Chúng tôi cắt bỏ khối u hoàn toàn ở 104
bệnh nhân, cắt bỏ gần hoàn toàn khối u ở 45
bệnh nhân. Mức độ cắt bỏ hoàn toàn khối u phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như kinh nghiệm phẫu
thuật viên, loại u tuyến yên, mức độ xâm lấn,
tình trạng bệnh nhân trước mổ, mức độ mềm
chắc của khối u, kích thước khối u, mức độ tăng
sinh mạch của khối u, vị trí khối u (4,6,8,9). Khi
khảo sát các yếu tố trên, chúng tôi thấy rằng:
khối u tuyến yên nhỏ cắt bỏ hoàn toàn 100%
trong khi khối u tuyến yên lớn cắt bỏ hoàn toàn
ở 65,92% (p<0,05). Khối u tuyến yên nhỏ hơn
10mm rất dễ cắt bỏ hoàn toàn vì khối u không
xâm lấn, tuyến yên lành rất dễ xác định. Khối u
tuyến yên lớn xâm lấn nhiều vị trí, sang bên,
xâm lấn xoang tĩnh mạch hang. Vì vậy, cắt bỏ
hoàn toàn khối u tuyến yên nhỏ dễ hơn nhiều so
với khối u tuyến yên lớn. Tỷ lệ cắt bỏ hoàn toàn
khối u tuyến yên tăng tiết prolactine cũng cao
hơn nhóm u không tăng tiết (p<0,01) và nhưng
không cao hơn u tăng tiết GH (p=0,1217). Khối u
tuyến yên tăng tiết prolactine thường mềm, dễ
hút bằng máy hút, u nhỏ hơn do triệu chứng rối
loạn nội tiết làm bệnh nhân đi khám sớm hơn.
Khối u tuyến yên tăng tiết ACTH cắt bỏ hoàn
toàn 90% cao hơn so với khối u tuyến yên không
tăng tiết (p<0,001) nhưng không cao hơn u tuyến
yên tăng tiết GH (p=0,2747); Bệnh Cushing
thường có khối u tuyến yên nhỏ, ít khi chẩn
đoán khi khối u lớn
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 29/01/2022 | Lượt xem: 124 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phẫu thuật nội soi điều trị u tuyến yên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Bệnh Lý Sọ Não 275
PHẪU THUẬT NỘI SOI ĐIỀU TRỊ U TUYẾN YÊN
Đồng Văn Hệ*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật cắt bỏ khối u tuyến yên bằng đường mổ nội soi qua mũi xoang
bướm.
Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu dựa trên 150 bệnh nhân u tuyến yên được phẫu thuật từ 1/2010 tới
6/2014 tại Bệnh viện Việt Đức. Tất cả bệnh nhân được phẫu thuật bằng phương pháp nội soi qua mũi xoang
bướm. Theo dõi sau mổ 3‐45 tháng. Tác giả đánh giá tiền sử điều trị bệnh (điều trị nội phẫu thuật, xạ trị), loại u
tuyến yên, mức độ xâm lấn. Kết quả đánh giá dựa trên tỷ lệ sống, chết, di chứng và yếu tố ảnh hưởng tới mức độ
cắt u.
Kết quả: Tử vong 2 bệnh nhân do chảy máu não thất, 5 bệnh nhân rò nước não tủy, 35 đái nhạt, 8 chảy
máu não thất và 9 chảy máu mũi. Không có rò nước não tủy sau mổ và không nhiễm trùng sau mổ. Tỷ lệ cắt
hoàn toàn khối u cao hơn ở nhóm u tăng tiết prolactine (p<0,01), u tăng tiết ACTH (p<0,05) và u tuyến yên nhỏ
(p<0,05).
Kết luận: Phẫu thuật nội soi an toàn và hiệu quả trong điều trị u tuyến yên.
Từ khóa: u tuyến yên, nôi soi qua mũi xoang bướm, mổ qua xoang bướm.
ABSTRACT
TREATMENT OF PITUITARY ADENOMA BY ENDONASAL ENDOSCOPIC
TRANSPHENOIDAL APPROACH
Dong Van He * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 275 – 279
Objective: To Evaluate the result of treatment of pituitary adenoma by endoscopic endonasal
transsphenoidal approach (EETA).
Method: This is prospective study in VietDuc teaching hospital. From 1/2010 to 6/2014, 150 consecutive
patients with pituitary adenoma underwent endoscopic endonasal transsphenoidal resection with a follow up
from 3 to 45 months. All patients were operated by author with EETA. The author assesmed the history of
treatment (previous surgery, radiotherapy, medical treatment or no treatment), type of adenoma, involvement of
tumor. The result was evaluated: mortality, morbility, and some prognosis factors.
Results: There were 2 deaths because of postoperative intraventricular hemorrhage, 5 cases of fistula of CSF,
35 cases of temporary diabetes insipidus, 8 cases of intraventricular hemorrhage, 9 cases of postoperative nasal
bleeding. There were no carotid lesion and infection. The complete resection was done in 104 cases, subtotal
resection in 45 and no resection in 1. The comlete resection was higher in microadenoma (p<0,01), in
prolactinoma (p<0,05) and in ACTH group (p<0,05).
Conclusion: The endoscopic endonasal transsphenoidal surgery is safe and effective method in the treatment
of pituitary adenoma.
Key words: endoscopic transsnasal surgery, pituitary adenoma, transsphenoidal approach).
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật cắt bỏ khối u tuyến yên đã được
Victor Horsley thực hiện từ 1889 bằng đường
mổ ở nắp sọ. Đường mổ qua xoang bướm cắt bỏ
khối u tuyến yên năm 1907 bởi Schoffler. Trong
thời gian đầu tiên, phẫu thuật được thực hiện
* Bệnh viện Việt Đức
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Đồng Văn Hệ; ĐT: 01205226868 Email: dongvanhe2010@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 276
không kính vi phẫu. Mãi tới năm 1960, Yasagil
đưa kính hiển vi vào trong phẫu thuật. Kỹ thuật
vi phẫu cắt bỏ khối u tuyến yên được coi là
phương pháp quan trọng nhất để cắt bỏ khối u
tuyến yên trong thời gian dài. Năm 1993,
Jankovski thực hiện thành công phẫu thuật nội
soi u tuyến yên lần đầu tiên. Đây được coi là cột
mốc quan trọng trong phẫu thuật nội soi tuyến
yên nói riêng và phẫu thuật nội soi sọ não nói
chung. Ngày nay, phẫu thuật nội soi cắt bỏ khối
u tuyến yên là phương pháp được sử dụng rộng
rãi ở hầu hết các trung tâm phẫu thuật thần kinh
lớn tại các nước phát triển(2,3,5,8,9). Tại Việt Nam,
chúng tôi đã thực hiện thành công phẫu thuật
nội soi u tuyến yên năm 2008. Trong thời gian
hơn 4 năm, tôi đã phẫu thuật cho 150 bệnh nhân
với kỹ thuật này. Mục đich của nghiên cứu này
nhằm: đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi qua
mũi xoang bướm.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu tiến cứu dựa trên 150 bệnh nhân
u tuyến yên được phẫu thuật bằng phẫu thuật
nội soi qua mũi‐xoang bướm. Tiêu chuẩn chọn
bệnh nhân nghiên cứu: Khám lâm sàng, đánh
giá tình trạng trước mổ, thực hiện phẫu thuật
nội soi, đánh giá kết quả phẫu thuật khi ra viện
và sau phẫu thuật > 3 tháng. Giải phẫu bệnh là
khối u tuyến yên. Bệnh nhân được khám lâm
sàng, xét nghiệm nội tiết tuyết yên, chụp cộng
hưởng từ sọ não, và/hoặc chụp cắt lớp vi tính sọ
não, cắt lớp vi tính hố yên‐mũi‐xoang bướm.
Phẫu thuật được thực hiện khi: u tuyến yên tăng
tiết GH, u tuyến yên tăng tiết ACTH, u tuyến
yên không tăng tiết. Đối với u tuyến yên tăng tiết
prolactine, bệnh nhân được chỉ định mổ nếu
điều trị nội khoa không kết quả hoặc u lớn, chèn
ép gây tăng áp lực trong sọ, chèn ép làm giảm
thị lực, chảy máu trong u, suy tuyến yên. Phẫu
thuật thực hiện qua hai mũi. Dụng cụ nội soi
chuyên dụng dành cho phẫu thuật nền sọ. Kỹ
thuật mổ nội soi cắt u tuyến yên qua mũi‐xoang
bướm theo kỹ thuật với 5 bước: xác định lỗ
thông xoang bướm, mở thành trước và vách
xoang bướm, mở sàn hố yên và mở màng não,
cắt bỏ khối u, đóng vết mổ. Phẫu thuật sử dụng
hệ thống định vị thần kinh (neuronavigation).
Ống nội soi sử dụng loại o độ, 30 độ và 45 độ.
Tai biến và biến chứng trong mổ, sau mổ cần
phải theo dõi bao gồm: chảy máu, tổn thương
động mạch cảnh trong, tổn thương dây thần
kinh thị giác, chảy máu trong sọ, chảy máu dưới
màng mềm, chảy máu não thất, tổn thương
mạch máu khác trong sọ (động mạch thần nền,
nhánh của hệ động mạch willis), rò nước não
tủy, nhiễm trùng, suy tuyến yên, tổn thương
dưới đồi. Mức độ cắt bỏ khối u: cắt bỏ hoàn toàn,
cắt bỏ gần hoàn toàn, cắt bỏ một phần, sinh thiết.
Kết quả trước khi ra viện: tỷ lệ tử vong, nguyên
nhân tử vong, chảy máu, mổ lại, rò nước não
tủy, suy tuyến yên, biến chứng nhiễm trùng,
biến chứng khác. Kết quả khám lại sau 3 tháng:
tỷ lệ sống, tử vong, tái phát, mổ lại, suy tuyến
yên, hình ảnh khối u tuyến yên trên cộng hưởng
từ, xét nghiệm nội tiết.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Trong thời gian hơn 4 năm (1/2010‐6/2014),
150 bệnh nhân được tác giả phẫu thuật nội soi
qua mũi xoang bướm tại Bệnh viện Việt Đức.
Tuổi trung bình 35±9,5. Thấp nhất 17 tuổi và
cao nhất 79 tuổi. Gồm 58 bệnh nhân nam và 92
nữ (61,33%). Trong số đó 15 bệnh nhân đã
được mổ u tuyến yên 1‐3 lần, 5 bệnh nhân
được xạ trị và 29 bệnh nhân được điều trị nội
không kết quả. U tuyến yên không tăng tiết 61
bệnh nhân, u tuyến yên tăng tiết prolactine 41,
u tuyến yên tăng tiết GH 38 và 10 u tuyến yên
tăng tiết ACTH. U tuyến yên lớn
(macroadenoma) ở 135 bệnh nhân và u tuyến
yên nhỏ (microadenoma) ở 15 bệnh nhân.
Kết quả phẫu thuật: thời gian phẫu thuật
trung bình 80±15 phút (ngắn nhất 50 phút và dài
nhất 210 phút). Cắt bỏ hoàn toàn khối u 104
bệnh nhân, cắt gần hết 45 và không cắt được
khối u 1 (Bảng 2). Mức độ cắt bỏ khối u liên
quan tới một số yếu tố như loại u tuyến yên,
mức độ và hướng xâm lấn, điều trị trước khi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Bệnh Lý Sọ Não 277
phẫu thuật. Chúng tôi không cắt được khối u ở 1
bệnh nhân vì hệ thống mạch máu phía dưới khối
u phát triển (có thể là mạng lưới tĩnh mạch
xoang hang hai bên phát triển). Đây là bệnh
nhân u tuyến yên tăng tiết prolactine, u to trung
bình 2cm nên chúng tôi dừng phẫu thuật và
điều trị nội. Kiểm tra sau 4 năm: bệnh nhân ổn
định, prolactine máu 1000 đơn vị với dostinex,
đẻ 1 con sau điều trị. Xét nghiệm nội tiết trở về
bình thường ở 55/86 bệnh nhân (63,95%).
Bảng 1‐Tỷ lệ biến chứng và di chứng liên quan tới
phẫu thuật
Biến chứng Số trường hợp Biến chứng
Số trường
hợp
Chết 2 Chảy máu trong não thất 8
Rò nước não
tủy 5
Chảy máu mũi
sau mổ 9
Suy tuyến yên 35 Tổn thương động mạch cảnh 0
Nhìn mờ hơn 1 Liệt dây thần kinh sọ khác 2
Bảng 2‐Mức độ cắt bỏ khối u tuyến yên
Kết quả Cắt hoàn
toàn
n (%)
Cắt gần hết
u
n (%)
Sinh
thiết
n (%)
Không
cắt được
n (%)
Tổng số
U không tăng tiết
Tăng tiết
Prolactine
Tăng tiết GH
Tăng tiết ACTH
Macroadenoma
Microadenoma
104
(69,33%)
32 (52,45%)
35 (85,36%)
28 (73,68%)
9 (90%)
89 (65,92%)
15 (100%)
45 (30%)
29 (47,54%)
5 (12,19%)
10 (26,32%)
1
45 (33,33%)
0
0
0
0
0
0
0
0
1
0
1
0
0
1
0
Bảng 3‐Mối liên quan giữa tỷ lệ lấy hết u với xâm
lấn khối u:
Xâm lấn Não thất III
Xoang tĩnh
mạch hang
Thái
dương
Xuống
dưới
Cắt hết u 67 2 0 35
Cắt gần hết 5 25 15 0
Tổng số 72 27 15 35
Tỷ lệ cắt hết khối u nhóm u tăng tiết
prolatine cao hơn nhóm u không tăng tiết
(p<0,01) nhưng không cao hơn nhóm u tăng tiết
GH (p=0,1217); nhóm u tăng tiết ACTH cắt hết u
nhiều hơn nhóm không tăng tiết (p=0,02, 95%;
CI: 0,9729‐68,3746, OR=8), nhưng không hơn
nhóm u tăng tiết GH (p=0,2747). Tỷ lệ cắt u hoàn
toàn nhóm u tuyến yên nhỏ cao hơn nhóm u
tuyến yên lớn (p<0,05).
Nhóm u xâm lấn xoang tĩnh mạch hang cắt
hết u ít hơn nhóm u xâm lấn não thất III
(p<0,001), ít hơn nhóm u xâm lấn xuống dưới
(p<0,001) nhưng bằng nhóm u xâm lấn thái
dương (p>0,05).
Bảng 4‐Mối liên quan giữa mức độ cắt hết u với tiền
sử điều trị:
Tiền sử điều
trị
Phẫu thuật
1-3 lần
Xạ trị Điều trị
nội
Chưa điều
trị
Cắt hết u 2 1 27 74
Cắt gần hết u 13 5 2 15
Nhóm u chưa điều trị cắt hết u nhiều hơn
nhóm đã phẫu thuật (p<0,001), cắt hết u nhiều
hơn nhóm đã xạ trị (p<0,01) nhưng bằng với
nhóm đã điều trị nội (u tăng tiết prolactine).
BÀN LUẬN
Phẫu thuật nội soi qua mũi‐xoang bướm để
cắt bỏ khối u tuyến yên là phương pháp phẫu
thuật hiện đại được nhiều trung tâm phẫu thuật
thần kinh trên thế giới sử dụng. Chúng tôi bắt
đầu sử dụng phẫu thuật này từ năm 2008. Với
ống nội soi 0 độ, 30 độ và 45 độ, chúng ta kiểm
soát được nhiều vị trí hay “góc chết” của khối u
nhằm cắt bỏ khối u, tránh biến chứng và giảm
thiểu rủi ro. Chúng tôi cắt bỏ khối u ở 149/150
bệnh nhân. Bệnh nhân duy nhất không thể cắt
bỏ được do chảy máu khi mở màng cứng. Hệ
thống tĩnh mạch màng cứng rất tăng sinh, chảy
máu nhiều. Tôi quyết định dừng phẫu thuật vì
bệnh nhân khối u tuyến yên tăng tiết prolactine
ở bệnh nhân nữ 28 tuổi Nguyễn Th T. Bệnh nhân
này có khối u tuyến yên 2cm, không có giảm thị
lực, thị trường bình thường, mất kinh, tiết sữa,
vô sinh thứ phát (đã có một con), Bệnh nhân đã
được điều trị nội nhưng đau đầu, khó chịu nên
chấp nhận phẫu thuật. Sau khi không thể cắt bỏ
khối u, chúng tôi tiếp tục điều trị nội với
dostinex 1 viên/tuần. Bệnh nhân ổn định. Lượng
prolactine giảm từ 15 000 xuống 1000 đơn vị. 2
năm sau bệnh nhân đẻ thêm 1 con. Hiện tại khối
u to hơn 2,2cm, đau đầu ít, prolactine 1200 và
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 278
vẫn đang điều trị dostinex. Thời gian trung bình
phẫu thuật 80±15 phút. Phẫu thuật dài nhất 210
phút ở bệnh nhân u tuyến yên tăng tiết GH.
Phẫu thuật ở bệnh nhân này khá khó khăn do
cuốn mũi lớn, chảy máu ở niêm mạc và xương,
xương dày và khối u chảy máu nhiều trong khi
cắt bỏ.
Trong số 150 bệnh nhân: tử vong 2 trường
hợp do chảy máu não thất, hôn mê sau phẫu
thuật, phẫu thuật dẫn lưu não thất ra ngoài
nhưng không hiệu quả. Hai bệnh nhân này có
khối u lớn, xâm lấn não thất III, tăng sinh mạch
nhiều và chảy máu nhiều trong phẫu thuật.
Không thể cắt bỏ hoàn toàn khối u ở hai bệnh
nhân này. Khi không cắt bỏ hoàn toàn khối u,
chảy máu sau mổ thường nặng. Chảy máu nhiều
trong u vỡ vào não thất gây chảy máu trong não
thất, não úng thủy. Một số tác giả cho thấy tỷ lệ
tử vong sau phẫu thuật nội soi u tuyến yên
thường do tổn thương động mạch cảnh trong, rò
nước não tủy gây nhiễm trùng, viêm màng não
hoặc chảy máu, tổn thương mạch trong sọ(9,10,11,12).
Chúng tôi không gặp trường hợp nào tổn
thương động mạch cảnh trong, động mạch thân
nền hay mạch máu lớn trong não. Phẫu thuật cắt
bỏ khối u hầu hết thực hiện trong bao. Rò nước
não tủy gặp ở 5 bệnh nhân. Chọc tháo dẫn lưu
nước não tủy ở thắt lưng 5‐8 ngày sau khi phát
hiện rò nước não tủy đã điều trị khỏi hoàn toàn.
Cả 5 bệnh nhân này có rò nước não tủy trong
quá trình phẫu thuật nhưng không chọc tháo
nước não tủy ngay sau mổ. Những trường hợp
sau này, chúng tôi chủ động chọc tháo dẫn lưu
nước não tủy ở lưng cho tất cả những trường
hợp rò nước não tủy trong khi mổ. Khi thấy
nước não tủy xuất hiện khi phẫu tích cắt bỏ khối
u, đóng vết mổ cẩn thận với mỡ, cân cơ đùi,
gelfoame. Tôi chỉ dùng keo sinh học ở 2 trường
hợp và không nhận thấy sự cần thiết sử dụng
keo trong phẫu thuật này. Tôi không gặp trường
hợp nhiễm trùng nặng như viêm màng não,
viêm não sau phẫu thuật. Biến chứng hay gặp
nhất là suy tuyến yên tạm thời sau mổ: 35 bệnh
nhân. Trong số này có 15 bệnh nhân có biểu hiện
suy tuyến yên từ trước mổ. Suy tuyến yên ổn
định sau khi phẫu thuật 3 tháng ở 25 bệnh nhân,
suy tuyến yên cần điều trị tiếp tục ở 10 bệnh
nhân khác. Suy tuyến yên có thể do tổn thương
tuyến yên trong quá trình phẫu tích khối u hoặc
đốt điện gây tổn thương u. Chảy máu mũi sau
mổ 10 ngày tới 35 ngày ở 9 bệnh nhân. Hai trong
số đó phải phẫu thuật cấp cứu cầm máu vì chảy
máu tái phát, huyết áp tụt, nhét mèche mũi
không kết quả. Nội soi qua mũi xác định nhánh
của động mạch chân bướm khẩu cái chảy máu.
Đốt điện cầm máu và bệnh nhân ổn định. Tôi
cho rằng, nếu bệnh nhân có chảy máu mũi sau
phẫu thuật nội soi qua mũi xoang bướm, phải
phẫu thuật lại bằng nội soi để xác định nguồn
chảy máu và điều trị. Không nên nhét meche
cầm máu và chờ đợi vì có thể nguy hiểm cho
bệnh nhân. Tổn thương dây thần kinh sọ ở 3
bệnh nhân: 1 bệnh nhân mờ mắt hơn sau mổ và
2 bệnh nhân sụp mí mắt, lác ngoài. Biến chứng
này có thể do tổn thương dây thần kinh II, III và
VI trong quá trình phẫu tích cắt u.
Chúng tôi cắt bỏ khối u hoàn toàn ở 104
bệnh nhân, cắt bỏ gần hoàn toàn khối u ở 45
bệnh nhân. Mức độ cắt bỏ hoàn toàn khối u phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như kinh nghiệm phẫu
thuật viên, loại u tuyến yên, mức độ xâm lấn,
tình trạng bệnh nhân trước mổ, mức độ mềm
chắc của khối u, kích thước khối u, mức độ tăng
sinh mạch của khối u, vị trí khối u(4,6,8,9). Khi
khảo sát các yếu tố trên, chúng tôi thấy rằng:
khối u tuyến yên nhỏ cắt bỏ hoàn toàn 100%
trong khi khối u tuyến yên lớn cắt bỏ hoàn toàn
ở 65,92% (p<0,05). Khối u tuyến yên nhỏ hơn
10mm rất dễ cắt bỏ hoàn toàn vì khối u không
xâm lấn, tuyến yên lành rất dễ xác định. Khối u
tuyến yên lớn xâm lấn nhiều vị trí, sang bên,
xâm lấn xoang tĩnh mạch hang. Vì vậy, cắt bỏ
hoàn toàn khối u tuyến yên nhỏ dễ hơn nhiều so
với khối u tuyến yên lớn. Tỷ lệ cắt bỏ hoàn toàn
khối u tuyến yên tăng tiết prolactine cũng cao
hơn nhóm u không tăng tiết (p<0,01) và nhưng
không cao hơn u tăng tiết GH (p=0,1217). Khối u
tuyến yên tăng tiết prolactine thường mềm, dễ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Bệnh Lý Sọ Não 279
hút bằng máy hút, u nhỏ hơn do triệu chứng rối
loạn nội tiết làm bệnh nhân đi khám sớm hơn.
Khối u tuyến yên tăng tiết ACTH cắt bỏ hoàn
toàn 90% cao hơn so với khối u tuyến yên không
tăng tiết (p<0,001) nhưng không cao hơn u tuyến
yên tăng tiết GH (p=0,2747); Bệnh Cushing
thường có khối u tuyến yên nhỏ, ít khi chẩn
đoán khi khối u lớn.
KẾT LUẬN
Phẫu thuật cắt bỏ khối u tuyến yên bằng
phương pháp nội soi qua mũi xoang bướm là
phương pháp hiệu quả, tỷ lệ khỏi bệnh cao, tử
vong thấp, biến chứng thấp. Tỷ lệ cắt bỏ khối u
hoàn toàn cao ở nhóm bệnh nhân u tuyến yên
nhỏ, u tuyến yên tăng tiết ACTH, tăng tiết
prolactine, u tuyến yên xâm lấn xuống dưới, u
tuyến yên không xâm lấn xoang tĩnh mạch hang
và hố thái dương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đồng Văn Hệ (2011), Phẫu thuật u tuyến yên bằng phương
pháp nội soi, Y học thực hành.
2. Albertina M et al (2011), Results of endoscopic transsphenoidal
pituitary surgery in 40 patients with a growth hormone‐
secreting macroadenoma, Acta Neurochir, 153, 1391‐1399.
3. Cappabianca P et al (1999), Endoscopic Endonasal
Transsphenoidal Approach: An Additional Reason in Support
of Surgery in the Management of Pituitary Lesions, Skull Base
Surgery, 9, 2, 109‐117.
4. Choe J H et al (2008), Endocrine Outcome of Endoscopic
Endonasal Transsphenoidal Surgery in Functioning Pituitary
Adenomas, J Korean Neurosurg Soc, 44, 151‐155.
5. Gady H E and Roxanne Todor (2003), Endoscopic transnasal
transsphenoidal pituitary surgery, Operative techniques in
otolaryngology‐head and neck surgery, 14, 3, 204‐206.
6. Gordon D C and Dandie M B et al (1996), Endoscopic
transsphenoidal approach to the pituitary fossa technical note,
Journal of Clinical Neuroscience, 3 (1):65‐68.
7. Hill M et al (2010), Endoscopic transsphenoidal approaches to
the sella, Operative Techniques in otolaryngology, 21, 51‐55.
8. Locatelli D et al (2010), Endoscopic endonasal transsphenoidal
surgery for sellar tumors in children, International Journal of
Pediatric Otorhinolaryngology, 74, 1298‐1302.
9. Nyquist G G et al (2010), Middle Turbinate Preservation in
Endoscopic Transsphenoidal Surgery of the Anterior Skull Base,
Skull Base, 20, 5, 343‐348.
10. Romero A D C B et al (2010), Cerebrospinal fluid fistula after
endoscopic transsphenoidal surgery, Arq Neuropsiquiatr, 68,
414‐417.
11. Santos A R et al (2010), Endoscopic endonasal transsphenoidal
approach for pituitary adenomas, Arq Neurosiquiatr, 68, 608‐
612.
12. Zhang X et al (2008), Endoscopic endonasal transsphenoidal
surgery for invasive pituitary adenoma, Journal of Clinical
Neuroscience 15, 241‐245.
Ngày nhận bài báo: 24/10/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 02/11/2014
Ngày bài báo được đăng: 05/12/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phau_thuat_noi_soi_dieu_tri_u_tuyen_yen.pdf