Kho tàng văn hóa nghệ thuật dân tộc Khmer
là một giá trị độc đáo riêng trong ngôi nhà văn hóa
Việt Nam. Từ đó, việc giữ gìn và phát huy vốn giá
trị văn hóa ấy luôn nhận được sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước. Nhưng do giá trị văn hóa cộng
đồng dân tộc vô cùng phong phú và đa dạng nên
gặp phải nhiều vướng mắc trong lúc thực thi, cụ
thể chưa đáp ứng đúng mục tiêu như mong đợi. Vì
trước xu thế hội nhập, các trào lưu văn hóa mới
ồ ạt tiếp biến mạnh mẽ trong cộng đồng dân cư
nên việc giữ gìn và phát huy vốn giá trị văn hóa
truyền thống dân tộc trong giai đoạn hiện nay cần
phải có một chiến lược bền vững. Hội thảo “Nghệ
thuật Sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản
văn hóa dân tộc” được tổ chức tại Trường Đại học
Trà Vinh có thể xem là một sự kiện khởi sắc, thể
hiện sự bền vững ở góc độ thực thi công việc về
văn hóa tộc người Khmer. Các bài tham luận trong
hội thảo sẽ là những đóng góp có giá trị thực tiễn
để làm rõ vấn đề đặt ra. Riêng bài tham luận này
góp phần điểm lại sơ bộ hoạt động về công tác
nghiên cứu và làm rõ hoạt động phát huy giá trị
văn hóa nghệ thuật dân tộc Khmer tại đơn vị nhà
trường. Qua đó, thể hiện sự đồng tình trong công
tác đào tạo nguồn nhân lực có chuyên môn về văn
hóa dân tộc. Đặc biệt cần chú trọng tạo mọi điều
kiện nghiên cứu về loại hình văn hóa dân tộc đang
có nguy cơ bị mai một, khuyến khích việc đầu
tư phục dựng, sân khấu hóa hình thức biểu diễn
và vận dụng đặc điểm thuận lợi trong xu thế hội
nhập góp phần quảng bá giá trị văn hóa tộc người
Khmer đến với khu vực và thế giới. Có thể nhận
thấy việc chú trọng nghiên cứu về văn hoá Khmer
Nam Bộ đến thực tiễn phát huy các giá trị văn hoá
nghệ thuật dân tộc là một trong những mục tiêu
chiến lược quan trọng hàng đầu để đơn vị Trường
Đại học Trà Vinh có được nền tảng khoa học vững
chắc trong việc đào tạo nguồn nhân lực hiểu biết
sâu rộng về văn hoá tộc người Khmer cho địa bàn.
Đây cũng chính là mục tiêu và phương hướng
giúp nhà trường phấn đấu xây dựng Khoa Ngôn
ngữ - Văn hoá - Nghệ thuật Khmer Nam Bộ thành
khoa trọng điểm quốc gia góp phần vào sự nghiệp
giữ gìn và phát huy vốn giá trị văn hoá tộc người
trong cộng đồng dân tộc Việt Nam vào sự phát
triển chung của đất nước.
5 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 500 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát huy giá trị văn hoá nghệ thuật của đồng bào Khmer Nam Bộ trong đội ngũ cán bộ-Sinh viên tại trường đại học Trà Vinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014134 Soá 13, thaùng 3/2014 135
PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HOÁ NGHỆ THUẬT
CỦA ĐỒNG BÀO KHMER NAM BỘ TRONG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ - SINH VIÊN
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH
Sơn Cao Thắng1
Tóm tắt
Bài viết góp phần điểm lại sơ bộ công tác nghiên cứu các hoạt động phát huy giá trị văn hóa nghệ
thuật của đồng bào Khmer Nam Bộ trong đội ngũ cán bộ - sinh viên tại Trường Đại học Trà Vinh. Trong
đó, chú trọng hoạt động nghiên cứu và thực hành biểu diễn sân khấu Dù kê của Cán bộ - Sinh viên, đây
là một bước ngoặt mới, một phương pháp mới để chính bản thân nhà đào tạo và người được đào tạo có
cơ hội tiếp xúc, thâm nhập học tập và nghiên cứu sâu rộng văn hóa nghệ thuật dân tộc Khmer.
Từ khóa: Sân khấu Dù kê, Yeak Rom – Rô băm Khmer Nam Bộ, phát huy giá trị văn hóa nghệ
thuật Khmer.
Abstract
The paper is to review researches about the preservation and promotion of Southern Khmer cultural
art at Tra Vinh University. Researches about Du ke theatre at Tra Vinh University are an initial step for
teachers and learners to integrate and study Khmer culture.
Keywords: Du ke performance – Robam of Khmer Southern, promoting the cultural value of Khmer Art.
1 Ban Giới và Dân tộc, Trường Đại học Trà Vinh
1. Đặt vấn đề
Trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất
nước, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ
trương chính sách bảo tồn, phát huy và phát triển
văn hóa, xây dựng đời sống văn hóa trong vùng
đồng bào dân tộc thiểu số như Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa VIII về việc: “Xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc” và Chỉ thị 39/CT-TTg của Thủ tướng Chính
phủ về việc: “Đẩy mạnh các hoạt động văn hóa,
thông tin khu vực miền núi, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số”. Nhiệm vụ hàng đầu và cấp bách này
luôn được lãnh đạo Trường Đại học Trà Vinh quán
xuyến và thực thi kịp thời, thể hiện tính hợp lý cao
và đạt hiệu quả tối ưu trong công tác quản lý, điều
hành bộ máy của đơn vị. Việc thành lập các Phòng,
Ban và Khoa chức năng như Ban Giới và Dân tộc,
Khoa Ngôn ngữ - Văn hóa - Nghệ thuật Khmer
Nam Bộ phục vụ công tác nghiên cứu giảng dạy
văn hóa Khmer Nam Bộ tại Trường thể hiện tầm
nhìn chiến lược, góp phần thực thi mục tiêu của
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VIII và Chỉ thị 39/CT-TTg
của Thủ tướng Chính phủ. Để hoạt động này đạt
được hiệu quả cao nhất, việc nghiên cứu và thực
hành cho những lý luận nghiên cứu về văn hóa
Khmer Nam Bộ là một hoạt động có ý nghĩa to lớn
được thực hiện bởi đội ngũ cán bộ - sinh viên năng
động, đầy nhiệt huyết của nhà trường, góp phần
cùng đội ngũ cán bộ, các nhà nghiên cứu khoa học
và đông đảo những người quan tâm đến văn hóa
Khmer nói riêng và văn hóa cộng đồng các dân tộc
thiểu số Việt Nam nói chung, tìm ra giải pháp tháo
gỡ những vướng mắc trong lĩnh vực văn hoá dân
tộc để sự nghiệp đổi mới của nước nhà đạt được
những thành tựu mới.
2. Nghiên cứu văn hoá Khmer, một tầm nhìn –
một thế mạnh tại Trường Đại học Trà Vinh
Sự thuận lợi về yếu tố cư dân và địa bàn dân
tộc Khmer tập trung đông đảo tại Trà Vinh (chiếm
khoảng 31% dân số toàn tỉnh) là một trong những
thế mạnh lớn để từ đó Trường Đại học Trà Vinh
xây dựng mục tiêu và thực hiện các hoạt động
nghiên cứu, đào tạo đội ngũ cán bộ văn hóa Khmer
cho địa phương và khu vực. Nhiệm vụ này luôn
nhận được sự quan tâm lãnh chỉ đạo của lãnh đạo
Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh Trà Vinh, giúp Nhà
trường từng bước có sự định hình và phát huy đạt
hiệu quả công tác dân tộc và văn hóa dân tộc. Đội
ngũ cán bộ dân tộc trong đơn vị Nhà trường được
đào tạo chuyên môn, việc học tập và nghiên cứu
về văn hóa Khmer được đầu tư đáng kể. Các phân
môn chuyên ngành về văn hóa được cán bộ - giảng
viên nghiên cứu thành công, cùng với các mô hình
đồ dùng dạy học về văn hóa Khmer: Mô hình chùa
Khmer, mô hình đền Ăngkor Wat, khu trưng bày
vật dụng Khmer được kết hợp đưa vào giảng dạy
đạt hiệu quả cao.
Riêng công trình về văn hóa Khmer có sự
tham gia nghiên cứu của đông đảo giảng viên -
sinh viên của Nhà trường gồm các đề tài: “Kiến
trúc chánh điện truyền thống chùa Khmer Nam Bộ
ở TP Trà Vinh” thực hiện bởi nhóm sinh viên lớp
Đại học Văn hóa các Dân tộc Thiểu số Việt Nam
khóa 2009, đề tài “Đề xuất phương pháp dạy múa
Khmer tại Trường Đại học Trà Vinh” của giảng
viên Thạch Thị Omnara cũng đã đáp ứng thực tiễn
giảng dạy múa ở nhà trường trong giai đoạn hiện
nay, thể hiện tính hiệu quả trong quá trình truyền
dạy và tiếp nhận kiến thức (giảng viên – sinh viên),
tạo tính khả thi cao trong phân môn nghệ thuật
múa Khmer.
Nghệ thuật biểu diễn Khmer cũng được nghiên
cứu sâu rộng. Năm 2011, với dự án “Truyền dạy
nghệ thuật múa, hát Dù kê trong cộng đồng dân tộc
Khmer tại Trường Đại học Trà Vinh”, Ban Giới và
Dân tộc mong muốn tìm kiếm cơ hội hợp tác với
Quỹ Hỗ trợ Bảo tồn Nghệ thuật Văn hóa Dân gian
hỗ trợ cho sinh viên, cộng đồng người Khmer đang
sinh sống và làm việc tại địa phương có điều kiện
nghiên cứu và học tập về loại hình nghệ thuật đặc
biệt của dân tộc mình. Mặc dù dự án chưa nhận
được sự tài trợ nhưng đó là bước đầu cho những
thành công trong công tác nghiên cứu sau này. Năm
2013, việc nghiên cứu về văn hóa nghệ thuật dân
tộc càng được phát huy hơn khi dự án “Khôi phục
và truyền dạy nghệ thuật kịch múa Yeak rom – Rô
băm Khmer Nam Bộ, tại ấp Giồng Lức, xã Đa Lộc,
huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh” do đội ngũ cán
bộ Ban Giới và Dân tộc của Nhà trường nghiên
cứu, viết và nhận được sự tài trợ từ Quỹ Hỗ trợ
Bảo tồn Nghệ thuật Văn hóa Dân gian (CEEVN)
của Trung tâm Trao đổi Giáo dục với Việt Nam.
Hiện nay, dự án đang trong quá trình thực hiện hứa
hẹn đạt được kết quả như mong đợi.
3. Phát huy giá trị văn hoá nghệ thuật dân tộc
trong đơn vị Nhà trường
3.1. Các hoạt động văn nghệ quần chúng trong
học sinh - sinh viên
Ngoài công tác đào tạo chuyên môn, các hoạt
động văn - thể - mỹ của Nhà trường ngày càng có
sự tham gia đông đảo của sinh viên, cán bộ giáo
viên. Riêng công tác văn nghệ càng thể hiện sự
phong phú và đặc sắc hơn so với khu vực. Bởi đặc
điểm địa phương có sự cộng cư của cộng đồng tộc
người anh em Kinh, Khmer, Hoa nên gam màu
nghệ thuật ở đây được đặc trưng bằng những sắc
màu dân tộc. Hằng năm, các hoạt động văn nghệ
diễn ra đa dạng với những chủ đề cụ thể như: “Văn
nghệ chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11”,
“Văn nghệ mừng Đảng mừng xuân”, “Văn nghệ
ngày truyền thống học sinh, sinh viên 9/1”, văn
nghệ kết hợp với những hoạt động phong trào
trong kỷ niệm ngày thành lập Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh 26/3 – Những phong
trào hoạt động này phần lớn được phát động bởi
Đoàn Thanh niên và Phòng Công tác Học sinh –
Sinh viên của Nhà trường. Bên cạnh đó, các hoạt
động văn nghệ còn được các Khoa, Bộ môn trong
Trường chú trọng tổ chức cho sinh viên chuyên
ngành như “Get together” do Khoa Kinh tế - Luật
- Ngoại ngữ thực hiện thường niên vào tháng 10,
“Dấu ấn miệt vườn” của Khoa Quản trị Văn phòng
– Việt Nam học và Thư viện, Có thể nói trong
những sự kiện nêu trên phần lớn đều có sự góp
mặt của các tiết mục nghệ thuật Khmer - như một
nét văn hóa đặc thù của Trường Đại học Trà Vinh.
Song song đó, các hoạt động diễn ra thường xuyên
thể hiện tính đặc thù về văn hóa dân tộc Khmer
cũng được giữ gìn và phát huy: “Văn nghệ chào
mừng tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây”, các ngày
lễ hội lớn của đồng bào dân tộc Khmer như Lễ
Sen Đônta, lễ hội Ok Om Bok được Ban Giới
và Dân tộc cùng với Khoa Ngôn ngữ - Văn hóa
- Nghệ thuật Khmer Nam Bộ tổ chức hằng năm.
Ngoài ra, đơn vị nhà trường còn tham gia và đạt
được kết quả cao trong các hoạt động, phong trào
văn hóa nghệ thuật do các Sở, Ban, Ngành, Bộ tổ
chức: “Tham gia hội diễn văn nghệ quần chúng
Khmer lần thứ IV năm 2012” tại Trung tâm Văn
hóa tỉnh Trà Vinh đạt được bốn huy chương Vàng,
hai huy chương đồng; hội thi “Nghiệp vụ Sư phạm
- Văn nghệ - Thể thao toàn quốc” tại Hà Nội tháng
10/2013 đạt được một huy chương vàng, hai huy
chương bạc và năm huy chương đồng.
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014134 Soá 13, thaùng 3/2014 135
PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HOÁ NGHỆ THUẬT
CỦA ĐỒNG BÀO KHMER NAM BỘ TRONG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ - SINH VIÊN
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÀ VINH
Sơn Cao Thắng1
Tóm tắt
Bài viết góp phần điểm lại sơ bộ công tác nghiên cứu các hoạt động phát huy giá trị văn hóa nghệ
thuật của đồng bào Khmer Nam Bộ trong đội ngũ cán bộ - sinh viên tại Trường Đại học Trà Vinh. Trong
đó, chú trọng hoạt động nghiên cứu và thực hành biểu diễn sân khấu Dù kê của Cán bộ - Sinh viên, đây
là một bước ngoặt mới, một phương pháp mới để chính bản thân nhà đào tạo và người được đào tạo có
cơ hội tiếp xúc, thâm nhập học tập và nghiên cứu sâu rộng văn hóa nghệ thuật dân tộc Khmer.
Từ khóa: Sân khấu Dù kê, Yeak Rom – Rô băm Khmer Nam Bộ, phát huy giá trị văn hóa nghệ
thuật Khmer.
Abstract
The paper is to review researches about the preservation and promotion of Southern Khmer cultural
art at Tra Vinh University. Researches about Du ke theatre at Tra Vinh University are an initial step for
teachers and learners to integrate and study Khmer culture.
Keywords: Du ke performance – Robam of Khmer Southern, promoting the cultural value of Khmer Art.
1 Ban Giới và Dân tộc, Trường Đại học Trà Vinh
1. Đặt vấn đề
Trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất
nước, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ
trương chính sách bảo tồn, phát huy và phát triển
văn hóa, xây dựng đời sống văn hóa trong vùng
đồng bào dân tộc thiểu số như Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa VIII về việc: “Xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc” và Chỉ thị 39/CT-TTg của Thủ tướng Chính
phủ về việc: “Đẩy mạnh các hoạt động văn hóa,
thông tin khu vực miền núi, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số”. Nhiệm vụ hàng đầu và cấp bách này
luôn được lãnh đạo Trường Đại học Trà Vinh quán
xuyến và thực thi kịp thời, thể hiện tính hợp lý cao
và đạt hiệu quả tối ưu trong công tác quản lý, điều
hành bộ máy của đơn vị. Việc thành lập các Phòng,
Ban và Khoa chức năng như Ban Giới và Dân tộc,
Khoa Ngôn ngữ - Văn hóa - Nghệ thuật Khmer
Nam Bộ phục vụ công tác nghiên cứu giảng dạy
văn hóa Khmer Nam Bộ tại Trường thể hiện tầm
nhìn chiến lược, góp phần thực thi mục tiêu của
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VIII và Chỉ thị 39/CT-TTg
của Thủ tướng Chính phủ. Để hoạt động này đạt
được hiệu quả cao nhất, việc nghiên cứu và thực
hành cho những lý luận nghiên cứu về văn hóa
Khmer Nam Bộ là một hoạt động có ý nghĩa to lớn
được thực hiện bởi đội ngũ cán bộ - sinh viên năng
động, đầy nhiệt huyết của nhà trường, góp phần
cùng đội ngũ cán bộ, các nhà nghiên cứu khoa học
và đông đảo những người quan tâm đến văn hóa
Khmer nói riêng và văn hóa cộng đồng các dân tộc
thiểu số Việt Nam nói chung, tìm ra giải pháp tháo
gỡ những vướng mắc trong lĩnh vực văn hoá dân
tộc để sự nghiệp đổi mới của nước nhà đạt được
những thành tựu mới.
2. Nghiên cứu văn hoá Khmer, một tầm nhìn –
một thế mạnh tại Trường Đại học Trà Vinh
Sự thuận lợi về yếu tố cư dân và địa bàn dân
tộc Khmer tập trung đông đảo tại Trà Vinh (chiếm
khoảng 31% dân số toàn tỉnh) là một trong những
thế mạnh lớn để từ đó Trường Đại học Trà Vinh
xây dựng mục tiêu và thực hiện các hoạt động
nghiên cứu, đào tạo đội ngũ cán bộ văn hóa Khmer
cho địa phương và khu vực. Nhiệm vụ này luôn
nhận được sự quan tâm lãnh chỉ đạo của lãnh đạo
Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân tỉnh Trà Vinh, giúp Nhà
trường từng bước có sự định hình và phát huy đạt
hiệu quả công tác dân tộc và văn hóa dân tộc. Đội
ngũ cán bộ dân tộc trong đơn vị Nhà trường được
đào tạo chuyên môn, việc học tập và nghiên cứu
về văn hóa Khmer được đầu tư đáng kể. Các phân
môn chuyên ngành về văn hóa được cán bộ - giảng
viên nghiên cứu thành công, cùng với các mô hình
đồ dùng dạy học về văn hóa Khmer: Mô hình chùa
Khmer, mô hình đền Ăngkor Wat, khu trưng bày
vật dụng Khmer được kết hợp đưa vào giảng dạy
đạt hiệu quả cao.
Riêng công trình về văn hóa Khmer có sự
tham gia nghiên cứu của đông đảo giảng viên -
sinh viên của Nhà trường gồm các đề tài: “Kiến
trúc chánh điện truyền thống chùa Khmer Nam Bộ
ở TP Trà Vinh” thực hiện bởi nhóm sinh viên lớp
Đại học Văn hóa các Dân tộc Thiểu số Việt Nam
khóa 2009, đề tài “Đề xuất phương pháp dạy múa
Khmer tại Trường Đại học Trà Vinh” của giảng
viên Thạch Thị Omnara cũng đã đáp ứng thực tiễn
giảng dạy múa ở nhà trường trong giai đoạn hiện
nay, thể hiện tính hiệu quả trong quá trình truyền
dạy và tiếp nhận kiến thức (giảng viên – sinh viên),
tạo tính khả thi cao trong phân môn nghệ thuật
múa Khmer.
Nghệ thuật biểu diễn Khmer cũng được nghiên
cứu sâu rộng. Năm 2011, với dự án “Truyền dạy
nghệ thuật múa, hát Dù kê trong cộng đồng dân tộc
Khmer tại Trường Đại học Trà Vinh”, Ban Giới và
Dân tộc mong muốn tìm kiếm cơ hội hợp tác với
Quỹ Hỗ trợ Bảo tồn Nghệ thuật Văn hóa Dân gian
hỗ trợ cho sinh viên, cộng đồng người Khmer đang
sinh sống và làm việc tại địa phương có điều kiện
nghiên cứu và học tập về loại hình nghệ thuật đặc
biệt của dân tộc mình. Mặc dù dự án chưa nhận
được sự tài trợ nhưng đó là bước đầu cho những
thành công trong công tác nghiên cứu sau này. Năm
2013, việc nghiên cứu về văn hóa nghệ thuật dân
tộc càng được phát huy hơn khi dự án “Khôi phục
và truyền dạy nghệ thuật kịch múa Yeak rom – Rô
băm Khmer Nam Bộ, tại ấp Giồng Lức, xã Đa Lộc,
huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh” do đội ngũ cán
bộ Ban Giới và Dân tộc của Nhà trường nghiên
cứu, viết và nhận được sự tài trợ từ Quỹ Hỗ trợ
Bảo tồn Nghệ thuật Văn hóa Dân gian (CEEVN)
của Trung tâm Trao đổi Giáo dục với Việt Nam.
Hiện nay, dự án đang trong quá trình thực hiện hứa
hẹn đạt được kết quả như mong đợi.
3. Phát huy giá trị văn hoá nghệ thuật dân tộc
trong đơn vị Nhà trường
3.1. Các hoạt động văn nghệ quần chúng trong
học sinh - sinh viên
Ngoài công tác đào tạo chuyên môn, các hoạt
động văn - thể - mỹ của Nhà trường ngày càng có
sự tham gia đông đảo của sinh viên, cán bộ giáo
viên. Riêng công tác văn nghệ càng thể hiện sự
phong phú và đặc sắc hơn so với khu vực. Bởi đặc
điểm địa phương có sự cộng cư của cộng đồng tộc
người anh em Kinh, Khmer, Hoa nên gam màu
nghệ thuật ở đây được đặc trưng bằng những sắc
màu dân tộc. Hằng năm, các hoạt động văn nghệ
diễn ra đa dạng với những chủ đề cụ thể như: “Văn
nghệ chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11”,
“Văn nghệ mừng Đảng mừng xuân”, “Văn nghệ
ngày truyền thống học sinh, sinh viên 9/1”, văn
nghệ kết hợp với những hoạt động phong trào
trong kỷ niệm ngày thành lập Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh 26/3 – Những phong
trào hoạt động này phần lớn được phát động bởi
Đoàn Thanh niên và Phòng Công tác Học sinh –
Sinh viên của Nhà trường. Bên cạnh đó, các hoạt
động văn nghệ còn được các Khoa, Bộ môn trong
Trường chú trọng tổ chức cho sinh viên chuyên
ngành như “Get together” do Khoa Kinh tế - Luật
- Ngoại ngữ thực hiện thường niên vào tháng 10,
“Dấu ấn miệt vườn” của Khoa Quản trị Văn phòng
– Việt Nam học và Thư viện, Có thể nói trong
những sự kiện nêu trên phần lớn đều có sự góp
mặt của các tiết mục nghệ thuật Khmer - như một
nét văn hóa đặc thù của Trường Đại học Trà Vinh.
Song song đó, các hoạt động diễn ra thường xuyên
thể hiện tính đặc thù về văn hóa dân tộc Khmer
cũng được giữ gìn và phát huy: “Văn nghệ chào
mừng tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây”, các ngày
lễ hội lớn của đồng bào dân tộc Khmer như Lễ
Sen Đônta, lễ hội Ok Om Bok được Ban Giới
và Dân tộc cùng với Khoa Ngôn ngữ - Văn hóa
- Nghệ thuật Khmer Nam Bộ tổ chức hằng năm.
Ngoài ra, đơn vị nhà trường còn tham gia và đạt
được kết quả cao trong các hoạt động, phong trào
văn hóa nghệ thuật do các Sở, Ban, Ngành, Bộ tổ
chức: “Tham gia hội diễn văn nghệ quần chúng
Khmer lần thứ IV năm 2012” tại Trung tâm Văn
hóa tỉnh Trà Vinh đạt được bốn huy chương Vàng,
hai huy chương đồng; hội thi “Nghiệp vụ Sư phạm
- Văn nghệ - Thể thao toàn quốc” tại Hà Nội tháng
10/2013 đạt được một huy chương vàng, hai huy
chương bạc và năm huy chương đồng.
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014136 Soá 13, thaùng 3/2014 137
3.2. Hoạt động biểu diễn sân khấu Dù kê
Tháng 5 năm 2013, nhận được công văn số
88/CV-HNSSK ngày 10 tháng 4 năm 2013 của
Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam về việc tổ chức
“Liên hoan Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer lần
thứ nhất – 2013”, nhận thấy đây là cơ hội để cán
bộ và sinh viên ngành Văn hóa thuộc Khoa Ngôn
ngữ - Văn hóa - Nghệ thuật Khmer Nam Bộ tại
Trường có cơ hội được trau dồi học tập và phát huy
kỹ năng, sở trường biểu diễn nghệ thuật dân tộc,
Trường Đại học Trà Vinh đã mạnh dạn đăng ký dự
thi với tư cách đoàn nghệ thuật bán chuyên nghiệp.
Việc tiến hành xây dựng chương trình nghệ thuật
tham gia liên hoan nghệ thuật sân khấu Dù kê
Khmer được thực hiện bởi Ban Giới và Dân tộc,
đơn vị đặc thù của Nhà trường được giao nhiệm
vụ chuẩn bị nội dung, biên soạn tác phẩm và phối
hợp chặt chẽ với Khoa Ngôn ngữ - Văn hóa - Nghệ
thuật Khmer Nam Bộ tuyển chọn diễn viên ưu tú
từ trong đội ngũ sinh viên năng động, giàu lòng
nhiệt huyết vì nghệ thuật dân tộc của Nhà trường.
Về nội dung của vở diễn, một mặt chúng tôi
đã nghiên cứu về điều lệ và một số quy định về
việc xây dựng nội dung vở diễn mà Ban Tổ chức
đưa ra, đó là việc khuyến khích các tác phẩm tham
dự có nội dung nêu bật giá trị nhân văn, yêu nước,
cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, cuộc sống sinh động thời hội
nhập Đặc biệt khuyến khích các vở diễn có nội
dung về cuộc vận động học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh. Mặt khác, chúng tôi
dựa vào tình hình thực tế tại đơn vị vốn là cơ quan
sự nghiệp giáo dục nên nội dung thiết yếu của tác
phẩm tham dự lần này cần được xây dựng dựa trên
đề tài “Giáo dục và học tập” với chủ đề là “Chinh
phục những trở ngại trên con đường tìm tri thức”.
Tháng 7/2013, kịch bản “Abai kră kray – Đom lay
vich chia” – (Cạm bẫy học đường) của tác giả Sơn
Cao Thắng – Chuyên viên Ban Giới và Dân tộc
được Hội đồng Khoa học cấp Trường thông qua
ngày 7/8/2013. Đồng thời được Sở Văn hóa - Thể
thao và Du lịch tỉnh Trà Vinh cấp phép sử dụng
ngày 23/8/2013.
Tóm tắt nội dung vở ca kịch Dù kê “Cạm
bẫy học đường”
Thể hiện cuộc tranh đấu tư tưởng (sự quyết
tâm, lưỡng lự và bàng quan) trong con người trước
vấn đề học tập để tìm tri thức cho bản thân.
Vở ca kịch được tóm tắt như sau: Song Ha là
cậu ấm trong gia đình phú ông, luôn được thương
yêu chiều chuộng qua thời gian đã trở nên hư đốn.
Dù được phú ông - phú bà mời thầy về dạy chữ
nghĩa nhưng vẫn thường xuyên trốn học để đi bài
bạc. Trái ngược với hình ảnh này là hai chàng trai
nông thôn nghèo khó nhưng lại hiếu học đó là
Rot Tana và Via Sna. Biết được chân lý “học thầy
không tày học bạn”, gia đình phú ông đã tạo điều
kiện cho con mình được theo hai chàng trai lên
đường tầm sư học đạo để tìm tri thức. Con đường
tìm tri thức thật gian nan, cuộc chiến nội tâm trong
ba người họ được nghệ thuật hóa thành các thế
lực xấu rình rập, cái ác luôn bao vây... Do không
giữ được lập trường của bản thân nên một trong
ba người đã bị những tệ nạn trong xã hội lôi kéo.
Xung đột nội tâm nhân vật chỉ được giải quyết khi
bản thân những người không giữ được lập trường
đó gặp phải tai ương không lối thoát, khi đó ánh
sáng tri thức, lòng vị tha và tình thân sẽ là cầu nối
giúp họ vụt dậy và thoát khỏi. Vở ca kịch đề cao
vai trò của tri thức, tình yêu và hạnh phúc sẽ được
đền đáp cho những con người xứng đáng.
Với đặc trưng của sân khấu rằng các nhân vật
được xây dựng đều là các hình tượng điển hình,
mỗi nhân vật tượng trưng cho một cá tính, nhân
cách riêng biệt thể hiện trong tâm ý của tác giả
đồng thời đáp ứng tâm lý của đông đảo quần chúng
– khán giả. Vở “Cạm bẫy học đường” bật lên với
ba nhân vật đại diện cho ba luồng tư tưởng trái
ngược nhau:
- Hình tượng Rot Tana: thể hiện cho những
con người có lập trường vững vàng. Dù gặp bao
gian truân, thử thách nhưng anh vẫn giữ vững lập
trường để theo đuổi mục đích học tập đến cùng.
Đây là mẫu người đại diện cho sự quyết tâm trước
mọi công việc – kết quả sẽ đạt được như mong đợi.
- Hình tượng Via Sna: dù đã xác định được
mục đích của việc học, theo đuổi việc học nhưng
anh vẫn không qua được ải tình, thể hiện tính cách
của một con người lưỡng lự, dễ bị cám dỗ trước
thử thách – kết quả đạt được của cá nhân này chỉ là
hai bàn tay trắng.
- Hình tượng Song Ha: giàu có, chỉ thích
vui chơi không nghĩ đến tương lai. Đây là mẫu
người bàng quan, sống buông xuôi – kết quả gặp
nhiều tai ương và đau khổ trong cuộc sống.
Các nhân vật khác:
- Ông bà Sê thây: được xây dựng đối lập với
mọi khuôn khổ phú hộ thời xưa mà tuồng cổ
xây dựng, ở đây hình ảnh họ là người giàu có,
có lòng thương người, thường đi chùa lễ phật,
làm phước Nhưng họ không có phương pháp
dạy con, chỉ dùng đòn roi và nuông chiều. Đây
là mẫu người hảo tâm nhưng bất lực.
- Chằn tinh, Chằn nữ: thế lực đen tối đại
diện cho sức mạnh của các tệ nạn trong xã hội,
luôn luôn tìm cách lôi kéo con người rơi vòng
luẩn quẩn của sự vô tri.
- Hoàng tử, công chúa: trong vở diễn này chỉ
là hoá thân của thế lực xấu.
- Ây sây, cháu Ây sây: góp phần hướng con
người đến với chính nghĩa.
- Vai hề: đây là nhân vật độc đáo thể hiện cho
mẫu người với sự lạc quan trong tâm hồn, luôn
luôn tạo sảng khoái, thư giãn cho người xem
Vở diễn xây dựng trên nền tảng nội dung các
tuồng tích xưa, tư tưởng ở hiền gặp lành, cái thiện
luôn chiến thắng cái ác. Đây là vở diễn mang tính
chất xã hội, tích truyện phản ánh cuộc sống thời
đại. Mặc dù có những bước tiến chuyển mình so
với các vở diễn trước nhưng vở ca kịch này vẫn
đảm bảo được góc độ nghệ thuật của sân khấu Dù
kê Khmer Nam Bộ, ở chỗ tác giả vận dụng nguyên
tắc “bình cũ rượu mới”, “mượn cổ nói kim”, khía
cạnh tuy mới nhưng lại gần gũi, thực tế với cuộc
sống hiện đại, đặc biệt là đời sống sinh viên, phản
ánh lối sống và vấn đề học tập của sinh viên - học
sinh trong giai đoạn hiện nay.
Xét về cách xây dựng, vở diễn “Cạm bẫy học
đường” vẫn đảm bảo các yếu lĩnh trong nghệ thuật
sân khấu Dù kê như mở màn bằng bài hát Hum
rông, đây là làn điệu hát cúng tổ, ra mắt chào khán
giả mang tính chất tha thiết, đậm hồn dân tộc...
Các làn điệu hát trong vở diễn được tác giả và đạo
diễn thống nhất sử dụng đúng bài bản và đầy đủ
theo làn điệu bài ca dòng nhạc Bassắc như: Lôm
thu (thể hiện lần gặp gỡ đầu tiên), Lôm tâng
Các bài ca từ dòng nhạc Quảng, nhạc Tiều như:
Quảng smó trong bài “Vichia Tla thlai” thể hiện
sự quyết tâm để đạt được mục đích học tập.
Một số bài cũng được trích từ dòng nhạc
Mahôri như: Côlap Lămpua trong bài hát “Riệp
chom ví mean” thể hiện sự siêng năng của những
người giúp việc tại nhà phú ông trong âm điệu hát
du dương tuyệt vời.
Ken thop: đây là điệu hát mang phong cách
oai nghi được vai Song Ha thể hiện.
Bom phê clai: làn điệu Aday này cũng được
vận hành một cách hợp lý, đầy tính hài hước khi
nhân vật Apao trò chuyện phiếm với bà quản gia -
Ming Mach trong thời gian rảnh rỗi.
Balây phia-sa: làn điệu của bài hát than thở
giữa ông bà và phú ông về đứa con bất trị của mình.
Sen tria: làn điệu trong bài hát “Asôra” - nhân
vật Chằn tự giới thiệu về bản thân thể hiện sự dũng
mãnh của thế lực xấu.
Yắt khâng: làn điệu trong bài hát của Yắt
khâynây – nhân vật Chằn nữ tự giới thiệu về
bản thân.
Na kri: thể hiện niềm kiêu hãnh khi Chằn nữ
hóa thân trở thành người đẹp quý phái được như ý
nguyện: hoá thân thành tiên nữ hoặc là công chúa.
Sro môl sne ha: làn điệu thể hiện cho tình
cảm của những con người bị lôi kéo vào ải tình ái.
May uôn: một làn điệu vui tươi được nhân
vật Suvan Na Thiara - cháu gái của đạo sĩ thể hiện
trong bài hát dạo chơi vườn hoa.
Som phông s-mó: thể hiện cho tấm lòng
chân thành.
Mê om-bao cro-hom: thể hiện sự vui sướng
của bản thân khi đạt được mục đích tốt đẹp.
Chap chong rich – “bắt dế”, đây là làn điệu
giao duyên đặc sắc giữa đôi tình nhân đang lúc
yêu nhau.
Sêch Sôm: làn điệu thể hiện lòng kêu hãnh
đắc thắng được sử dụng cho thế lực xấu. Ở đây
thể hiện trong bài “Khôl cà som rach” – Mục đích
hoàn tất.
Phuôn ma lay: cá nhân thể hiện sự sám hối
trong đau thương và thất vọng.
Quảng hôk kăn, Phát cheay, Sen trea: là
những làn điệu hát dữ dằn, khoẻ mạnh, giận dữ
Ở trong vở diễn này, đây là lối hát đối đáp tỏ tình
của nhân vật Chằn và lời khước từ nhục mạ của
Suvan Na Thiara (thể hiện sự giận dữ).
Ngoài ra, còn có các làn điệu như: Chan sa
rai, Srây khâng, Thia sô, Chum reap Kết hợp
phần hát còn có lối, đối thoại, cười nói, ngâm thơ
độc đáo và sự uyển chuyển mềm mại theo từng
động tác múa minh họa của diễn viên. Tất cả hợp
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014136 Soá 13, thaùng 3/2014 137
3.2. Hoạt động biểu diễn sân khấu Dù kê
Tháng 5 năm 2013, nhận được công văn số
88/CV-HNSSK ngày 10 tháng 4 năm 2013 của
Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam về việc tổ chức
“Liên hoan Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer lần
thứ nhất – 2013”, nhận thấy đây là cơ hội để cán
bộ và sinh viên ngành Văn hóa thuộc Khoa Ngôn
ngữ - Văn hóa - Nghệ thuật Khmer Nam Bộ tại
Trường có cơ hội được trau dồi học tập và phát huy
kỹ năng, sở trường biểu diễn nghệ thuật dân tộc,
Trường Đại học Trà Vinh đã mạnh dạn đăng ký dự
thi với tư cách đoàn nghệ thuật bán chuyên nghiệp.
Việc tiến hành xây dựng chương trình nghệ thuật
tham gia liên hoan nghệ thuật sân khấu Dù kê
Khmer được thực hiện bởi Ban Giới và Dân tộc,
đơn vị đặc thù của Nhà trường được giao nhiệm
vụ chuẩn bị nội dung, biên soạn tác phẩm và phối
hợp chặt chẽ với Khoa Ngôn ngữ - Văn hóa - Nghệ
thuật Khmer Nam Bộ tuyển chọn diễn viên ưu tú
từ trong đội ngũ sinh viên năng động, giàu lòng
nhiệt huyết vì nghệ thuật dân tộc của Nhà trường.
Về nội dung của vở diễn, một mặt chúng tôi
đã nghiên cứu về điều lệ và một số quy định về
việc xây dựng nội dung vở diễn mà Ban Tổ chức
đưa ra, đó là việc khuyến khích các tác phẩm tham
dự có nội dung nêu bật giá trị nhân văn, yêu nước,
cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, cuộc sống sinh động thời hội
nhập Đặc biệt khuyến khích các vở diễn có nội
dung về cuộc vận động học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh. Mặt khác, chúng tôi
dựa vào tình hình thực tế tại đơn vị vốn là cơ quan
sự nghiệp giáo dục nên nội dung thiết yếu của tác
phẩm tham dự lần này cần được xây dựng dựa trên
đề tài “Giáo dục và học tập” với chủ đề là “Chinh
phục những trở ngại trên con đường tìm tri thức”.
Tháng 7/2013, kịch bản “Abai kră kray – Đom lay
vich chia” – (Cạm bẫy học đường) của tác giả Sơn
Cao Thắng – Chuyên viên Ban Giới và Dân tộc
được Hội đồng Khoa học cấp Trường thông qua
ngày 7/8/2013. Đồng thời được Sở Văn hóa - Thể
thao và Du lịch tỉnh Trà Vinh cấp phép sử dụng
ngày 23/8/2013.
Tóm tắt nội dung vở ca kịch Dù kê “Cạm
bẫy học đường”
Thể hiện cuộc tranh đấu tư tưởng (sự quyết
tâm, lưỡng lự và bàng quan) trong con người trước
vấn đề học tập để tìm tri thức cho bản thân.
Vở ca kịch được tóm tắt như sau: Song Ha là
cậu ấm trong gia đình phú ông, luôn được thương
yêu chiều chuộng qua thời gian đã trở nên hư đốn.
Dù được phú ông - phú bà mời thầy về dạy chữ
nghĩa nhưng vẫn thường xuyên trốn học để đi bài
bạc. Trái ngược với hình ảnh này là hai chàng trai
nông thôn nghèo khó nhưng lại hiếu học đó là
Rot Tana và Via Sna. Biết được chân lý “học thầy
không tày học bạn”, gia đình phú ông đã tạo điều
kiện cho con mình được theo hai chàng trai lên
đường tầm sư học đạo để tìm tri thức. Con đường
tìm tri thức thật gian nan, cuộc chiến nội tâm trong
ba người họ được nghệ thuật hóa thành các thế
lực xấu rình rập, cái ác luôn bao vây... Do không
giữ được lập trường của bản thân nên một trong
ba người đã bị những tệ nạn trong xã hội lôi kéo.
Xung đột nội tâm nhân vật chỉ được giải quyết khi
bản thân những người không giữ được lập trường
đó gặp phải tai ương không lối thoát, khi đó ánh
sáng tri thức, lòng vị tha và tình thân sẽ là cầu nối
giúp họ vụt dậy và thoát khỏi. Vở ca kịch đề cao
vai trò của tri thức, tình yêu và hạnh phúc sẽ được
đền đáp cho những con người xứng đáng.
Với đặc trưng của sân khấu rằng các nhân vật
được xây dựng đều là các hình tượng điển hình,
mỗi nhân vật tượng trưng cho một cá tính, nhân
cách riêng biệt thể hiện trong tâm ý của tác giả
đồng thời đáp ứng tâm lý của đông đảo quần chúng
– khán giả. Vở “Cạm bẫy học đường” bật lên với
ba nhân vật đại diện cho ba luồng tư tưởng trái
ngược nhau:
- Hình tượng Rot Tana: thể hiện cho những
con người có lập trường vững vàng. Dù gặp bao
gian truân, thử thách nhưng anh vẫn giữ vững lập
trường để theo đuổi mục đích học tập đến cùng.
Đây là mẫu người đại diện cho sự quyết tâm trước
mọi công việc – kết quả sẽ đạt được như mong đợi.
- Hình tượng Via Sna: dù đã xác định được
mục đích của việc học, theo đuổi việc học nhưng
anh vẫn không qua được ải tình, thể hiện tính cách
của một con người lưỡng lự, dễ bị cám dỗ trước
thử thách – kết quả đạt được của cá nhân này chỉ là
hai bàn tay trắng.
- Hình tượng Song Ha: giàu có, chỉ thích
vui chơi không nghĩ đến tương lai. Đây là mẫu
người bàng quan, sống buông xuôi – kết quả gặp
nhiều tai ương và đau khổ trong cuộc sống.
Các nhân vật khác:
- Ông bà Sê thây: được xây dựng đối lập với
mọi khuôn khổ phú hộ thời xưa mà tuồng cổ
xây dựng, ở đây hình ảnh họ là người giàu có,
có lòng thương người, thường đi chùa lễ phật,
làm phước Nhưng họ không có phương pháp
dạy con, chỉ dùng đòn roi và nuông chiều. Đây
là mẫu người hảo tâm nhưng bất lực.
- Chằn tinh, Chằn nữ: thế lực đen tối đại
diện cho sức mạnh của các tệ nạn trong xã hội,
luôn luôn tìm cách lôi kéo con người rơi vòng
luẩn quẩn của sự vô tri.
- Hoàng tử, công chúa: trong vở diễn này chỉ
là hoá thân của thế lực xấu.
- Ây sây, cháu Ây sây: góp phần hướng con
người đến với chính nghĩa.
- Vai hề: đây là nhân vật độc đáo thể hiện cho
mẫu người với sự lạc quan trong tâm hồn, luôn
luôn tạo sảng khoái, thư giãn cho người xem
Vở diễn xây dựng trên nền tảng nội dung các
tuồng tích xưa, tư tưởng ở hiền gặp lành, cái thiện
luôn chiến thắng cái ác. Đây là vở diễn mang tính
chất xã hội, tích truyện phản ánh cuộc sống thời
đại. Mặc dù có những bước tiến chuyển mình so
với các vở diễn trước nhưng vở ca kịch này vẫn
đảm bảo được góc độ nghệ thuật của sân khấu Dù
kê Khmer Nam Bộ, ở chỗ tác giả vận dụng nguyên
tắc “bình cũ rượu mới”, “mượn cổ nói kim”, khía
cạnh tuy mới nhưng lại gần gũi, thực tế với cuộc
sống hiện đại, đặc biệt là đời sống sinh viên, phản
ánh lối sống và vấn đề học tập của sinh viên - học
sinh trong giai đoạn hiện nay.
Xét về cách xây dựng, vở diễn “Cạm bẫy học
đường” vẫn đảm bảo các yếu lĩnh trong nghệ thuật
sân khấu Dù kê như mở màn bằng bài hát Hum
rông, đây là làn điệu hát cúng tổ, ra mắt chào khán
giả mang tính chất tha thiết, đậm hồn dân tộc...
Các làn điệu hát trong vở diễn được tác giả và đạo
diễn thống nhất sử dụng đúng bài bản và đầy đủ
theo làn điệu bài ca dòng nhạc Bassắc như: Lôm
thu (thể hiện lần gặp gỡ đầu tiên), Lôm tâng
Các bài ca từ dòng nhạc Quảng, nhạc Tiều như:
Quảng smó trong bài “Vichia Tla thlai” thể hiện
sự quyết tâm để đạt được mục đích học tập.
Một số bài cũng được trích từ dòng nhạc
Mahôri như: Côlap Lămpua trong bài hát “Riệp
chom ví mean” thể hiện sự siêng năng của những
người giúp việc tại nhà phú ông trong âm điệu hát
du dương tuyệt vời.
Ken thop: đây là điệu hát mang phong cách
oai nghi được vai Song Ha thể hiện.
Bom phê clai: làn điệu Aday này cũng được
vận hành một cách hợp lý, đầy tính hài hước khi
nhân vật Apao trò chuyện phiếm với bà quản gia -
Ming Mach trong thời gian rảnh rỗi.
Balây phia-sa: làn điệu của bài hát than thở
giữa ông bà và phú ông về đứa con bất trị của mình.
Sen tria: làn điệu trong bài hát “Asôra” - nhân
vật Chằn tự giới thiệu về bản thân thể hiện sự dũng
mãnh của thế lực xấu.
Yắt khâng: làn điệu trong bài hát của Yắt
khâynây – nhân vật Chằn nữ tự giới thiệu về
bản thân.
Na kri: thể hiện niềm kiêu hãnh khi Chằn nữ
hóa thân trở thành người đẹp quý phái được như ý
nguyện: hoá thân thành tiên nữ hoặc là công chúa.
Sro môl sne ha: làn điệu thể hiện cho tình
cảm của những con người bị lôi kéo vào ải tình ái.
May uôn: một làn điệu vui tươi được nhân
vật Suvan Na Thiara - cháu gái của đạo sĩ thể hiện
trong bài hát dạo chơi vườn hoa.
Som phông s-mó: thể hiện cho tấm lòng
chân thành.
Mê om-bao cro-hom: thể hiện sự vui sướng
của bản thân khi đạt được mục đích tốt đẹp.
Chap chong rich – “bắt dế”, đây là làn điệu
giao duyên đặc sắc giữa đôi tình nhân đang lúc
yêu nhau.
Sêch Sôm: làn điệu thể hiện lòng kêu hãnh
đắc thắng được sử dụng cho thế lực xấu. Ở đây
thể hiện trong bài “Khôl cà som rach” – Mục đích
hoàn tất.
Phuôn ma lay: cá nhân thể hiện sự sám hối
trong đau thương và thất vọng.
Quảng hôk kăn, Phát cheay, Sen trea: là
những làn điệu hát dữ dằn, khoẻ mạnh, giận dữ
Ở trong vở diễn này, đây là lối hát đối đáp tỏ tình
của nhân vật Chằn và lời khước từ nhục mạ của
Suvan Na Thiara (thể hiện sự giận dữ).
Ngoài ra, còn có các làn điệu như: Chan sa
rai, Srây khâng, Thia sô, Chum reap Kết hợp
phần hát còn có lối, đối thoại, cười nói, ngâm thơ
độc đáo và sự uyển chuyển mềm mại theo từng
động tác múa minh họa của diễn viên. Tất cả hợp
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014138 Soá 13, thaùng 3/2014 139
thành một tác phẩm hoàn chỉnh kết hợp với diễn
xuất của đội ngũ diễn viên là lực lượng sinh viên
– cán bộ có tâm huyết của Nhà trường trong Liên
hoan Nghệ thuật Sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ
lần thứ nhất được tổ chức vào tháng 11 năm 2013
tại Sóc Trăng. Sân khấu Dù kê - Lakhôn Bassắc
ngày nay không ngừng phát huy sáng tạo cái mới,
cái hay dựa trên nền cũ để loại hình nghệ thuật
dân tộc Khmer trở nên mới mẻ và hấp dẫn nhưng
vẫn rất đặc trưng cho vùng đất Nam Bộ giàu nghĩa
tình này.
4. Kết luận
Kho tàng văn hóa nghệ thuật dân tộc Khmer
là một giá trị độc đáo riêng trong ngôi nhà văn hóa
Việt Nam. Từ đó, việc giữ gìn và phát huy vốn giá
trị văn hóa ấy luôn nhận được sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước. Nhưng do giá trị văn hóa cộng
đồng dân tộc vô cùng phong phú và đa dạng nên
gặp phải nhiều vướng mắc trong lúc thực thi, cụ
thể chưa đáp ứng đúng mục tiêu như mong đợi. Vì
trước xu thế hội nhập, các trào lưu văn hóa mới
ồ ạt tiếp biến mạnh mẽ trong cộng đồng dân cư
nên việc giữ gìn và phát huy vốn giá trị văn hóa
truyền thống dân tộc trong giai đoạn hiện nay cần
phải có một chiến lược bền vững. Hội thảo “Nghệ
thuật Sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản
văn hóa dân tộc” được tổ chức tại Trường Đại học
Trà Vinh có thể xem là một sự kiện khởi sắc, thể
hiện sự bền vững ở góc độ thực thi công việc về
văn hóa tộc người Khmer. Các bài tham luận trong
hội thảo sẽ là những đóng góp có giá trị thực tiễn
để làm rõ vấn đề đặt ra. Riêng bài tham luận này
góp phần điểm lại sơ bộ hoạt động về công tác
nghiên cứu và làm rõ hoạt động phát huy giá trị
văn hóa nghệ thuật dân tộc Khmer tại đơn vị nhà
trường. Qua đó, thể hiện sự đồng tình trong công
tác đào tạo nguồn nhân lực có chuyên môn về văn
hóa dân tộc. Đặc biệt cần chú trọng tạo mọi điều
kiện nghiên cứu về loại hình văn hóa dân tộc đang
có nguy cơ bị mai một, khuyến khích việc đầu
tư phục dựng, sân khấu hóa hình thức biểu diễn
và vận dụng đặc điểm thuận lợi trong xu thế hội
nhập góp phần quảng bá giá trị văn hóa tộc người
Khmer đến với khu vực và thế giới. Có thể nhận
thấy việc chú trọng nghiên cứu về văn hoá Khmer
Nam Bộ đến thực tiễn phát huy các giá trị văn hoá
nghệ thuật dân tộc là một trong những mục tiêu
chiến lược quan trọng hàng đầu để đơn vị Trường
Đại học Trà Vinh có được nền tảng khoa học vững
chắc trong việc đào tạo nguồn nhân lực hiểu biết
sâu rộng về văn hoá tộc người Khmer cho địa bàn.
Đây cũng chính là mục tiêu và phương hướng
giúp nhà trường phấn đấu xây dựng Khoa Ngôn
ngữ - Văn hoá - Nghệ thuật Khmer Nam Bộ thành
khoa trọng điểm quốc gia góp phần vào sự nghiệp
giữ gìn và phát huy vốn giá trị văn hoá tộc người
trong cộng đồng dân tộc Việt Nam vào sự phát
triển chung của đất nước.
Tài liệu tham khảo
Đàm Văn Hiển, Trần Văn Bổn, Lê Hàm. 2012. Sân khấu dân gian. NXB Văn hóa dân tộc.
Đào Huy Quyền – Sơn Ngọc Hoàng – Ngô Khị. 2007. Nhạc khí dân tộc Khmer Sóc Trăng. Nxb
Tổng hợp Tp. HCM.
Hoàng Túc. 2011. Diễn ca Khmer Nam Bộ. NXB Thời đại.
Huỳnh Ngọc Trảng, Văn Xuân Chí, Hoàng Túc, Đặng Vũ Thị Thảo, Phan Thị yến Tuyết. 1987.
Người Khmer tỉnh Cửu Long. NXB Sở Văn hóa Thông tin Cửu Long.
Ngô Văn Tưởng. 2007. Báo cáo kết quả điều tra Di sản văn hóa phi vật thể dân tộc Khmer tỉnh
Trà Vinh. NXB Sở Văn hóa Thông tin Cửu Long.
Nhóm tác giả. Sân khấu truyền thống Khmer Nam Bộ. NXB Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Sóc Trăng
– Phân viện Văn hóa Nghệ thuật tại Thành phố Hồ Chí Minh
SÂN KHẤU DÙ KÊ KHMER NAM BỘ
BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN
Trần Thanh Tâm1
Tóm tắt
Bài viết giới thiệu nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ như là một loại hình nghệ thuật sân
khấu mới, vừa mang tính thống nhất, vừa có nét riêng biệt độc đáo, được hình thành và phát triển ngày
càng rõ nét trên địa bàn tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng từ những năm 20 thế kỷ XX. Hiện nay, sân khấu Dù
kê đang thiếu trầm trọng các kịch bản đương đại để dàn dựng; thiếu đội ngũ đội soạn giả, đạo diễn, diễn
viên, nhạc công trẻ để kế thừa, trong khi các thế hệ nghệ nhân, nghệ sĩ Khmer đã lớn tuổi; đặc biệt cả
nước chưa có trường đào tạo hệ chính quy, chuyên ngành diễn viên và nhạc công sân khấu Dù kê nên
loại hình nghệ thuật sân khấu Dù kê rất có nguy cơ bị mai một, từ đó tác giả đề xuất một số giải pháp
nhằm bảo tồn và phát triển sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ
Từ khóa: nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ, Dù kê, nghệ thuật sân khấu, Khmer Nam Bộ.
Abstract
Du ke theatre of Southern Khmer is a new theatrical art which retains both common and original
features. It has been formed and developed more distinctly in the provinces of Tra Vinh and Soc Trang
since the 1920s. Currently, there is a great shortage of modern Du ke scenarios, the inheritance of
young composers, directors, actors, actresses and musicians while the Khmer artists are getting older.
In addition, there still have no regular schools that train actors, actresses and musicians for Du ke
theatre. As a result, Du ke theatrical art is likely to fall into oblivion. Therefore, this paper is to propose
solutions to preserve and develop Du ke theatre of Southern Khmer.
Key words: Southern Khmer Du ke theatrical art, Du ke, theatrical art, southern Khmer.
1 Học viên lớp Cao học Văn hoá Khmer Nam Bộ, Khoá học
2012 - 2014
1. Mở đầu
Người Khmer Nam Bộ có quyền tự hào là dân
tộc ít người duy nhất ở Việt Nam có hai loại hình
sân khấu kịch hát dân tộc Rô băm và Dù kê. Riêng
sân khấu Dù kê đã được bảo tồn và phát triển trong
đời sống văn hoá xã hội của người Khmer Nam
Bộ đến nay gần tròn một thế kỷ, rất được người
Khmer Nam Bộ và nước bạn Campuchia yêu mến.
Trong những năm qua, có nhiều công trình
nghiên cứu khoa học, nhiều tác giả có bài viết,
tham luận về sân khấu Dù kê Nam Bộ. Nhìn chung
các công trình này chủ yếu mô tả về quá trình hình
thành và phát triển sân khấu Dù kê ở Nam Bộ từ
những năm 1920 đến nay; giới thiệu đôi nét về đặc
điểm nghệ thuật sân khấu Dù kê; một số bài viết về
thực trạng công tác bảo tồn sân khấu Dù kê; chưa
có nhiều công trình khoa học quan tâm nghiên
cứu về sự phát triển bền vững của sân khấu Dù kê
Khmer trong đời sống văn hoá tinh thần của người
Khmer Nam Bộ trong thời gian tới.
2. Nội dung
2.1. Đôi nét về Dù kê
Tỉnh Trà Vinh thuộc khu vực Đồng bằng
sông Cửu Long, có diện tích tự nhiên là 2.288,09
km2, tổng số dân là 1.012.648 người, trong đó
dân tộc Khmer là 320.392 người, chiếm 31,63%
(Số liệu của Cục Thống kê Trà Vinh năm 2011).
Người Khmer chủ yếu sống xen kẽ và tập trung
thành từng cụm dân cư theo phum sróc trên những
giồng cát cao. Trong quá trình cùng cộng cư trên
vùng đất tỉnh Trà Vinh, các dân tộc Kinh, Khmer
và Hoa luôn có truyền thống đoàn kết, gắn bó với
nhau trong khai phá thiên nhiên, chống giặc ngoại
xâm, lao động sản xuất, xây dựng xóm làng ngày
càng phát triển. Đặc biệt, quá trình giao lưu, tiếp
biến văn hoá lẫn nhau đã tạo cho người dân Khmer
ở Trà Vinh có một bản sắc văn hoá độc đáo, đa
dạng và phong phú trong nền văn hoá Việt Nam
thống nhất.
Hầu như bất cứ người dân Khmer nào ở tỉnh
Trà Vinh cũng biết thông thạo ít nhất một loại hình
nghệ thuật của dân tộc mình (âm nhạc, múa, sân
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phat_huy_gia_tri_van_hoa_nghe_thuat_cua_dong_bao_khmer_nam_b.pdf