- Hoàn thiện nội dung hoạch định
giá trị xã hội thông qua việc xây dựng
các chính sách về trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp: chủ động xây dựng
các chính sách về trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp (CSR – Corporation Social
Responsibility), khi có chính sách rõ ràng
quy định về đạo đức kinh doanh và các
trách nhiệm xã hội mà doanh nghiệp mong
muốn đóng góp sẽ giúp các doanh nghiệp
vạch ra định hướng và hoạch định được
các giá trị xã hội phù hợp trong giá trị tài
sản thương hiệu của doanh nghiệp mình.
- Hoàn thiện hoạch định chương trình
marketing và truyền thông thương hiệu
thông qua chiến thuật sử dụng các kênh
tiếp thị, truyền thông và công nghệ tương
tác hai chiều: doanh nghiệp logistics Việt
Nam nên tạm dừng việc hoạch định các
chương trình marketing đại trà mà cần phải
tăng cường kết nối thương hiệu của công ty
trên từng điểm tiếp xúc (khách hàng, nhà
đầu tư ) tức là xây dựng các chương trình
marketing có định hướng hơn, tập trung
hơn vào đối tượng khách hàng của doanh
nghiệp. Để hoạch định tốt các chương trình
marketing và truyền thông mang tính tương
tác hai chiều các doanh nghiệp cần nắm bắt
và sử dụng các kênh tiếp thị, truyền thông
mang tính tương tác hai chiều như: ứng
dụng trên các trang web, điện thoại di động,
thư điện tử và thậm chí cả tương tác trực
tiếp tại văn phòng giao dịch. Lợi thế của
các doanh nghiệp logistics là khách hàng
của họ chủ yếu là doanh nghiệp, nên hoàn
toàn có thể kiểm soát về số lượng, và việc
thực hiện tương tác hai chiều trong chương
trình marketing, truyền thông là hoàn toàn
có thể làm tốt hơn các doanh nghiệp hoạt
động trên thị trường người tiêu dùng.
Trong bối cảnh hiện nay, xây dựng
thương hiệu mạnh cho các doanh nghiệp
logistics trở thành một việc làm có ý nghĩa
quan trọng, có vai trò và tác động lớn đối
với sự phát triển của nền kinh tế.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 320 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển thương hiệu cho các doanh nghiệp logistics tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
26 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
PHÁT TRIỂN THƯƠNG HIỆU
CHO CÁC DOANH NGHIỆP LOGISTICS TẠI VIỆT NAM
Nguyễn Đăng Hải*, Nguyễn Văn Kiều†
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 4/3/2020
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 4/9/2020
Ngày bài báo được duyệt đăng: 25/9/2020
Tóm tắt: Với tác động từ yếu tố ngoại cảnh tạo áp lực đòi hỏi các doanh nghiệp (DN)
logistics cần phải nhanh chóng tìm ra các cách thức giúp nâng cao năng lực cạnh tranh
ưu việt, bền vững, mang dấu ấn riêng của DN. Hơn nữa các DN logistics thường cung cấp
những dịch vụ khá tương đồng nên để tạo ra điểm nhấn khác biệt thì việc xây dựng và sở
hữu một thương hiệu mạnh vượt trội sẽ là một giải pháp hiệu quả và bền vững trong chiến
lược cạnh tranh của DN. Bài viết đề cập đến chiến lược phát triển thương hiệu cho các DN
Logistics trong thời gian tới tại Việt Nam.
Từ khóa: Logistics; doanh nghiệp; thương hiệu; Việt Nam
* Báo Đại biểu Nhân dân
† Học viện Chính trị khu vực I
1. Logistics và thương hiệu doanh
nghiệp logistics
Ủy ban Kinh tế và xã hội ở châu Á
và Thái Bình Dương của Liên hiệp quốc
(ESCAP) có nêu: “logistics hay quản trị
chuỗi cung ứng là sự chuyển động đồng
bộ hóa những thứ đầu vào và đầu ra trong
sản xuất và giao hàng hóa và các dịch vụ
đến khách hàng”. Trong khi đó Hội đồng
quản trị logistics của Mỹ (CLM) có đưa ra
quan điểm: “logistics là quá trình lên kế
hoạch, thực hiện và kiểm soát hiệu quả, tiết
kiệm chi phí của dòng lưu chuyển và lưu
trữ nguyên vật liệu, hàng tồn, thành phẩm
và các thông tin liên quan từ điểm xuất xứ
đến nơi tiêu thụ, nhằm mục đích thỏa mãn
những yêu cầu của khách hàng. Dưới góc
độ quản trị chuỗi cung ứng, logistics là quá
trình tối ưu hoá về vị trí, lưu trữ và chu
ch uyển các tài nguyên/yếu tố đầu vào từ
điểm xuất phát đầu tiên là nhà cung cấp,
qua nhà sản xuất, người bán buôn, bán lẻ,
đến tay người tiêu dùng cuối cùng, thông
qua hàng loạt các hoạt động kinh tế.”
Trong Điều 233 Luật Thương mại
Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày
14/6/2005 và Nghị định 140/2007NĐ-CP của
Chính phủ có nêu: “Dịch vụ logistics là hoạt
động thương mại. Theo đó, thương nhân tổ
chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao
gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi,
làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác,
tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi kí mã
hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên
quan đến hàng hoá theo thoả thuận với khách
hàng để hưởng thù lao.”
Doanh nghiệp logistics là doanh
nghiệp kinh doanh thực hiện cung ứng
Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Mở Hà Nội 71 (9/2020) 26-30
27Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
một, một nhóm hoặc chuỗi các dịch vụ
khác nhau trong toàn bộ chuỗi cung ứng
dịch vụ logistics như: cho thuê kho bãi,
quản lý kho bãi, các dịch vụ vận chuyển
đường bộ nội địa, vận chuyển đường biển,
vận tải hàng hóa đường hàng không, dịch
vụ phân phối sản phẩm, giao hàng, các
hoạt động tư vấn hỗ trợ sản xuất và quản
lý theo đó, một doanh nghiệp dịch vụ
logistics chuyên nghiệp cần có các kiến
thức và tìm hiểu sâu về từng ngành nghề
lĩnh vực mà mình hướng đến bao gồm
quy trình sản xuất kinh doanh, các bước
trong quản lý hoạt động, nhu cầu về dịch
vụ logistics của từng ngành để cung cấp
được dịch vụ logistics “trọn gói” theo
mong muốn khác nhau của doanh nghiệp
khách hàng; Các doanh nghiệp logistics có
thể lên kế hoạch, triển khải thực hiện, và
đảm nhiệm cả khẩu kiểm soát và quản lý
quá trình vận chuyển, lưu kho, dự trữ các
loại hàng hóa, nguyên vật liệutheo nhu
cầu của khách hàng, đồng thời các doanh
nghiệp logictics còn có thể thực hiện kiêm
nhiệm luôn cả vai trò quản lý các thông tin
trong toàn bộ chuỗi logistics, giải quyết
các chứng từ và mọi vấn đề khó khăn có
thể nảy sinh trong quá trình thực hiện
Thương hiệu là biểu tượng khác biệt
nhằm mục đích xác định các hàng hóa
hoặc dịch vụ của người bán và để phân
biệt hàng hóa và dịch vụ này với hàng hóa
và dịch vụ của đối thủ cạnh tranh. Một số
điểm mấu chốt để nhận định đúng đắn về
thương hiệu doanh nghiệp bao gồm: (1)
Chỉ tồn tại trong nhận thức: tuy thương
hiệu được thể hiện thông qua một số dấu
hiệu vật lý nhưng bản thân TH chỉ nằm
trong suy nghĩ của nhân viên, khách hàng,
đối tác, cổ đông. (2) Ẩn chứa giá trị hoặc
cam kết mà khách hàng, đối tác, cổ đông
coi trọng tin tưởng và có khả năng chạm
tới cảm xúc của họ, làm cho họ cảm nhận
được uy tín của doanh nghiệp và ý nghĩa
tốt đẹp trong cuộc sống. (3) Có đặc tính
biến đổi theo thời gian.
Đối với các doanh nghiệp logistics,
các quyết định liên quan tới lựa chọn đối
tác cho một thương vụ thường phức tạp
và mức độ rủi ro cao. Hơn nữa đối với các
doanh nghiệp logistics cung cấp các dịch
vụ logistics tương tự nhau, do vậy thương
hiệu doanh nghiệp lúc này sẽ càng cần thiết
và khẳng định vai trò rất quan trọng đối
với doanh nghiệp. Đa phần thương hiệu
của doanh nghiệp logistics cũng chính là
thương hiệu của dịch vụ họ cung cấp.
Một số doanh nghiệp lớn với quy
mô và dịch vụ tách biệt đa dạng sẽ có
những thương hiệu dịch vụ nhỏ thuộc
doanh nghiệp, tuy nhiên, tên thương hiệu
của loại hình dịch vụ sẽ được đặt theo
thương hiệu doanh nghiệp đi cùng với
loại hình dịch vụ. Ví dụ như DHL sẽ có
DHL express, DHL Logistics, DHL parcel
& eCommerce hay như Kuehne + Nagel
thì chỉ đặt thương hiệu cho loại hình dịch
vụ mới nổi bật như KN FreightNet và KN
Login chứ không phải mọi loại dịch vụ
mà công ty cung cấp. Còn DB Schenker
được biết đến nhiều với DB Schenker rail
và DB Schenker Logistics. Khi xây dựng
thương hiệu doanh nghiệp cho doanh
nghiệp logistics, việc đầu tiên là phải chú
trọng đến thương hiệu doanh nghiệp, tiếp
sau đó là các thương hiệu dịch vụ con hay
gói dịch vụ, bởi vì thương hiệu doanh
nghiệp, tên tuổi của doanh nghiệp là yếu
tố quyết định tạo nên vị thế vững chắc cho
các thương hiệu dịch vụ con.
2. Phát triển thương hiệu của các
doanh nghiệp Logistics Việt Nam
Các doanh nghiệp logistics ở Việt
Nam tập trung chủ yếu tại 3 thành phố lớn là
Hà Nội, Hải Phòng và Hồ Chí Minh với tỷ lệ
lần lượt là “18,2%; 10,8% và 54 %. Hà Nội
và Hồ Chí Minh là hai thị trường tiêu thụ
28 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
lớn nhất cả nước, đồng thời là cửa ngõ giao
thông quan trọng với toàn khu vực miền
Đông, miền Tây Nam Bộ cũng như khu vực
miền Bắc. Hải Phòng giữ vị trí thứ 3, là nơi
có hệ thống cảng biển tương đối phát triển,
kết nối giao thông toàn bộ phía Bắc.
Các doanh nghiệp logistics Việt
Nam chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa,
nguồn vốn kinh doanh nhỏ nên còn gặp
nhiều hạn chế về khả năng tài chính trong
việc đầu tư mở rộng hoạt động, kinh doanh
bài bản và đào tạo năng lực quản lý và kỹ
năng làm việc chuyên nghiệp cho nhân
viên. Trong số doanh nghiệp logistics
đang hoạt động tại Việt Nam hiện nay
thì “các doanh nghiệp trong nước (88%),
10% là các doanh nghiệp liên doanh và chỉ
có 2% là doanh nghiệp có vốn nước ngoài.
Ngành logistics Việt Nam còn non
trẻ và Việt Nam cũng chưa có các doanh
nghiệp logistics có thương hiệu ở tầm vóc
quốc tế. Mặt khác, hoạt động xúc tiến và
các chương trình tiếp thị hình ảnh thương
hiệu là những hoạt động mới mẻ đối với
các doanh nghiệp logistics Việt Nam, các
doanh nghiệp chưa thực hiện và có làm thì
cũng làm chưa tốt, các doanh nghiệp quan
tâm chưa đúng mực và đúng cách trong
khi đây lại là nhân tố quan trọng giúp cho
khách hàng biết đến thương hiệu doanh
nghiệp, tin tưởng và sử dụng dịch vụ.
Các doanh nghiệp logistics Việt Nam
có quan tâm và có đầu tư cho việc hoạch định
chiến lược và thực hiện chiến lược xây dựng
TH cho doanh nghiệp mình. Minh chứng cụ
thể là các hoạt động xây dựng hình ảnh TH
với logo, khẩu hiệu, trang web Tuy nhiên,
vẫn còn nhiều công ty chưa xây dựng được
trang web riêng để giới thiệu và quản lý
hàng hóa trực tuyến. Một số công ty đã xây
dựng trang web nhưng thông tin còn chưa
nhiều, không đầu tư, cập nhật thường xuyên.
Phần lớn khách hàng của các công ty là do
đại lý nước ngoài chỉ định nên các doanh
nghiệp thường bị động trong việc cập nhật
thông tin và xây dựng hình ảnh trên trang
web. Điều này dẫn đến hệ quả hiện tại bất lợi
cho hình ảnh doanh nghiệp trong mắt khách
hàng, làm lu mờ hình ảnh, thương hiệu của
doanh nghiệp. Trong khi đó, các doanh
nghiệp logistics nước ngoài có mặt và phát
triển mạnh trên thị trường Việt Nam từ khá
lâu thông qua các liên doanh như Schenker
liên doanh với Gemadept, Lotte Sea liên
doanh YCH-Protrade Distripark,cùng với
các tên tuổi khác như Damco, DHL, Toll,
Linfox, CJ GLS, Sự có mặt khá lâu của
các tên tuổi logistics lớn tại thị trường Việt
Nam đã ít nhiều gây dựng được hình ảnh
của mình trong tâm trí các khách hàng lớn
tại Việt Nam.
Nếu chỉ xét việc xây dựng phát triển
thương hiệu trên khía cạnh xây dựng trang
web thì phần lớn DN logistics mới chỉ thực
hiện được mục tiêu duy nhất là giới thiệu
thông tin sơ bộ về DN hay liệt kê các loại
hình dịch vụ cung cấp, tuy nhiên trên các
trang web thấy thiếu sự chăm sóc cập nhật
thường xuyên, và chưa tích hợp các tiện ích
nhờ vào ứng dụng công nghệ giúp khách
hàng theo dõi đơn hàng, lịch tàu, ebooking,
theo dõi chứng từ Các doanh nghiệp
nhìn chung chưa xây dựng thương hiệu có
kết nối tới các nhu cầu của khách hàng và
thỏa mãn nhu cầu của họ để từ đó tạo dựng
những giá trị bền vững như: sự tin cây, sự
đánh giá cao, yêu thích từ phía khách hàng
dành cho thương hiệu của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, thị trường logistics Việt
Nam được đánh giá là thị trường đầy
tiềm năng và dự báo sẽ có sự cạnh tranh
mạnh mẽ trong tương lai giữa các doanh
nghiệp logistics trong nước với nhau, với
các doanh nghiệp nước ngoài và giữa các
doanh nghiệp nước ngoài với các doanh
nghiệp nước ngoài khác. Do đó, phát
29Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
triển thương hiệu trở nên quan trọng và
cấp bách đối với các doanh nghiệp trong
công việc kinh doanh. Chính vì thế các
doanh nghiệp logistics Việt Nam sẽ phải
tìm ra đường hướng xây dựng chiến lược
phát triển thương hiệu đúng đắn cũng như
thực hiện nó một cách có hiệu quả để phát
triển, mở rộng, nâng cao giá trị hơn nữa
cho thương hiệu tong kinh doanh để cạnh
tranh cùng các doanh nghiệp nước ngoài.
3. Một số giải pháp phát triển
thương hiệu cho doanh nghiệp logistics
của Việt Nam
Trong Báo cáo kho vận hiệu quả của
Ngân Hàng Thế giới năm 2014 có đưa ra
một số dự báo về thị trường logistics Việt
nam đến năm 2020 và 2030 như sau:
- Về cấu trúc của thị trường vận tải
hàng hóa, khối lượng hàng hóa của Việt
Nam theo phương thức vận tải được Ngân
hàng Thế giới dự báo đến năm 2030 như
sau: khối lượng hàng hóa theo đường bộ
đạt 640 triệu tấn, đường sắt đạt 47 triệu
tấn, đường thủy nội địa đạt 395 triệu tấn,
tầu biển ven bờ đạt 38 triệu tấn, hàng
không đạt 0,3 triệu tấn và tổng tất cả các
phương thức đạt 1.119 triệu tấn. Tỷ lệ tăng
trưởng hàng năm sẽ vào khoảng 4,8%.
- Tăng tỉ trọng các doanh nghiệp
logistics 2PL, 3PL, 4PL, 5PL. Dự báo
trong những năm tới, nhiều doanh nghiệp
nước ngoài lớn, trong đó có các doanh
nghiệp tầm cỡ khu vực và toàn cầu về dịch
vụ logistics sẽ tiếp tục gia nhập thị trường
khi Việt Nam mở cửa thị trường rộng hơn
theo cam kết gia nhập WTO và thực thi các
Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
Quyết định 200/QĐ-TTg ngày
14/2/2017 của Chính phủ về “phê duyệt
Kế hoạch hành động nâng cao năng lực
cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics
Việt Nam đến năm 2025”, đã xác định 6
nhóm nhiệm vụ chủ yếu, bao gồm: “1-
Hoàn thiện chính sách, pháp luật về dịch
vụ logistics; 2- Hoàn thiện kết cấu hạ
tầng logistics; 3- Nâng cao năng lực DN
và chất lượng dịch vụ; 4- Phát triển thị
trường dịch vụ logistics; 5- Đào tạo, nâng
cao nhận thức và chất lượng nguồn nhân
lực; 6- Các nhiệm vụ khác.”
Để phát triển thương hiệu của các
doanh nghiệp logistics Việt Nam, chúng
ta cần thực hiện một số giải pháp giúp các
doanh nghiệp hoàn thiện về quy trình các
giai đoạn xây dựng thương hiệu. Sau đây là
một số giải pháp bài viết đề xuất nhằm giúp
các nhà quản trị doanh nghiệp logistics Việt
Nam xác lập và hoàn thiện quy trình phát
triển thương hiệu doanh nghiệp phù hợp:
- Nâng cao nhận thức về thương hiệu
doanh nghiệp logistics và hoạch định chiến
lược thương hiệu doanh nghiệp logistics:
cần tổ chức bồi dưỡng, đào tạo nâng cao
kiến thức về thương hiệu, chiến lược thương
hiệu của doanh nghiệp logistics, thương hiệu
dịch vụ, thương hiệu trong thị trường doanh
nghiệp, hiểu về giá trị thương hiệu, mục tiêu
chiến lược thương hiệu, chương trình tiếp
thị thực hiện chiến lược thương hiệu, lãnh
đạo, kiểm soát thực hiện chiến lược thương
hiệu cho đội ngũ cán bộ chịu trách nhiệm
về làm thương hiệu để họ có thể xây dựng
được một quy trình phát triển thương hiệu
phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh
nghiệp. Việc bồi dưỡng và đào tạo có thể do
chính các doanh nghiệp chủ động tổ chức
trong nội bộ hoặc cử các cán bộ nhân viên
chuyên trách tham gia các khóa đào tạo,
các buổi hội thảo để chia sẻ kiến thức, kinh
nghiệm của các chuyên gia về thương hiệu,
xây dựng thương hiệu và chiến lược thương
hiệu do bên thứ ba tổ chức.
- Đào tạo, cập nhật và ứng dụng các
công cụ phân tích, nghiên cứu thị trường
để làm tốt hơn việc phân tích tình thế
30 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
marketing và chiến lược thương hiệu: các
doanh nghiệp cần phải có giải pháp đào
tạo, chia sẻ nhằm giúp nhân viên cập nhật
các công cụ mới, thấu hiểu và sử dụng
được các công cụ phân tích, nghiên cứu
thị trường để phân tích hiệu quả tình thế
marketing và chiến lược thương hiệu; từ
đó làm nền tảng chắc chắn cho việc xác
định, định hướng phát triển và mục tiêu
chiến lược thương hiệu của doanh nghiệp.
- Hoàn thiện nội dung hoạch định
giá trị, chia sẻ khách hàng thông qua việc
cải tiến nâng cao chất lượng dịch vụ,
phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ
logistics cung ứng, dần hướng tới việc
cung cấp trọn gói dịch vụ logistics. Các
doanh nghiệp cần phải xây dựng một kế
hoạch rõ ràng từng bước, qua mỗi giai
đoạn, chất lượng dịch vụ sẽ được nâng lên
ra sao và các loại hình dịch vụ mới nào
sẽ được cung cấp thêm cho khách hàng ở
mỗi giai đoạn để tiến tới mục tiêu cung
ứng được dịch vụ trọn gói cho khách hàng
sau một khoảng thời gian nhất định.
- Hoàn thiện nội dung hoạch định
giá trị xã hội thông qua việc xây dựng
các chính sách về trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp: chủ động xây dựng
các chính sách về trách nhiệm xã hội của
doanh nghiệp (CSR – Corporation Social
Responsibility), khi có chính sách rõ ràng
quy định về đạo đức kinh doanh và các
trách nhiệm xã hội mà doanh nghiệp mong
muốn đóng góp sẽ giúp các doanh nghiệp
vạch ra định hướng và hoạch định được
các giá trị xã hội phù hợp trong giá trị tài
sản thương hiệu của doanh nghiệp mình.
- Hoàn thiện hoạch định chương trình
marketing và truyền thông thương hiệu
thông qua chiến thuật sử dụng các kênh
tiếp thị, truyền thông và công nghệ tương
tác hai chiều: doanh nghiệp logistics Việt
Nam nên tạm dừng việc hoạch định các
chương trình marketing đại trà mà cần phải
tăng cường kết nối thương hiệu của công ty
trên từng điểm tiếp xúc (khách hàng, nhà
đầu tư) tức là xây dựng các chương trình
marketing có định hướng hơn, tập trung
hơn vào đối tượng khách hàng của doanh
nghiệp. Để hoạch định tốt các chương trình
marketing và truyền thông mang tính tương
tác hai chiều các doanh nghiệp cần nắm bắt
và sử dụng các kênh tiếp thị, truyền thông
mang tính tương tác hai chiều như: ứng
dụng trên các trang web, điện thoại di động,
thư điện tử và thậm chí cả tương tác trực
tiếp tại văn phòng giao dịch. Lợi thế của
các doanh nghiệp logistics là khách hàng
của họ chủ yếu là doanh nghiệp, nên hoàn
toàn có thể kiểm soát về số lượng, và việc
thực hiện tương tác hai chiều trong chương
trình marketing, truyền thông là hoàn toàn
có thể làm tốt hơn các doanh nghiệp hoạt
động trên thị trường người tiêu dùng.
Trong bối cảnh hiện nay, xây dựng
thương hiệu mạnh cho các doanh nghiệp
logistics trở thành một việc làm có ý nghĩa
quan trọng, có vai trò và tác động lớn đối
với sự phát triển của nền kinh tế.
Tài liệu tham khảo:
[1]. Nguyễn Thanh Thủy, Đặng Đình Đào
(2012), Một số vấn đề cơ bản về quản trị cảng
biển trong hệ thống Logistics, NXB Thống kê
[2]. Trần Hải Vân (2015), Thương mại điện
tử cách thức hữu hiệu giúp doanh nghiệp xây
dựng thương hiệu, Tạp chí Công thương số
6/2015.
[3]. Biinform Division (2017), Vietnam
Logistics Market 2016 Report, Biinform
Division.
[4]. Marquardt A.J., Golicic S.L., Davis
D.F. (2015), “The Current State of Logistics
Services Branding”. Springer, Cham
Địa chỉ tác giả: Báo Đại biểu Nhân dân
Email: hbkhoikhoa@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phat_trien_thuong_hieu_cho_cac_doanh_nghiep_logistics_tai_vi.pdf