gốc và nợ lãi.
Cuối cùng, cần lưu ý kể từ ngày ra quyết
định tuyên bố doanh nghiệp phá sản thì
khoản nợ không được tiếp tục tính lãi
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 240 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Pháp luật về tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ thanh toán thủ tục phá sản - Nhìn từ thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHAÁP LUÊÅT VÏÌ TAÅM HOAÄN THÛÅC HIÏåN NGHÔA VUÅ THANH TOAÁN
TRONG THUÃ TUÅC PHAÁ SAÃN - NHÒN TÛÂ THÛÅC TIÏÎN
Bùi Đức giang*
1. cấm và đình chỉ việc thanh toán
Nguyên tắc chung
Thanh toán khoản nợ có bảo đảm và
khoản nợ không có bảo đảm
Luật Phá sản năm 2014 (Luật Phá sản)
đề cập tới việc tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ
thanh toán của doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán trong hai quy định: Khoản 3 Điều
41 liên quan đến trường hợp khoản nợ có bảo
đảm và điểm b khoản 1 Điều 48 xử lý trường
hợp khoản nợ không có bảo đảm.
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều
48, sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản,
cấm doanh nghiệp thực hiện việc thanh toán
khoản nợ không có bảo đảm, trừ khoản nợ
không có bảo đảm phát sinh sau khi mở thủ
tục phá sản và trả lương cho người lao động
trong doanh nghiệp. Quy định này là một
điều cấm của pháp luật mà nếu vi phạm thì
giao dịch thanh toán sẽ vô hiệu (Điều 128 Bộ
luật Dân sự).
Khoản 3 Điều 41 Luật Phá sản quy định
trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày tòa án thụ
lý việc phá sản, “cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền tạm đình chỉ việc xử lý tài sản bảo
đảm của doanh nghiệp [] đối với chủ nợ
40
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 05(309) T3/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
* TS. Công ty TNHH tư vấn và đào tạo Bank Pro.
1 Đây là nguyên tắc được thừa nhận rộng rãi trong pháp luật phá sản các nước trên thế giới. Theo đó, việc thanh toán cho
các chủ nợ phải được thực hiện theo đúng tỷ lệ giữa tất cả các chủ nợ trong cùng một hàng ưu tiên thanh toán trên cơ sở
áp dụng các quy định của pháp luật phá sản. Do đó, mọi chủ nợ sẽ phải được đối xử công bằng theo quy mô khoản nợ
của họ, không quan trọng danh tính của từng chủ nợ hay thời điểm mà từng khoản nợ được xác lập (Edward Bailey and
Hugo Groves, Corporate Insolvency - Law and Practice (4th edn LexisNexis 2014), para.22.4).
2 Françoise Pérochon, Entreprises en difficulté, L.G.D.J, 9è éd., 2012, no548.
Luật Phá sản năm 2014 kế thừa cách tiếp cận của Luật Phá sản năm 2004 khi
quy định về việc tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ của doanh
nghiệp bị mở thủ tục phá sản và về việc tạm hoãn truy cứu trách nhiệm của doanh
nghiệp – vốn là hệ quả của việc tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ thanh toán các khoản
nợ. Điều này giúp giảm bớt, dù chỉ là tạm thời, áp lực trả nợ cho doanh nghiệp và
qua đó giúp doanh nghiệp chuẩn bị lên phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
Hơn nữa, nó cũng phản ánh nguyên tắc chung của pháp luật phá sản là đảm bảo
đối xử bình đẳng giữa các chủ nợ (pari passu principle1): do doanh nghiệp không
có khả năng thanh toán cho tất cả các chủ nợ nên không phải thanh toán cho bất
cứ chủ nợ nào ngay lập tức, tất cả các chủ nợ sẽ được thanh toán một cách công
bằng khi thanh lý tài sản của doanh nghiệp2.
có bảo đảm” trừ trong trường hợp tài sản bảo
đảm có nguy cơ bị phá hủy hoặc bị giảm
đáng kể về giá trị3. Rất tiếc là Luật Phá sản
không chỉ rõ cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
ở đây là ai và điều này có thể dẫn tới khó
khăn trong việc giải thích quy định của pháp
luật về sau.
Thời điểm bắt đầu việc tạm hoãn thực
hiện nghĩa vụ thanh toán
Có thể thấy, thời hạn bắt đầu việc tạm
hoãn thực hiện nghĩa vụ thanh toán của
doanh nghiệp không giống nhau. Đối với
khoản nợ có bảo đảm, thời hạn bắt đầu việc
tạm đình chỉ xử lý tài sản bảo đảm (tức là
tạm đình chỉ việc thanh toán khoản vay có
bảo đảm) là kể từ ngày Tòa án thụ lý việc phá
sản4 trong khi thời điểm mà việc thanh toán
đối với các chủ nợ không có bảo đảm bị cấm
là ngày có quyết định mở thủ tục phá sản.
Điều dễ nhận thấy là ở đây là có sự phân biệt
đối xử theo hướng bất lợi cho chủ nợ có bảo
đảm so với chủ nợ không có bảo đảm, khi mà
theo nguyên lý thông thường thì quyền lợi
của chủ nợ có bảo đảm phải được ưu tiên hơn
quyền lợi của chủ nợ không có bảo đảm.
Một vấn đề khác đặt ra là phải hiểu thời
điểm có quyết định mở thủ tục phả sản là
thời điểm nào. Thuật ngữ “có quyết định mở
thủ tục phả sản” được nêu tại các Điều 47,
48, 49 và 63 của Luật Phá sản và có vẻ được
hiểu là việc tòa án ra quyết định mở thủ tục
phá sản. Tuy vậy, theo quy định tại Điều 43,
thời hạn để tòa án gửi quyết định mở thủ tục
phá sản cho doanh nghiệp và chủ nợ cũng
như đăng trên Cổng thông tin đăng ký doanh
nghiệp quốc gia, Cổng thông tin điện tử của
tòa án và báo địa phương - nơi doanh nghiệp
có trụ sở chính - là 03 ngày làm việc kể từ
ngày tòa án ra quyết định. Rủi ro đặt ra ở đây
là dù tòa án đã ra quyết định mở thủ tục phá
sản nhưng do các bên chưa biết được quyết
định này nên vẫn thực hiện việc thanh toán
khoản nợ và do đó, giao dịch thanh toán này
có khả năng bị tuyên vô hiệu.
Xử lý tài sản bảo đảm
Khoản 1 Điều 53 đưa ra hai hướng giải
quyết việc tạm hoãn xử lý tài sản bảo đảm,
theo đó, sau khi mở thủ tục phá sản, quản tài
viên hay doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài
sản đề xuất thẩm phán về việc xử lý các
khoản nợ có bảo đảm như sau:
“a) Trường hợp tài sản bảo đảm được sử
dụng để thực hiện thủ tục phục hồi kinh
doanh thì việc xử lý đối với tài sản bảo đảm
theo Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ;
b) Trường hợp không thực hiện thủ tục
phục hồi kinh doanh hoặc tài sản bảo đảm
không cần thiết cho việc thực hiện thủ tục
phục hồi kinh doanh thì xử lý theo thời hạn
quy định trong hợp đồng đối với hợp đồng
có bảo đảm đã đến hạn. Đối với hợp đồng có
bảo đảm chưa đến hạn5 thì trước khi tuyên
bố doanh nghiệp [] phá sản, tòa án nhân
dân đình chỉ hợp đồng và xử lý các khoản nợ
có bảo đảm”.
Như vậy về nguyên tắc, việc tài sản bảo
đảm có được xử lý hay không phụ thuộc vào
việc có triển khai thực hiện phương án phục
hồi hoạt động kinh doanh hay không. Về
điểm này, theo quy định tại khoản 5 Điều 91
Luật Phá sản, “trường hợp phương án phục
hồi hoạt động kinh doanh có sử dụng tài sản
bảo đảm thì phải quy định rõ thời gian sử
dụng tài sản có bảo đảm, phương án xử lý tài
41
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 05(309) T3/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
3 Tương tự, sau khi mở thủ tục phá sản, nếu tài sản bảo đảm có nguy cơ bị phá hủy hay bị giảm giá trị thì quản tài viên hay
doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản có thể đề nghị thẩm phán cho xử lý ngay tài sản bảo đảm đó (khoản 2, Điều 53
Luật Phá sản).
4 Thời hạn 05 ngày cần được hiểu là khoảng thời gian để ra quyết định tạm đình chỉ xử lý bảo đảm.
5 Việc sử dụng cụm từ hợp đồng đã đến hạn hay hợp đồng chưa đến hạn ở đây thiếu chính xác và phải được hiểu là nghĩa
vụ được bảo đảm đã đến hạn hay chưa đến hạn.
sản bảo đảm và phải được chủ nợ có bảo đảm
bằng tài sản đó đồng ý”. Nói cách khác, việc
tài sản bảo đảm có được sử dụng trong việc
thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh hay không là do chủ nợ có bảo đảm
quyết định. Sẽ rất hiếm khi chủ nợ có bảo
đảm đồng ý để tài sản bảo đảm được sử dụng
phục vụ việc thực hiện phương án phục hồi
hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, dễ nhận
thấy sự mâu thuẫn trong chính quy định tại
khoản 1 Điều 53 bởi vì theo điểm b của
khoản này, nếu chủ nợ có bảo đảm không
đồng ý với việc sử dụng tài sản bảo đảm
trong quá trình thực hiện phương án phục hồi
kinh doanh thì có thể xử lý tài sản bảo đảm
khi nghĩa vụ bảo đảm đến hạn trong khi điểm
a khoản này dường như không cho phép chủ
nợ có bảo đảm xử lý tài sản bảo đảm nếu như
tài sản này cần thiết cho việc thực hiện thủ
tục phục hồi hoạt động kinh doanh. Thiết
nghĩ, các văn bản hướng dẫn áp dụng Luật
Phá sản phải làm sáng tỏ vấn đề này để tránh
các vướng mắc đáng tiếc có thể phát sinh từ
việc diễn giải khoản 1 Điều 53. Nếu chọn
giải pháp tạm hoãn xử lý tài sản bảo đảm
trong quá trình phục hồi kinh doanh thì cũng
nên đưa ra các tiêu chí rõ ràng để đánh giá
tính cần thiết được đề cập ở đây để cân bằng
lợi ích giữa các bên6.
Các khoản nợ được xác lập từ trước
Từ điểm b khoản 1 Điều 48, khoản 3
Điều 41, điểm c khoản 1 Điều 49 với Điều
51 của Luật Phá sản có thể suy ra rằng, đây
là các khoản nợ được xác lập trước khi tòa
án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản hay
ra quyết định mở thủ tục phá sản. Cần phải
xác định thời điểm xác lập, phát sinh quyền
đòi nợ (tức là nghĩa vụ thanh toán). Bộ luật
Dân sự chỉ nêu các căn cứ phát sinh nghĩa vụ
dân sự (Điều 281) chứ không quy định thời
điểm xác lập một nghĩa vụ dân sự. Thông
thường, thời điểm phát sinh quyền đòi nợ là
thời điểm của sự kiện pháp lý hay giao dịch
là căn cứ, nguồn gốc xác lập, phát sinh quyền
đòi nợ này. Thời điểm phát sinh quyền đòi
nợ khác với thời điểm đến hạn thanh toán của
quyền đòi nợ. Như vậy về nguyên tắc, nếu
sự kiện hay giao dịch pháp lý diễn ra trước
khi tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản hay ra quyết định mở thủ tục phá sản thì
quyền đòi nợ được xem là có từ trước cho dù
thời điểm đến hạn thanh toán của quyền đòi
nợ là khi nào đi chăng nữa.
Các ngoại lệ
Bù trừ nghĩa vụ
Theo quy định của Bộ luật Dân sự, bù trừ
nghĩa vụ là một trong các căn cứ chấm dứt
nghĩa vụ dân sự (Điều 374 và Điều 380). Về
bản chất, bù trừ nghĩa vụ thực hiện hai giao
dịch thanh toán các nghĩa vụ cùng loại đã đến
hạn của các bên đối với nhau dưới hình thức
rút gọn làm chấm dứt nghĩa vụ có giá trị thấp
hơn trong số hai nghĩa vụ được bù trừ. Khoản
1 và khoản 2, Điều 63 Luật Phá sản quy định,
sau khi Tòa án có quyết định mở thủ tục phá
sản, chủ nợ và doanh nghiệp mất khả năng
thanh toán được thực hiện việc bù trừ nghĩa
vụ đối với hợp đồng được xác lập trước khi
có quyết định mở thủ tục phá sản nếu được
sự đồng ý của quản tài viên hay doanh nghiệp
quản lý, thanh lý tài sản. Chẳng hạn một ngân
hàng là nơi doanh nghiệp mở tài khoản thanh
toán có thể bù trừ số dư trên tài khoản này với
các khoản vay mà ngân hàng đã cấp cho
doanh nghiệp trước đó.
Thanh toán các khoản nợ mới phát sinh
Theo quy định tại khoản 1 Điều 47 Luật
Phá sản, sau khi có quyết định mở thủ tục
phá sản, doanh nghiệp vẫn tiếp tục hoạt động
kinh doanh, nhưng phải chịu sự giám sát của
thẩm phán và quản tài viên hay doanh nghiệp
quản lý, thanh lý tài sản. Điều đó có nghĩa là
42
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 05(309) T3/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
6 Xem thêm Bùi Đức Giang, Chủ nợ có bảo đảm trong thủ tục phá sản theo Luật Phá sản năm 2014, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, số 1 (321), tháng 1/2015.
về nguyên tắc, doanh nghiệp có thể xác lập
các giao dịch mới trong đó có thể sẽ phát
sinh các khoản nợ mới của doanh nghiệp
(chẳng hạn đối với các bên bán hàng hóa hay
cung ứng dịch vụ cho doanh nghiệp). Tương
tự trong quá trình triển khai phương án phục
hồi hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp có
thể được cấp vốn mới (điểm e khoản 2 Điều
88 Luật Phá sản), chẳng hạn từ các tổ chức
tín dụng (thường là các chủ nợ hiện có). Điểm
c khoản 1 và khoản 3 Điều 49 quy định, sau
khi có quyết định mở thủ tục phá sản, việc
thanh toán khoản nợ phát sinh sau khi mở thủ
tục phá sản phải được sự đồng ý bằng văn bản
của quản tài viên hay doanh nghiệp quản lý,
thanh lý tài sản trước khi thực hiện. Tuy
nhiên, không có quy định nào trong Luật Phá
sản nêu rõ các căn cứ hay tiêu chí nào mà dựa
vào đó quản tài viên hay doanh nghiệp quản
lý, thanh lý tài sản có thể đưa ra quyết định
cho phép thanh toán một khoản nợ mới mà
chỉ đơn thuần quy định quản tài viên hay
doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản phải
báo cáo thẩm phán về nội dung trả lời của
mình. Yêu cầu phải xin phép trước khi thanh
toán khoản nợ mới là một điều đáng tiếc bởi
nó không tạo động cơ cho chủ nợ cũ hay mới
tham gia một cách “mặn mà” vào quá trình
phục hồi doanh nghiệp.
Cần lưu ý là chỉ có khoản nợ phát sinh
sau khi mở thủ tục phá sản nhằm mục đích
phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp mới được ưu tiên thanh toán khi
thanh lý tài sản của doanh nghiệp sau khi có
quyết định tuyên bố doanh nghiệp phá sản
(điểm c khoản 1 Điều 54).
Cuối cùng, Luật Phá sản vẫn thiếu vắng
quy định về việc xử lý các khoản nợ mới
được phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản và
được bảo đảm bằng tài sản của doanh
nghiệp. Nếu áp dụng tinh thần của Điều 53
Luật Phá sản có thể suy ra rằng, bên bảo đảm
có quyền xử lý tài sản bảo đảm khi nghĩa vụ
bảo đảm đến hạn theo quy định của hợp đồng
bảo đảm.
Trả lương cho người lao động
Điểm c khoản 1 Điều 49 cho phép doanh
nghiệp thực hiện việc trả lương cho người
lao động sau khi có quyết định mở thủ tục
phá sản nếu được sự đồng ý của quản tài viên
hay doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản.
Nếu kết hợp quy định này với điểm b khoản
1 Điều 54, điểm h khoản 1 Điều 70 và điểm
b khoản 1 Điều 101, có thể thấy luật đã phân
biệt tiền lương với các quyền lợi khác mà
người lao động được hưởng theo hợp đồng
lao động và thỏa ước lao động đã ký cũng
như theo pháp luật lao động, như trợ cấp thôi
việc, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động
hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động...
Nói cách khác, doanh nghiệp không được
phép thực hiện việc thanh toán các khoản
tiền ngoài lương này7.
Thanh toán nợ trong thủ tục phục hồi
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Hội nghị chủ nợ có toàn quyền quyết
định việc có triển khai thực hiện phương án
phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp hay không (Điều 87 và các điều tiếp
theo)8. Theo quy định tại khoản 1 Điều 92,
kể từ ngày Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ
thông qua phương án phục hồi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu lực,
việc cấm thanh toán các khoản nợ không có
bảo đảm và việc xin phép quản tài viên hay
doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản trước
khi thực hiện việc thanh toán khoản nợ phát
sinh sau khi mở thủ tục phá sản hay trả lương
cho người lao động áp dụng kể từ sau khi có
quyết định mở thủ tục phá sản sẽ tự động
43
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 05(309) T3/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
7 Xem thêm Bùi Đức Giang, Tác động của thủ tục phá sản tới người lao động theo quy định mới, Tạp chí Ngân hàng, số 22
tháng 11/2014.
8 Về thủ tục này, xem thêm Bùi Đức Giang, Một số điểm mới của Luật Phá sản 2014 nhìn từ góc độ thực tiễn, Tạp chí Ngân
hàng, số 15, tháng 8/2014.
chấm dứt. Nói cách khác, doanh nghiệp có
thể thực hiện việc thanh toán các khoản nợ
này một cách bình thường như trước khi mở
thủ tục phá sản.
2. Tạm hoãn việc truy cứu trách nhiệm
của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán
2.1. Tạm hoãn việc giải quyết một số vụ
việc
Tạm đình chỉ từ ngày tòa án thụ lý đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản
Theo quy định tại khoản 2 Điều 41,
trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày
tòa án thụ lý vụ việc phá sản, tòa án, trọng
tài phải “tạm đình chỉ việc giải quyết vụ việc
dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động có
liên quan đến nghĩa vụ tài sản mà doanh
nghiệp là một bên đương sự”. Biện pháp tạm
đình chỉ cũng được áp dụng cho việc giải
quyết phần dân sự trong vụ án hình sự, hành
chính liên quan đến nghĩa vụ tài sản mà
doanh nghiệp là một bên đương sự. Vụ việc
dân sự ở đây cần được hiểu là bao gồm cả vụ
án dân sự và việc dân sự theo tinh thần của
Điều 1 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Cần lưu ý là Luật Phá sản cũng như Bộ
luật Dân sự không đưa ra định nghĩa về
“nghĩa vụ về tài sản” nhưng nếu kết hợp các
điều từ Điều 51 đến Điều 58 của Luật Phá
sản về nghĩa vụ về tài sản, đặc biệt là khoản
3 Điều 51, có thể dễ nhận thấy nhà làm luật
coi các nghĩa vụ về tài sản là các khoản nợ,
quyền đòi nợ hay các nghĩa vụ có đối tượng
là một khoản tiền. Cách hiểu này cũng phù
hợp với tinh thần chung của Luật Phá sản.
Như vậy, kể từ thời điểm tòa án thụ lý đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản, các chủ nợ
không được kiện yêu cầu doanh nghiệp thực
hiện nghĩa vụ về tài sản và nếu như họ đã
khởi kiện trước đó thì các vụ kiện này sẽ tạm
thời bị đình chỉ.
Đình chỉ kể từ ngày tòa án ra quyết định
mở thủ tục phá sản
Việc tạm đình chỉ giải quyết vụ việc có
liên quan đến nghĩa vụ tài sản mà doanh
nghiệp là một bên đương sự được chuyển
thành việc đình chỉ kể từ ngày tòa án ra quyết
định mở thủ tục phá sản (khoản 2 Điều 71).
Tòa án, trọng tài đã ra quyết định tạm đình
phải ra quyết định đình chỉ và chuyển hồ sơ
vụ việc cho tòa án đang tiến hành thủ tục phá
sản để giải quyết.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 72, ngay
sau khi nhận được hồ sơ vụ việc do tòa án9
ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ việc
chuyển đến, tòa án đang tiến hành thủ tục
phá sản phải xem xét, quyết định nghĩa vụ
tài sản mà doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán phải thực hiện hoặc nghĩa vụ tài sản mà
đương sự khác phải thực hiện đối với doanh
nghiệp như sau:
- Trường hợp doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán phải thực hiện nghĩa vụ về
tài sản thì người được doanh nghiệp thực
hiện nghĩa vụ về tài sản có quyền yêu cầu
được thanh toán trong khối tài sản của doanh
nghiệp như một chủ nợ;
- Trường hợp bên đương sự phải thực
hiện nghĩa vụ về tài sản đối với doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán thì phải thanh toán
cho doanh nghiệp giá trị tương ứng với nghĩa
vụ tài sản đó.
Như vậy, tuy quy định này chưa thực sự
rõ ràng, song có thể hiểu nếu một bên được
tòa án đang tiến hành thủ tục phá sản ra
quyết định công nhận quyền được yêu cầu
doanh nghiệp thanh toán thì bên này sẽ được
ghi tên vào danh sách chủ nợ của doanh
nghiệp và việc thanh toán cho chủ nợ này
cũng sẽ chịu các ràng buộc liên quan đến
việc tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ thanh toán
như nêu ở trên.
44
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 05(309) T3/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
9 Quy định này vô tình bỏ quên trọng tài cũng là cơ quan có thẩm quyền tạm đình chỉ nêu tại khoản 2 Điều 41 Luật Phá sản.
2.2. Tạm hoãn việc thi hành án dân sự
về tài sản
Tạm đình chỉ từ ngày tòa án thụ lý đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản
Khoản 1 Điều 41 đặt ra nguyên tắc trong
thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày tòa án
thụ lý vụ việc phá sản, cơ quan thi hành án
dân sự phải tạm đình chỉ thi hành án dân sự
về tài sản mà doanh nghiệp là người phải thi
hành án, trừ bản án, quyết định buộc doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán bồi thường
về tính mạng, sức khỏe, danh dự hoặc trả
lương cho người lao động. Có thể thấy, đây
là một “đặc ân” nữa mà pháp luật dành cho
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, giúp
doanh nghiệp tạm thời bớt gánh nặng về mặt
tài chính, tăng hy vọng phục hồi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.
Đình chỉ kể từ ngày tòa án ra quyết định
mở thủ tục phá sản
Trường hợp tòa án ra quyết định mở thủ
tục phá sản, cơ quan thi hành án dân sự đã ra
quyết định tạm đình chỉ phải ra quyết định
đình chỉ và chuyển hồ sơ vụ việc cho tòa án
đang tiến hành thủ tục phá sản để giải quyết
(khoản 2 Điều 71).
Số phận của người được thi hành án phụ
thuộc vào việc có hay không có “quyết định
kê biên tài sản của doanh nghiệp [...] để bảo
đảm thi hành án”. Thực vậy, theo quy định
tại khoản 1 Điều 72, nếu đã có “bản án hay
quyết định của tòa án nhân dân đã có hiệu
lực pháp luật” và có quyết định kê biên tài
sản của doanh nghiệp để bảo đảm thi hành
án thì người được thi hành án “được thanh
toán như một chủ nợ có bảo đảm”, nếu
không thì người được thi hành án chỉ “được
thanh toán như một chủ nợ không có bảo
đảm”. Do khoản 3 Điều 71 Luật Thi hành án
dân sự năm 2008 (được bổ sung, sửa đổi năm
2014) coi việc kê biên tài sản của người phải
thi hành án là một biện pháp cưỡng chế thi
hành án, chứ không phải là một biện pháp
bảo đảm thi hành án10 nên cần hiểu việc kê
biên ở trong điều luật này theo tinh thần của
Luật Thi hành án dân sự. Hơn nữa, do các
biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng
trong quá trình giải quyết vụ án (khoản 1
Điều 99, Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 3
Điều 49 Luật Trọng tài thương mại năm
2010), tức là khi bản án, quyết định của tòa
án hay phán quyết của trọng tài chưa được
tuyên nên chủ nợ hưởng việc áp dụng các
biện pháp khẩn cấp tạm thời là kê biên tài sản
đang tranh chấp sẽ không được thanh toán
như một chủ nợ có bảo đảm. Thêm vào đó,
khoản 1 Điều 72 chỉ nói đến bản án, quyết
định của tòa án, chứ không đề cập đến phán
quyết của trọng tài và đây thực sự là một điều
đáng tiếc.
Về điểm này, cần lưu ý Luật Phá sản chỉ
đặt ra nguyên tắc chung về việc thanh toán
cho người được thi hành án. Cho dù người
được thi hành được thanh toán như chủ nợ
có bảo đảm hay chủ nợ không có bảo đảm
thì việc thanh toán này cũng sẽ chịu các ràng
buộc chung liên quan đến việc tạm hoãn thực
hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ có bảo
đảm hay không có bảo đảm như trình bày ở
trên. Nói cách khác, về nguyên tắc, người
được thi hành án sẽ chỉ được thanh toán sau
khi có quyết định tuyên bố doanh nghiệp phá
sản. Triết lý đằng sau việc hoãn thi hành án
chính là việc mọi chủ nợ cần được đối xử
như nhau và quyền lợi của họ sẽ được giải
quyết khi thanh lý tài sản của doanh nghiệp
bị tuyên bố phá sản11.
Một vấn đề khác đặt ra là liệu sẽ có xung
đột về mặt lợi ích giữa người được thi hành
án được thanh toán như một chủ nợ có bảo
45
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 05(309) T3/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
10 Theo quy định tại khoản 3 Điều 66 Luật Thi hành án dân sự, các biện pháp bảo đảm thi hành án bao gồm phong toả tài
khoản, tạm giữ tài sản, giấy tờ và tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản.
11 Edward Bailey and Hugo Groves, Corporate Insolvency - Law and Practice, sđd, para.36.144.
đảm với các bên nhận bảo đảm bằng tài sản
của doanh nghiệp hay không? Theo quy định
tại khoản 4 Điều 4 Nghị định số
163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của
Chính phủ về giao dịch bảo đảm được bổ
sung, sửa đổi năm 2012, trong trường hợp
giao dịch bảo đảm được giao kết hợp pháp
và có giá trị pháp lý với người thứ ba thì tòa
án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác
không được kê biên tài sản bảo đảm để thực
hiện nghĩa vụ khác của bên bảo đảm, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác. Pháp
luật về thi hành cho phép thực hiện việc kê
biên trong trường hợp bên cầm cố, thế chấp
là người phải thi hành án không còn tài sản
nào khác ngoài tài sản cầm cố hay thế chấp
hay có tài sản nhưng không đủ để thi hành
án, và giá trị của tài sản cầm cố hay thế chấp
lớn hơn giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm
và chi phí cưỡng chế thi hành án. Tuy vậy,
khi xử lý tài sản kê biên, bên nhận cầm cố
hay thế chấp được ưu tiên thanh toán sau khi
trừ các chi phí về thi hành án (khoản 3 Điều
47 và Điều 90 Luật Thi hành dân sự). Có thể
suy ra rằng, trong trường hợp này người
được thi hành án chỉ có quyền ưu tiên thanh
toán như một chủ nợ có bảo đảm đối với giá
trị phần tài sản còn lại sau khi thanh toán
nghĩa vụ được bảo đảm. Nói cách khác, vị
thế như chủ nợ có bảo đảm của người được
thi hành án chỉ thực sự có ý nghĩa trong
trường hợp tài sản của doanh nghiệp chưa
được sử dụng để bảo đảm nghĩa vụ của
doanh nghiệp với các chủ nợ khác.
3. Một số khía cạnh khác
Duy trì thời hạn của các hợp đồng đã
ký trước thời điểm mở thủ tục phá sản
Do khoản 3 Điều 41và điểm b khoản 1
Điều 48 Luật Phá sản quy định việc tạm hoãn
thực hiện thanh toán các khoản nợ của doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán, nên có thể
hiểu chủ nợ có khoản nợ có bảo đảm được
xác lập trước thời điểm tòa án thụ lý đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản hay có khoản nợ
không có bảo đảm được xác lập trước khi tòa
án ra quyết định mở thủ tục phá sản dù đã
đến hạn về nguyên tắc vẫn không thể yêu cầu
doanh nghiệp thanh toán. Nếu xuất phát từ
quy định tại điểm b khoản 1 Điều 53, theo
đó “đối với hợp đồng có bảo đảm chưa đến
hạn thì trước khi tuyên bố doanh nghiệp [...]
phá sản, tòa án nhân dân đình chỉ hợp đồng
và xử lý các khoản nợ có bảo đảm”, có thể
suy luận rằng, từ khi tòa án thụ lý đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản hay từ khi có quyết
định mở thủ tục phá sản đến khi tuyên bố
doanh nghiệp phá sản thì thời hạn của hợp
đồng vẫn được duy trì một cách bình thường
theo quy định của các bên trong hợp đồng.
Tuy nhiên, trong thực tế các hợp đồng
thương mại và tín dụng thường có điều
khoản quy định nghĩa vụ thanh toán một
khoản nợ sẽ lập tức đến hạn trong trường hợp
một bên mất khả năng thanh toán hay bị mở
thủ tục phá sản. Điều 61 và Điều 62 Luật Phá
sản chỉ đề cập trường hợp doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán chủ động chấm dứt hợp
đồng đang có hiệu lực, chứ không nêu rõ liệu
điều khoản này có hiệu lực hay không. Tuy
nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 426,
Bộ luật Dân sự “một bên có quyền đơn
phương chấm dứt thực hiện hợp đồng nếu
các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy
định”, nên về nguyên tắc giá trị pháp lý của
điều khoản này được pháp luật thừa nhận12.
Lãi suất phát sinh từ quyền đòi nợ
Một trong các điểm mới đáng ghi nhận
của Luật Phá sản so với quy định cũ là đã
dành riêng Điều 52 để xử lý vấn đề tiền lãi
của các khoản nợ của doanh nghiệp mất khả
46
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 05(309) T3/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
12 Xem thêm, Bùi Đức Giang, Pháp luật về thực hiện các hợp đồng đang có hiệu lực trong thủ tục phá sản, Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật, số 8(292), tháng 8/2012. Luật Phá sản 2014 vẫn giữ cách tiếp cận như Luật Phá sản 2004.
năng thanh toán. Theo đó, kể
từ ngày tòa án ra quyết định
mở thủ tục phá sản, các khoản
nợ được tiếp tục tính lãi theo
thỏa thuận nhưng được tạm
dừng việc trả lãi. Việc tạm
dừng thanh toán tiền lãi phù
hợp với quy định về việc tạm
hoãn thực hiện nghĩa vụ thanh
toán của doanh nghiệp nêu ở
trên.
Đối với khoản nợ mới phát
sinh sau khi mở thủ tục phá sản
đến thời điểm tuyên bố doanh nghiệp phá sản
thì tiền lãi của khoản nợ đó được xác định
theo thỏa thuận nhưng không trái với quy
định của pháp luật13. Kết hợp quy định này
với điểm c khoản 1 và khoản 3 Điều 49 Luật
Phá sản có thể thấy, nếu quản tài viên hay
doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản chấp
thuận việc thanh toán khoản nợ mới phát
sinh thì có thể thanh toán cả nợ gốc và nợ lãi.
Cuối cùng, cần lưu ý kể từ ngày ra quyết
định tuyên bố doanh nghiệp phá sản thì
khoản nợ không được tiếp tục tính lãi.
Thay đổi tính chất, phạm vi quyền đòi
nợ
Doanh nghiệp không được phép chuyển
khoản nợ không có bảo đảm thành khoản nợ
có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần bằng
tài sản của doanh nghiệp. Điều cấm này được
quy định tại điểm d khoản 1 Điều 48 Luật
Phá sản và được áp dụng kể từ ngày có quyết
định mở thủ tục phá sản. Mục đích của quy
định này là nhằm bảo đảm quyền của các chủ
nợ không có bảo đảm khác của doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán.
Ngoài ra, Luật Phá sản cũng cấm doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán từ bỏ quyền
đòi nợ sau khi có quyết định mở thủ tục phá
sản, nếu không việc từ bỏ này sẽ bị vô hiệu
(điểm c khoản 1 và khoản 2 Điều 48). Tuy
điều này không quy định rõ nhưng có thể
hiểu là doanh nghiệp và bên kia của hợp
đồng phát sinh quyền đòi nợ của doanh
nghiệp không được thỏa thuận việc doanh
nghiệp từ bỏ một phần hoặc toàn bộ quyền
đòi nợ. Quy định này hướng tới việc bảo toàn
tài sản của doanh nghiệp, vì lợi ích của các
chủ nợ còn lại.
Có thể thấy, đối với việc tạm hoãn thực
hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán, Luật Phá sản năm 2014 đã
đề cập cụ thể hơn và có tính khả thi cao hơn
nhiều so với quy định cũ. Tuy vậy, có thể
thấy ở một số khía cạnh, Luật Phá sản còn
khá dè dặt hay chưa đưa ra được giải pháp
thực sự rõ ràng. Hy vọng các văn bản hướng
dẫn thi hành Luật Phá sản năm 2014 sẽ giúp
khắc phục phần nào các hạn chế này n
47
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 05(309) T3/2016
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
13 Chẳng hạn theo quy định tại khoản 1 Điều 11 của Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, ban hành
kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước ngày 31/12/2001, như được bổ sung, sửa đổi,
mức lãi suất áp dụng đối với khoản nợ gốc quá hạn do tổ chức tín dụng ấn định và thoả thuận với khách hàng trong hợp
đồng tín dụng nhưng không vượt quá 150% lãi suất cho vay áp dụng trong thời hạn cho vay đã được ký kết hoặc điều
chỉnh trong hợp đồng tín dụng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phap_luat_ve_tam_hoan_thuc_hien_nghia_vu_thanh_toan_thu_tuc.pdf