Phẫu thuật cắt nối khí quản tận - tận trong điều trị sẹo hẹp khí quản
          
        
            
            
              
            
 
            
                
                    Trong cắt nối khí quản tận – tận, nối sụn
nhẫn – khí quản hay khí quản – khí quản cho kết
quả sau phẫu thuật không có sự khác biệt.
Không có trường hợp nào xảy ra biến chứng
sớm như chảy máu, tràn khí dưới da hay bung
miệng nối. Có 5 trường hợp xảy ra biến chứng
muộn: mô hạt viêm, liệt dây thần kinh hồi quy
và tái hẹp.
Có 2 trường hợp mô hạt viêm ngay miệng
nối khí quản sau phẫu thuật 4 tuần.Chúng tôi
soi thanh khí quản cắt mô hạt và chấm
mitomycin, cho kết quả tốt. Năm 2009, Jyi Lin
Wong báo cáo nhân một trường hợp soi nong
khí quản bằng ống cứng và chấm mitomycin
cho kết quả tốt. Tác giả cho rằng mitomycin
giàm mô hạt viêm, ngăn ngừa tái hẹp khí quản
nhưng khi khí quản hẹp dạng màng và chưa
ảnh hưởng đến sụn. Tất cả trường hợp khi khâu
nối khí quản chúng tôi kết hợp chấm mitomycin
vào ngay miệng nối. Hiện nay vẫn chưa có
nghiên cứu nào đánh giá có khác biệt hay không
giữa nhóm chấm và không chấm mitomycin tại
miệng nối khí quản. Do đó cần có nghiên cứu
sâu hơn để làm rõ vấn đề này.
1 trường hợp liệt dây thần kinh hồi quy bên
trái, sau phẫu thuật bệnh nhân khàn giọng
nhưng không khó thở. Nội soi thanh khí quản
kiểm tra cho thấy liệt vận động dây thanh trái.
Miệng nối khí quản thoáng.
1 trường hợp hẹp miệng nối khí quản dạng
màng sau mổ 2 tuần, đường kính chỗ hẹp
khoảng 3mm. Chúng tôi tiến hành soi thanh
quản treo và nong miệng nối khí quản kết hợp
chấm mitomycin. Sau nong cho kết quả tốt. 1
trường hợp khác tái hẹp sau phẫu thuật 1 tháng.
Chúng tôi tiến hành soi nong và chấm
mitomycin 2 lần cách 2 tuần, nhưng không hiệu
quả. Bệnh nhân được tiến hành đặt stent
silicone.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
5 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 490 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Phẫu thuật cắt nối khí quản tận - tận trong điều trị sẹo hẹp khí quản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 336 
PHẪU THUẬT CẮT NỐI KHÍ QUẢN TẬN-TẬN 
TRONG ĐIỀU TRỊ SẸO HẸP KHÍ QUẢN 
Trần Phan Chung Thủy*, Trần Anh Bích** 
TÓM TẮT 
Sẹo hẹp khí quản là một di chứng do rất nhiều nguyên nhân như đặt nội khí quản, mở khí quản, chấn 
thương thanh khí quản Sẹo hẹp khí quản ảnh hưởng nặng nề tâm lý người bệnh và chất lượng cuộc sống là 
gánh nặng của gia đình và xã hội. 
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả điều trị sẹo hẹp khí quản bằng phẫu thuật nối khí quản tận – tận. 
Đối tượng nghiên cứu: Qua khảo sát 27 trường hợp sẹo hẹp thanh-khí quản được phẫu thuật cắt nối 17 
trường hợp nối khí quản-khí quản. 10 trường hợp nối sụn nhẫn- khí quản. tại khoa Tai Mũi Họng trong 2 năm 
(1/2009 đến 1/2011). Thiết kế nghiên cứu: thực nghiệm lâm sàng tiến cứu mô tả 
Kết quả: 27 trường hợp sẹo thanh khí quản, 5 nữ, 22 nam. Nguyên nhân chủ yếu do đặt nội khí quản 
(13/27). Đa số các trường hợp chiều dài đoạn hẹp từ 2-4cm (11/27). 2 trường hợp > 4cm. Kết quả ban đầu khả 
quan: Tỉ lệ rút ống thở được là 92.6%. 
Kết luận: Phẫu thuật cắt nối khí quản tận tận là phương pháp điều trị tuyệt vời cho bệnh hẹp thanh khí 
quản, bước đầu thu được kết quả khả quan. 
Từ khóa: Sẹo hẹp khí quản, nối khí quản tận-tận. 
ABSTRACT 
END TO END ANASTOMOSIS SURGERY FOR TRACHEAL STENOSIS 
Tran Phan Chung Thuy, Tran Anh Bich 
 * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 336 - 340 
Tracheal stenosis is difficult to treat and its etiologies are multiple; nowadays, the most common ones are 
postintubation or trauma. Tracheal stenosis affected psychological quality of life of patients, family and society. 
Objective: To evaluate results of surgery tracheal stenosis by end to end anastomosis . 
Patients: 27 cases tracheal stenosis were treated by surgery end to end anastomosis. 10 cases cricotracheal 
anastomosis and 17 cases end to end tracheal anastomosis in ENT department of Chợ Rẫy hospital for 2 years 
(1/2009 to 1/2011). Design: prospective study. 
Results: 27 cases of tracheal scar bar, 5 women, 22 men. The main cause by intubation (13/27). The 
majority of cases the length of the narrow 2-4cm (11/27). 2 cases> 4 cm. Decannulation rates as markers of 
success was 92.6% 
Conclusion: The strategy for treatment of airway stenosis is now well established as end to end anastomosis 
and success rates are high. 
Keywords: Tracheal stenosis, end to end anastomosis. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Sẹo hẹp khí quản là một di chứng do rất 
nhiều nguyên nhân như đặt nội khí quản, mở 
khí quản, chấn thương thanh khí quản Sẹo 
hẹp khí quản ảnh hưởng nặng nề tâm lý người 
bệnh và chất lượng cuộc sống là gánh nặng của 
* Khoa Tai Mũi họng, BV. Chợ Rẫy, 
Tác giả liên lạc: BS CKII Trần Phan Chung Thủy, ĐT: 0979917777; Email: chungthuytranphan@gmail.com 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 337
gia đình và xã hội. 
 Điều trị sẹo hẹp khí quản là khó khăn và 
thách thức hiện nay. Có nhiều phương pháp 
điều trị được áp dụng nhưng kết quả chưa cao. 
Điều này phụ thuộc vào vị trí, mức độ diễn tiến 
cũng như cơ địa của người bệnh, sự đánh giá 
đúng tổn thương và chọn phương pháp điều trị 
thích hợp. Trong các phương pháp điều trị thì 
cắt bỏ đoan hẹp và nối khí quản tận – tận là 
phương pháp hiệu quả. Kỹ thuật cắt nối khí 
quản lần đầu tiên được thực hiện bởi Conley 
năm 1962. Đó là kỹ thuật xử lý tổn thương do 
chấn thương (1,2). 
Ogura thực hiện kỹ thuật cắt nối khí quản 
cho 3 trường hợp, vẫn là tổn thương do chấn 
thương. Pearson và Looper năm 1975 báo cáo 6 
trường hợp cắt nối sụn nhẫn – khí quản. 
Từ 1/2009 đến 1/2011Khoa Tai Mũi Họng 
bệnh viện Chợ Rẫy đã thực hiện phẫu thuật cắt 
nối khí quản tận-tận cho 27 trường hợp, đạt 
được một số kết quả khả quan. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Đối tượng nghiên cứu 
Các bệnh nhân được chẩn đoán hẹp khí 
quản được điều trị tại khoa Tai Mũi Họng bệnh 
viện Chợ Rẫy trong thời gian 2 năm (1/2009 đến 
1/2011). 
Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu mô tả hàng loạt các trường hợp. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Các bệnh nhân được chẩn đoán sẹo hẹp khí 
quản điều trị tại khoa Tai Mũi Họng bệnh viện 
Chợ Rẫy. 
Nội soi thanh khí quản, chụp CT scan có cản 
quang vùng thanh khí quản . 
Sẹo hẹp khí quản > 6 tháng thỏa điều kiện 
- Hẹp khí quản đoạn cổ. 
- Sẹo hẹp bít kín hoàn toàn hoặc gần khí 
quản trên nội soi. 
- Hoặc đã điều trị sẹo hẹp khí quản bằng các 
phương pháp khác nhưng thất bại. 
Phương pháp phẫu thuật(7, 8) 
Rạch da ngang cổ 
Bóc tách bộc lộ khí quản 
Cắt đoạn hẹp 
Khâu nối khí quản tận – tận 
Chấm Mitomycin vào miệng nối khí quản 
Đặt ống dẫn lưu 
Đặt ống nuôi ăn 
Khâu da 
Khâu cằm ngực 
Hình 1. Phẫu thuật căt nối khí quản tận tận 
Hậu phẫu 
Rút nội khí quản ngày thứ 2. 
Rút dẫn lưu ngày thứ 3. 
Rút ống nuôi ăn ngày thứ 5. 
Đánh giá kết quả 
Nội soi thanh khí quản ống mềm kiểm tra 
- Sự di động dây thanh. 
- Tình trạng miệng nối khí quản. 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 338 
KẾT QUẢ 
Bảng 1: Phân bố bệnh nhân theo độ tuổi 
 Số trường hợp Tỷ lệ (%) 
<20 tuổi 3 11 
20–40 tuổi 20 74 
40–60 tuổi 4 15 
Tuổi trung bình 25 ± 9 tuổi (từ 17 – 57 tuổi), 
chủ yếu tập trung trong nhóm từ 20 – 40 tuổi. 
Bảng 2: Phân bố bệnh nhân theo giới tính 
 Số trường hợp Tỷ lệ (%) 
Nam 22 81,5 
Nữ 5 18,5 
Nam chiếm nhiều hơn nữ, gấp 4 lần nữ. 
Bảng 3: Nguyên nhân tổn thương gây sẹo hẹp khí 
quản 
 Số trường hợp Tỷ lệ (%) 
Đặt NKQ lâu ngày 13 48,2 
Mở khí quản 8 29,6 
Chấn thương/vết thương 6 22,2 
Đa số các trường hợp do đặt NKQ lâu ngày 
(13/27), kế đến do mở khí quản và chấn 
thương/vết thương vùng cổ. 
Bảng 4: Các thủ thuật/phẫu thuật đã can thiệp trước 
khi cắt nối 
 Số trường hợp Tỷ lệ (%) 
Soi nong 12 44,4 
Đặt ống Aboulker/ống T 5 18,5 
Ghép sụn 4 14,8 
Chưa can thiệp 11 40,7 
Do có trường hợp bệnh nhân được can thiệp 
thủ thuật/phẫu thuật trên 2 lần, nên tổng số các 
trường hợp trên 100%. Đa số các trường hợp 
bệnh nhân đã có can thiệp thủ thuật/phẫu thuật 
trước đó nhưng thất bại. 
Bảng 5: Số lần can thiệp thủ thuật/phẫu thuật trước 
đó 
 Số trường hợp Tỷ lệ (%) 
0 lần 11 40,7 
1 lần 8 29,6 
2 lần 5 18,5 
3 lần 3 11,2 
30% các trường hợp bệnh nhân đã can thiệp 
thủ thuật/phẫu thuật ≥ 2 lần. 
Bảng 6: Chiều dài đoạn hẹp 
 Số trường hợp Tỷ lệ (%) 
<2cm 3 11,1 
2-4cm 22 81,5 
>4cm 2 7,4 
Đa số các trường hợp chiều dài đoạn hẹp từ 
2 – 4cm. 
Bảng 7: Thời gian phát hiện tổn thương cho đến khi 
phẫu thuật 
 Số trường hợp Tỷ lệ (%) 
6tháng-1năm 3 11,1 
1-2năm 13 48,2 
2-3năm 7 26,0 
>3năm 4 14,7 
16/27 trường hợp thời gian phát hiện tổn 
thương cho đến khi phẫu thuật ≤ 2 năm. 
Bảng 8: Vị trí khâu nối trong cắt nối khí quản tận – 
tận 
 Số trường hợp Tỷ lệ (%) 
Nối sụn nhẫn – khí quản 10 37 
Nối khí quản – khí quản 17 63 
Bảng 9: Biến chứng muộn 
 Số trường hợp Tỷ lệ (%) 
Mô hạt viêm 2 7,4 
Liệt dây thần kinh hồi quy 1 3,7 
Tái hẹp 2 7,4 
BÀN LUẬN 
Tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu 25 ± 9 
tuổi (17 – 57 tuổi), chủ yếu tập trung trong nhóm 
từ 20 – 40 tuổi. Từ đó cho thấy nhóm bệnh nhân 
chủ yếu nằm trung độ tuổi lao động, ảnh hưởng 
nhiều đến bản thân, trở thành gánh nặng kinh tế 
cho gia đình và xã hội. Nam giới chiếm đa số, 
gấp 4 lần nữ. Tỉ lệ này phù hợp với tình hình 
thực tế tại bệnh viện Chợ Rẫy, với đa số các 
trường hợp đặt nội khí quản lâu ngày hay mở 
khí quản thường là do tai nạn giao thông, chủ 
yếu tập trung ở nam giới.(9,10) Theo một nghiên 
cứu năm 2001, Vurkmir đưa ra tỷ lệ nữ gấp 3 lần 
nam do kích thước thanh khí quản ở nữ nhỏ hơn 
nam giới nên có nguy cơ tổn thương cao hơn. 
Thêm vào đó có tác giả cho rằng estrogen là yếu 
tố thúc đẩy chính quá trình tổng hợp collagen, là 
nguyên liệu chính cho tiến trình lành vết thương 
hình thành mô sẹo (5,6). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 339
Đặt nội khí quản lâu ngày là nguyên nhân 
chính gây hẹp khí quản (chiếm 48,2%). Cơ chế 
chính gây ra tổn thương thanh khí quản sau đặt 
nội khí quản do áp lực bóng lên niêm mạc khí 
quản trong một khoảng thời gian(3). Áp lực bóng 
và thời gian đặt nội khí quản là hai yếu tố quyết 
định hình thành tổn thương hẹp khí quản. Một 
số nghiên cứu nội soi ghi hình theo dõi tác động 
của áp lực bóng lên niêm mạc khí quản, các nhà 
nghiên cứu đề nghị áp lực của bóng để mạch 
máu của niêm mạc thành khí quản lưu thông tốt 
là 25cmH2O. Bên cạnh cơ chế tổn thương do áp 
lực bóng nội khí quản, Vurkmir đã đề cập đến 
vai trò của ống nội khí quản gây ra tổn thương 
hẹp thanh khí quản. Do đó nhiều tác giả khuyến 
cáo áp lực bóng nên từ 20 – 30 cmH2O, nên xả 
bóng mỗi giờ trong thời gian gây mê phẫu thuật 
và mỗi 4 – 8 giờ trong thời gian thở máy qua nội 
khí quản, lựa chọn ống nội khí quản phù hợp. 
Ngoài ra nên rút nội khí quản càng sớm càng tốt 
và nếu không thể rút nội khí quản nên mở khí 
quản sớm cho bệnh nhân (4). 
16/27 trường hợp có can thiệp thủ 
thuật/phẫu thuật trước, các can thiệp thủ 
thuật/phẫu thuật thường là soi nong, đặt ống 
Aboulker/ống T và ghép sụn. Có trường hợp 
bệnh nhân đã được can thiệp trên 3 lần, soi nong 
sau đó đặt ống T và ghép sụn nhưng vẫn bị tái 
hẹp. Số lần can thiệp thủ thuật/phẫu thuật lên 
khí quản càng nhiều, càng gây nhiều khó khăn 
trong phẫu thuật cắt nối khí quản tận – tận. 
Theo Klinik fuur Viszeral tại Đức nghiên cứu 
ảnh hưởng của chỉ khâu nối và kỹ thuật cắt nối 
khí quản trên cừu, cho thấy kỹ thuật cắt nối khí 
quản đóng vai trò quan trọng trong vấn đề tái 
hẹp hơn là chỉ khâu nối. 
Mặc dù phẫu thuật tái tạo và cắt nối khí 
quản đã xuất hiện từ thế kỷ 19, thế nhưng phẫu 
thuật về khí quản vẫn phát triển chậm hơn so 
với các phẫu thuật khác ở vùng cổ ngực. Đến 
giữa thế kỷ 20, Belsey cho rằng sẹo hẹp nhỏ hơn 
2cm mới có thể cắt nối khí quản thành công. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chiều dài đoạn 
hẹp chủ yếu từ 2 – 4cm chiếm 81,5%. Có 1 
trường hợp hẹp trên 5cm, chúng tôi phẫu thuật 
phối hợp với khoa Ngoại Lồng Ngực vì cần phải 
bóc tách đoạn khí quản ngực, nhằm giảm căng 
tại chỗ khâu nối khí quản tận – tận. Đối với 
những trường hợp hẹp khí quản đoạn dài cần 
phải cắt nhiều vòng sụn khí quản, khi khâu nối 
sẽ rất căng có nguy cơ đứt chỗ khâu nối khí 
quản. Theo tác giả Charles W. Cumming, cắt cơ 
trên móng cho phép thanh quản hạ thấp xuống 
4-5cm. Trong nghiên cứu của chúng tôi, những 
trường hợp chiều dài đoạn hẹp trên 2cm thường 
được cắt cơ trên móng. Trên thực tế hiện nay, 
chúng tôi có thể tiến hành cắt nối khí quản có 
chiều dài đoạn hẹp trên 2cm cho kết quả khả 
quan, do chúng tôi giảm căng tại chỗ khâu nối: 
bóc tách khí quản đầu dưới đoạn hẹp đủ rộng, 
cắt cơ trên móng, khâu gập cổ. 
Thời gian phát hiện tổn thương cho đến khi 
phẫu thuật kéo dài có thể là do bệnh lý đi kèm 
(chấn thương sọ não chưa ổn định, tổn thương 
các cơ quan khác kèm theo) hoặc đã can thiệp 
thủ thuật/phẫu thuật nhiều lần nhưng thất bại. 
Những trường hợp này gây không ít khó khăn 
trong phẫu thuật cắt nối do xơ dính nhiều, đặc 
biệt trong bóc tách khí quản và nguy cơ tổn 
thương dây thần kinh hồi quy và mạch máu lớn 
vùng cổ ngực. 
Trong cắt nối khí quản tận – tận, nối sụn 
nhẫn – khí quản hay khí quản – khí quản cho kết 
quả sau phẫu thuật không có sự khác biệt. 
Không có trường hợp nào xảy ra biến chứng 
sớm như chảy máu, tràn khí dưới da hay bung 
miệng nối. Có 5 trường hợp xảy ra biến chứng 
muộn: mô hạt viêm, liệt dây thần kinh hồi quy 
và tái hẹp. 
Có 2 trường hợp mô hạt viêm ngay miệng 
nối khí quản sau phẫu thuật 4 tuần.Chúng tôi 
soi thanh khí quản cắt mô hạt và chấm 
mitomycin, cho kết quả tốt. Năm 2009, Jyi Lin 
Wong báo cáo nhân một trường hợp soi nong 
khí quản bằng ống cứng và chấm mitomycin 
cho kết quả tốt. Tác giả cho rằng mitomycin 
giàm mô hạt viêm, ngăn ngừa tái hẹp khí quản 
nhưng khi khí quản hẹp dạng màng và chưa 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 340 
ảnh hưởng đến sụn. Tất cả trường hợp khi khâu 
nối khí quản chúng tôi kết hợp chấm mitomycin 
vào ngay miệng nối. Hiện nay vẫn chưa có 
nghiên cứu nào đánh giá có khác biệt hay không 
giữa nhóm chấm và không chấm mitomycin tại 
miệng nối khí quản. Do đó cần có nghiên cứu 
sâu hơn để làm rõ vấn đề này. 
1 trường hợp liệt dây thần kinh hồi quy bên 
trái, sau phẫu thuật bệnh nhân khàn giọng 
nhưng không khó thở. Nội soi thanh khí quản 
kiểm tra cho thấy liệt vận động dây thanh trái. 
Miệng nối khí quản thoáng. 
1 trường hợp hẹp miệng nối khí quản dạng 
màng sau mổ 2 tuần, đường kính chỗ hẹp 
khoảng 3mm. Chúng tôi tiến hành soi thanh 
quản treo và nong miệng nối khí quản kết hợp 
chấm mitomycin. Sau nong cho kết quả tốt. 1 
trường hợp khác tái hẹp sau phẫu thuật 1 tháng. 
Chúng tôi tiến hành soi nong và chấm 
mitomycin 2 lần cách 2 tuần, nhưng không hiệu 
quả. Bệnh nhân được tiến hành đặt stent 
silicone. 
KẾT LUẬN 
Phẫu thuật cắt nối khí quản tận – tận bước 
đầu cho kết quả khả quan. Ngoài 1 trường hợp 
khan tiếng do liệt dây thần kinh hồi quy, 1 
trường hợp tái hẹp phải đặt stent thì 92,6% 
trường hợp thành công sau phẫu thuật cắt nối 
khí quản tận – tận. Bệnh nhân có thể trở về cuộc 
sống sinh hoạt thường ngày. 
Những trường hợp độ dài đoạn hẹp nhiều 
từ 2 – 5 cm hiện nay có thể thực hiện được dựa 
trên nguyên tắc giảm căng tại chỗ khâu nối khí 
quản: bóc tách khí quản đầu dưới đoạn hẹp đủ 
rộng, cắt cơ trên móng, khâu gập cổ. 
Tất cả các trường hợp mô hạt viêm sau phẫu 
thuật cắt nối khí quản, chúng tôi xử trí bằng soi 
cắt mô hạt viêm và chấm Mitomycin, bước đầu 
cho kết quả tốt. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bailey BJ (1993). Head and neck surgery – otolaryngology. 
658- 671. 
2. Lindholm CE (1995). Pathophysiology of larygotracheal 
stenosis some importan anatomical dimensions.Acta oto- 
rhino- larygologica belg. 4. 319- 321 
3. Guendert DV. (1994). Laryngotracheal stenosis. november. 30. 
1994. 
4. Đặng Hiếu Trưng (1990). Hẹp thanh khí quản do sẹo: lâm 
sàng và điều trị. 
5. Deborahp. Wilson (1999). Subglottic stenosis. april 14. 
6. Guendert DV, (1994). Laryngotracheal stenosis. November. 
30. 1994. 
7. Laccourreye H, Pech A, Piquet JJ, Haguenauer JP, Narcy Ph., 
Junien Lavilauroy C, Gehanno P, Guerrier B, Thomassin JM 
(1985). Les sténoses laryngo – trachéales de l’ adulte et de l’ 
enfant. 5 –12, 20 – 26, 126 – 135. 
8. François M. (1995). Traitement des stenoses glotto sous – 
glottique. finalization. volume 44. numero 2. 108 – 113. 
9. Phạm Thanh Sơn và các bác sĩ khoa tai- mũi- họng bệnh viện 
chợ rẫy(1997). Những vấn đề được đặt ra trong sẹo hẹp thanh 
khí quản. Số đặc biệt hội nghị khoa học kỹ thuật tuổi trẻ đại 
học y dược lần thứ xv. tập 1- 161 – 163. 
10. Trần Phan Chung Thủy (2007), “Nghiên cứu tình hình chấn 
thương thanh khí quản tại khoa TMH BV Chợ Rẫy từ 1/2005 
đến 10/2006”, Hội nghị khoa học kỹ thuật trường đại học y 
dược thành phố Hồ Chí Minh, năm 2007. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
phau_thuat_cat_noi_khi_quan_tan_tan_trong_dieu_tri_seo_hep_k.pdf