Một số kiến nghị xây dựng khung pháp
lý điều chỉnh việc quản lý và phát triển
condotel
Thứ nhất, sửa đổi Luật Kinh doanh bất
động sản năm 2014, bổ sung thêm loại hình
"căn hộ du lịch nghỉ dưỡng (condotel), nhà
phố, biệt thự trong khu du lịch nghỉ dưỡng"
là loại bất động sản (có sẵn hoặc hình thành
trong tương lai) được đưa vào kinh doanh, để
phù hợp với tình hình thực tiễn phát triển sản
phẩm mới là condotel.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung Luật Nhà ở
năm 2014, Luật Xây dựng năm 2014, Luật
Du lịch năm 2017 để thống nhất quy chuẩn,
tiêu chuẩn đối với loại hình công trình căn
hộ condotel theo tiêu chuẩn phòng khách sạn
(không có nhà bếp riêng), căn hộ khách sạn
(có nhà bếp riêng). Đối với dự án, công
trình condotel mà các căn hộ ngoài sử dụng
để kinh doanh cho thuê lưu trú ngắn hạn còn
có thể sử dụng vào mục đích ở ổn định, lâu
dài và hình thành đơn vị ở thì phải đáp ứng
quy định, tiêu chuẩn, quy chuẩn về hạ tầng
kỹ thuật, hạ tầng xã hội (trường học, sinh
hoạt cộng đồng ) như đối với nhà ở chung
cư; đối với dự án, công trình condotel mà các
căn hộ chỉ sử dụng để kinh doanh cho thuê
lưu trú ngắn hạn và không hình thành đơn
vị ở thì có thể áp dụng quy định, tiêu chuẩn,
quy chuẩn về hạ tầng chung cư đối với công
trình khách sạn.
Thứ ba, sửa đổi, bổ sung quy định về
việc phân loại và cơ chế sử dụng đất hỗn hợp
(vừa sử dụng làm đất ở, vừa là đất thương
mại dịch vụ) và cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất đối với loại hình bất
động sản này.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 217 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển và quản lý Condotel - Cơ sở pháp lý và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của thị trường bất
động sản là sự bùng nổ của hàng loạt loại hình bất động sản mới
như condotel, officetel, hometel. Trong đó, condotel nhanh chóng
phát triển trở thành điểm sáng của thị trường bất động sản nghỉ
dưỡng. Từ năm 2015 đến cuối năm 2017, cả nước đã có 71 dự án
condotel, officetel được cấp phép với tổng số 25.639 căn hộ. Dự
kiến trong hai năm 2018 và 2019, trung bình mỗi năm sẽ có khoảng
hơn 20.000 căn condotel được tiếp tục mở bán1. Mặc dù vậy, khung
pháp lý cho việc kinh doanh, quản lý loại hình condotel này chưa
hoàn thiện, phát sinh rất nhiều vấn đề chưa giải quyết được.
1
Ngô Trung Hòa*
* TS. Giảng viên Học viện Cảnh sát nhân dân
Abstract
In recent years, along with the development of the real estate market,
there is an explosion of a series of new real estate modalities such
as condotel, officetel, hometel. In particular, condotel is in a rapid
growth as the bright spot of the resort real estate market. From
2015 to the end of 2017, there has been 71 condotel in nationwide,
the licensed officetel with a total of 25,639 apartments. It is
expected that in 2018 and 2019, more than 20,000 condotel units
will be publicly sold annual. However, the legal framework for the
business transaction, management of this type of condotel is not
complete, many issues have yet to be resolved
Thông tin bài viết:
Từ khóa: quản lý, kinh doanh condotel,
căn hộ khách sạn nghỉ dưỡng
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 26/05/2018
Biên tập : 16/06/2018
Duyệt bài : 13/06/2018
Article Infomation:
Keywords: condotel business and
management; condotel
Article History:
Received : 26 May 2018
Edited : 16 Jun 2018
Approved : 13 Jun 2018
PHÁT TRIỂN VÀ QUẢN LÝ CONDOTEL -
CƠ SỞ PHÁP LÝ VÀ THỰC TIỄN
1. Khái quát về condotel
Condotel là một loại hình căn hộ khách
sạn nghỉ dưỡng. Condotel là viết tắt của hai
từ Condominium (căn hộ) và Hotel (khách
sạn). Condotel được kiến thiết giống như
một khách sạn nhưng có chủ sở hữu riêng và
có đầy đủ phòng khách, phòng ngủ, bếp ăn,
phòng tắm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của
con người như một căn hộ cao cấp. Trong
condotel, có thể sử dụng bếp nấu nướng và
tất cả những tiện ích của một căn hộ chung
cư thông thường. Chủ sở hữu căn hộ trong
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
47Số 13(365) T6/2018
condotel có quyền ở, bán hoặc cho thuê. Như
vậy, condotel có cả hai chức năng sử dụng là
nhà ở và khách sạn. Nhưng cần phải thống
nhất cách hiểu về condotel là: một loại hình
khách sạn được xây dựng theo kết cấu của
căn hộ chung cư chứ không phải là việc sử
dụng hỗn hợp hai mục đích khách sạn và căn
hộ chung cư. Các dự án condotel hiện được
đầu tư xây dựng tập trung tại các đô thị du
lịch, ven biển và được quản lý, vận hành,
khai thác với chức năng chính là khách sạn
(lưu trú ngắn hạn và không hình thành đơn
vị ở).
Nếu như motel là một khách sạn được
thiết kế dành cho người đi xe mô tô, có chỗ
đỗ xe cho xe cơ giới các loại. Loại hình khách
sạn này được phát triển mạnh sau chiến tranh
thế giới II, để đáp ứng hệ thống đường cao tốc
lớn bắt đầu được phát triển trong những năm
đầu thế kỷ 20 ở nước Mỹ, khi các cuộc hành
trình đường bộ trở nên phổ biến hơn và nhu
cầu các địa điểm lưu trú qua đêm giá rẻ và
dễ tiếp cận, gần các tuyến đường chính dẫn
đến sự phát triển của khái niệm motel, nhưng
không làm thay đổi bản chất (khách sạn) của
nó. Cũng tương tự như khái niệm của motel,
condotel xây dựng để đáp ứng yêu cầu của
du khách về việc được nghỉ ngơi, du lịch tại
một phòng khách sạn có kết cấu của căn hộ
chung cư, để họ có thể sử dụng các tiện ích
tương tự của một căn hộ như nấu ăn, giặt giũ
phù hợp với nhu cầu du lịch gia đình đang đà
tăng trưởng và là xu thế du lịch hiện nay thì
condotel vẫn mang bản chất của khách sạn,
phục vụ cho khách du lịch lưu trú mà không
thể thay đổi bản chất này theo sự thay đổi kết
cấu phòng khách sạn.
So sánh condotel với căn hộ chung cư
thì có thể thấy một số điểm khác biệt sau:
về mục đích sử dụng: nếu căn hộ chung cư
được sử dụng với mục đích chính là để ở lâu
dài thì condotel lại sử dụng để cho khách
du lịch thuê trong thời gian họ du lịch. Về
2
cơ quan quản lý nhà nước thì khu chung cư
được quản lý bởi Ban Quản trị, Tổ dân phố,
UBND phường/xã; trong khi đó khu codotel
được quản lý bởi Ban quản lý Khu Du lịch,
các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch. Về
thủ tục quản lý hành chính dân cư: người
ở tại căn hộ chung cư được cấp hộ khẩu
thường trú hoặc sổ đăng ký tạm trú dài hạn,
trong khi đó người ở tại condotel thì khách
sạn phải khai báo tạm trú ngắn hạn cho du
khách. Về phí quản lý vận hành: người ở tại
căn hộ chung cư sẽ phải đóng phí quản lý
vận hành theo Luật Nhà ở và văn bản hướng
dẫn, trong khi đó đối với condotel, du khách
sẽ phải trả phí lưu trú tại khách sạn theo giá
khách sạn quy định. Về cách thức hoạt động:
condotel hoạt động theo mô hình timeshares
chia sẻ lợi nhuận ưu đãi. Ngoài ra, còn có
một số sự khác biệt về luật điều chỉnh:
condotel được điều chỉnh bởi Luật Du lịch,
Luật Doanh nghiệp, Luật Xây dựng còn căn
hộ chung cư được điều chỉnh bởi Luật Nhà ở,
Luật Đất đai; hay sự khác biệt về nghĩa vụ tài
chính: chủ sở hữu căn hộ phải đóng thuế đất
hàng năm đối với căn hộ của mình còn chủ
đầu tư phải đóng tiền thuế đất hàng năm đối
với toàn bộ khách sạn, các phòng khách sạn
không phải thực hiện nghĩa vụ đóng thuế2.
Hiện nay, trên thị trường có 3 mô hình
kinh doanh căn hộ nghỉ dưỡng chính, đó là:
i). Mô hình sở hữu kỳ nghỉ: với mô hình này
thì chủ đầu tư không bán căn hộ nghỉ dưỡng
cho khách hàng mà bán kỳ nghỉ trên hệ thống
quốc tế. Khi đầu tư vào mô hình này, khách
hàng có thể nghỉ tại dự án, các điểm du lịch
trên thế giới của cùng chủ đầu tư hoặc bán lại
kỳ nghỉ để kiếm lợi nhuận. ii). Mô hình cam
kết lợi nhuận: chủ đầu tư cam kết một khoản
lợi nhuận (từ 8-12%/năm) nhất định trong 5
năm hoặc 10 năm đầu. Và sau thời gian cam
kết sẽ chia sẻ trên kết quả kinh doanh thực tế
từ hoạt động kinh doanh cho thuê căn hộ. iii).
Mô hình không cam kết lợi nhuận: với mô
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
48 Số 13(365) T6/2018
hình này, khách hàng có thể linh hoạt khai
thác, sử dụng căn hộ của mình: để ở, tự vận
hành kinh doanh, ký gửi chủ đầu tư và chia
sẻ lợi nhuận theo lợi nhuận kinh doanh thực
tế của căn hộ3.
2. Thực trạng pháp luật điều chỉnh việc
quản lý, kinh doanh condotel
Ở Việt Nam, condotel là loại hình bất
động sản mới, phát triển chủ yếu ở các điểm
du lịch ven biển, là dạng khách sạn chung
cư và mỗi căn hộ đều có chủ sở hữu riêng.
Mặc dù tốc độ giao dịch tăng nhanh, được
quảng cáo là khả năng sinh lời hấp dẫn, tuy
nhiên, hiện nay loại bất động sản này chưa
được quy định trong bất cứ văn bản pháp
luật nào. Việc giao dịch, chuyển nhượng
condotel đang diễn ra sôi động nhưng thiếu
vắng khung pháp lý điều chỉnh, nên tiềm ẩn
không ít rủi ro.
Thực tế hiện nay cho thấy, đã có hàng
chục nghìn căn hộ nghỉ dưỡng condotel được
giao dịch, nhưng loại hình căn hộ này đang
gặp những vướng mắc sau đây:
Thứ nhất, chưa có quy định thống nhất
việc xác định condotel là loại hình nhà ở hay
kinh doanh. Đi kèm với loại hình này là khái
niệm "đất ở không hình thành đơn vị ở". Đây
là một khái niệm mới, chưa được ghi nhận
ở bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào,
kể cả Luật Đất đai năm 2013 và Luật Nhà ở
năm 2014. Luật Đất đai năm 2013 mới chỉ
xác định đất sử dụng để phát triển bất động
sản thương mại, dịch vụ là loại hình đất phi
nông nghiệp4, chưa có quy định cụ thể về chế
độ sử dụng.
Với khái niệm này, có thể hiểu, loại
hình này xác định mục đích sử dụng ở đây
là đất ở nhưng lại không thể ở được. Và, nếu
không ở được là đất sử dụng cho mục đích
sản xuất kinh doanh. Bản chất đây là những
dự án mà nhà đầu tư xin giao đất sản xuất
3 https://arena-camranh.com.vn/phan-tich-mo-hinh-kinh-doanh-condotel/
4 Điều 10 Luật Đất đai năm 2013.
5 Điểu 126 Luật Đất đai năm 2013.
kinh doanh để kinh doanh khách sạn, khu
nghỉ dưỡng - một hoạt động điển hình của
kinh doanh du lịch, nhưng khi tiến hành xây
dựng thì lại chào bán theo kiểu mua bán đứt
đoạn giống hoạt động kinh doanh bất động
sản thông thường.
Thứ hai, chưa có hướng dẫn quy định
về cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu căn hộ
và quyền sử dụng đất có thời hạn theo thời
hạn sử dụng đất của dự án cho khách hàng
mua căn hộ condotel.
Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, đất thương mại dịch vụ có thời hạn
là 50 năm nhưng hiện vẫn chưa có quy định
cụ thể liên quan đến condotel, là đất thương
mại, dịch vụ hay đất ở. Luật Du lịch năm
2017 sử dụng thuật ngữ căn hộ du lịch nhưng
không đề cập đến thuật ngữ condotel. Trong
khi condotel thường được xây dựng trên đất
kinh doanh dịch vụ mà chế độ sử dụng các
loại đất thương mại, dịch vụ được điều chỉnh
bởi Luật Đất đai năm 2013. Luật Đất đai năm
2013 quy định đất phi nông nghiệp là: đất
ở; đất khu công nghiệp, khu công nghệ cao;
khu kinh tế; đất cảng hàng không; đất thương
mại, dịch vụ.., nhưng chưa đề cập đến đất sử
dụng cho du lịch (sau đây gọi là đất du lịch).
Trong thời gian qua, ở một số địa
phương, chủ đầu tư công bố người mua căn hộ
condotel sẽ được cấp giấy chứng nhận quyền
sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ổn định lâu
dài. Việc làm này của chủ đầu tư là trái với
quy định hiện hành của Luật Đất đai năm 2013
(Luật quy định thời hạn sử dụng đất không
phải là đất ở là 50 năm hoặc 70 năm5). Luật
Đất đai năm 2013 không cho phép người mua
căn hộ condotel được quyền sử dụng đất du
lịch ổn định lâu dài; khác với các dự án nhà ở
là chủ đầu tư dự án cũng chỉ được giao đất có
thời hạn, nhưng người mua nhà ở trong dự án
thì được cấp giấy chứng nhận.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
49Số 13(365) T6/2018
Theo quy định của pháp luật hiện hành,
không có căn cứ để cấp giấy chứng nhận cho
từng căn hộ trong trường hợp này. Do đó,
việc UBND một số địa phương ghi nhận loại
đất “đất ở không hình thành đơn vị ở” và cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ)
cho loại đất này là chưa phù hợp với quy
định hiện hành6. Nếu cấp “sổ hồng” cho căn
hộ condotel thì sẽ gây thất thoát ngân sách
từ việc thu tiền sử dụng đất, các loại thuế
và góp phần phá vỡ quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất ở các địa phương. Việc làm này có
thể có lợi cho một vài nhà đầu tư nhưng lại
gây phương hại đến toàn xã hội.
Thứ ba, các quy định liên quan đến
kinh doanh mua bán chuyển nhượng condotel
chưa rõ ràng, với điều kiện bán sản phẩm
hình thành trong tương lai, bảo lãnh cho thuê
mua và đặc biệt là quy định bán căn hộ cho
người nước ngoài...
Phát triển dự án condotel, chủ đầu tư
có rất nhiều lợi thế về vốn. Với các dự án
này, chủ đầu tư bán căn hộ condotel cho
khách hàng nhằm mục đích huy động vốn để
thực hiện dự án theo phương thức tương tự
như bán nhà ở hình thành trong tương lai.
Thực hiện phương pháp bán hàng này, chủ
đầu tư có thể vừa thu hồi vốn đầu tư nhanh,
có thêm nguồn vốn bổ sung thay thế vốn vay
tín dụng, vừa được quyền kinh doanh căn hộ
condotel đã bán cho khách hàng. Mặc dù sau
đó, chủ đầu tư phải trả lợi nhuận cam kết cho
nhà đầu tư thứ cấp nhưng vẫn rất có lợi so
với đi vay ngân hàng. Bên cạnh đó, nếu như
đối với một dự án căn hộ chung cư thông
thường, chủ đầu tư phải đảm bảo dự án đã
xong móng và phải được Sở Xây dựng địa
phương đó xác nhận đủ điều kiện bán nhà
hình thành trong tương lai mới được mở bán
ra thị trường thì bất động sản nghỉ dưỡng lại
không chịu sự chi phối của điều kiện này, bởi
đây không phải một sản phẩm nhà ở.
6
Điều 5 Luật Kinh doanh bất động
sản năm 2014 quy định các loại bất động
sản được đưa vào kinh doanh bao gồm: "1.
Nhà, công trình xây dựng có sẵn của các tổ
chức, cá nhân; 2. Nhà, công trình xây dựng
hình thành trong tương lai của các tổ chức,
cá nhân; 3. Nhà, công trình xây dựng là tài
sản công được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cho phép đưa vào kinh doanh; 4. Các
loại đất được phép chuyển nhượng, cho thuê,
cho thuê lại quyền sử dụng đất theo quy định
của pháp luật về đất đai thì được phép kinh
doanh quyền sử dụng đất". Như vậy, trong
điều luật này, chưa có quy định liên quan đến
condotel. Chính sự thiếu vắng các quy định
của pháp luật đã khiến việc huy động vốn,
góp vốn đầu tư, đặt cọc giữ chỗ tại các dự án
condotel tiềm ẩn rủi ro rất lớn đối với khách
hàng. Trong trường hợp chủ đầu tư sử dụng
vốn sai mục đích, dự án chậm tiến độ, chủ
đầu tư không có năng lực phát triển dự án,
người mua căn hộ sẽ phải gánh chịu toàn bộ
thiệt hại.
Bên cạnh đó, hiện nay tồn tại hai kiểu
hợp đồng mua bán condotel: chủ đầu tư làm
hợp đồng mua bán nhà với khách hàng, sau
đó là hợp đồng thuê lại căn hộ; một hợp
đồng gộp chung hai loại nêu trên. Điều này
dẫn tới việc không thống nhất và cách vận
dụng khác nhau khi có tranh chấp mà thông
thường phần thiệt thuộc về khách hàng.
Mặt khác, do các căn hộ condotel được
sử dụng phục vụ du lịch, vì vậy, về nguyên
tắc hoạt động này chịu sự điều chỉnh của
Luật Du lịch. Theo quy định của Luật này, để
một khu du lịch đi vào hoạt động phải đảm
bảo nhiều yếu tố như dự án đã hoàn thiện,
đảm bảo phòng cháy chữa cháy, hoàn công
công trình và phải được thẩm định bởi cơ
quan quản lý du lịch xác nhận đủ điều kiện
đưa vào hoạt động. Như vậy, đối với các dự
án condotel, trong trường hợp dự án chưa
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
50 Số 13(365) T6/2018
hoàn thiện như các tiêu chí ở trên nhưng đã
giao dịch với khách hàng là chưa phù hợp
với pháp luật hiện hành7.
Hơn nữa, theo quy định của Luật Nhà ở
năm 2014, cá nhân là người nước ngoài chỉ
được mua nhà ở trong các dự án nhà ở thương
mại ngoài khu vực bảo vệ quốc phòng, an
ninh8. Điều này hạn chế rất lớn việc huy động
vốn của các chủ đầu tư khi thực hiện các dự
án xây dựng condotel, bởi một số cá nhân
người nước ngoài muốn giao kết hợp đồng
mua condotel để đầu tư lại vướng khung pháp
lý chưa quy định vấn đề này.
Thứ tư, việc áp dụng tính toán chỉ
tiêu kiến trúc kỹ thuật công trình có căn hộ
condotel hiện chưa rõ ràng, chưa có các quy
định, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia riêng, vì
thế gây khó khăn trong công tác quản lý,
đầu tư, xây dựng, quản lý vận hành với các
loại hình bất động sản này, đặc biệt là việc
áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn để lập quy
hoạch, thiết kế đối với các dự án vì không có
cơ sở áp dụng theo loại hình công trình nào
(nhà ở hay khách sạn) cho phù hợp. Nếu sử
dụng lâu dài (hình thành đơn vị ở) thì quy
hoạch phải gắn với cơ sở hạ tầng như trường
học, bệnh viện, dịch vụ, thương mại; Nếu
sử dụng lưu trú ngắn hạn (không hình thành
đơn vị ở) thì quy hoạch, thiết kế, quản lý vận
hành như công trình khách sạn.
3. Một số kiến nghị xây dựng khung pháp
lý điều chỉnh việc quản lý và phát triển
condotel
Thứ nhất, sửa đổi Luật Kinh doanh bất
động sản năm 2014, bổ sung thêm loại hình
"căn hộ du lịch nghỉ dưỡng (condotel), nhà
phố, biệt thự trong khu du lịch nghỉ dưỡng"
là loại bất động sản (có sẵn hoặc hình thành
trong tương lai) được đưa vào kinh doanh, để
phù hợp với tình hình thực tiễn phát triển sản
phẩm mới là condotel.
7 20180116144304695.htm
8 Điều 159 Luật Nhà ở năm 2014
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung Luật Nhà ở
năm 2014, Luật Xây dựng năm 2014, Luật
Du lịch năm 2017 để thống nhất quy chuẩn,
tiêu chuẩn đối với loại hình công trình căn
hộ condotel theo tiêu chuẩn phòng khách sạn
(không có nhà bếp riêng), căn hộ khách sạn
(có nhà bếp riêng).... Đối với dự án, công
trình condotel mà các căn hộ ngoài sử dụng
để kinh doanh cho thuê lưu trú ngắn hạn còn
có thể sử dụng vào mục đích ở ổn định, lâu
dài và hình thành đơn vị ở thì phải đáp ứng
quy định, tiêu chuẩn, quy chuẩn về hạ tầng
kỹ thuật, hạ tầng xã hội (trường học, sinh
hoạt cộng đồng) như đối với nhà ở chung
cư; đối với dự án, công trình condotel mà các
căn hộ chỉ sử dụng để kinh doanh cho thuê
lưu trú ngắn hạn và không hình thành đơn
vị ở thì có thể áp dụng quy định, tiêu chuẩn,
quy chuẩn về hạ tầng chung cư đối với công
trình khách sạn.
Thứ ba, sửa đổi, bổ sung quy định về
việc phân loại và cơ chế sử dụng đất hỗn hợp
(vừa sử dụng làm đất ở, vừa là đất thương
mại dịch vụ) và cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất đối với loại hình bất
động sản này.
Thứ tư, bổ sung quy định cho phép cá
nhân nước ngoài được mua căn hộ condotel
để đầu tư, nhằm tăng thêm tính thanh khoản
và bổ sung thêm nguồn vốn đầu tư phát triển
các dự án căn hộ condotel, tạo điều kiện cho
ngành du lịch phát triển bền vững.
Ngoài ra, đối với chủ đầu tư, việc
khách hàng mua các căn hộ condotel chỉ
là việc chi tiền để đặt phòng dài hạn tại
dự án trong tương lai. Với căn phòng thuê
dài hạn đó, khách hàng có thể để lại cho
chủ đầu tư để kinh doanh, cho thuê lại. Vì
vậy, cần sửa lại tên gọi của hợp đồng mua
bán căn hộ condotel thành hợp đồng thuê
phòng khách sạn cho đúng luật.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
51Số 13(365) T6/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phat_trien_va_quan_ly_condotel_co_so_phap_ly_va_thuc_tien.pdf