Về tai biến và biến chứng, nghiên cứu này ghi
nhận 1 bệnh nhân tử vong sau mổ chiếm tỷ lệ 2,9%,
trong đó 1 trường hợp tử vong sau mổ 14 ngày
do dò ống dạ dày tạo hình, sau mổ bệnh nhân hồi
phục nhanh, được rút dẫn lưu ngực và bơm ăn qua
sonde hỗng tràng, ngày thứ 8 sau mổ xuất hiện ho
ngày càng nhiều, Xquang phổi thấy hình ảnh tràn
dịch màng phổi, Xquang thực quản cản quang và
nội soi thực quản xác định ví trí dò, hình ống dạ
dày dãn lớn trên chổ hẹp, BN được đặt lại dẫn lưu
ngực, đặt sonde dạ dày, tuy nhiên triệu chứng không
giảm, BN được đề nghị phẫu thuật lại giải quyết
biến chứng nhưng từ chối, xin về và tử vong sau
xuất viện 5 ngày. Theo các tác giả, chảy máu nặng
sau phẫu thuật là biến chứng hiếm gặp và có nguy
cơ tử vong sau phẫu thuật cắt thực quản, việc nhận
biết được biến chứng tiềm ẩn nguy hiểm này cực kì
quan trọng và chảy máu sau mổ có liên quan đến dò
miệng nối vào trung thất, kết quả chung của nhiều
tác giả cho thấy tỷ lệ tử vong sau mổ cắt thực quản
khoảng 5% [2],[5],[7],[8].
Theo dõi sau mổ ghi nhận dò miệng nối chiếm
tỷ lệ 8,6% (3BN) và tất cả trường hợp dò đều gây
nhiễm trùng vết mổ vùng cổ. Hẹp miệng nối cổ
chiếm tỷ lệ 32,4% (11/34BN). Kết quả theo dõi về
mặt ung thư học với thời gian từ 2 - 35 tháng, chúng
tôi ghi nhận tái phát tại chổ (phát tại miệng nối)
2,9%, tái phát tại vùng (di căn hạch cổ) 5,9% và di
căn xa (1 phổi, 1 sàn miệng, 1 đa cơ quan) chiếm tỷ
lệ 8,8%. Thời gian sống thêm trung bình là 28,4±1,9
tháng và sống thêm toàn bộ sau 1 năm là 84,7% và
sau 2 năm 73,9%.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 9 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phẫu thuật nội soi ngực bụng trong điều trị ung thư thực quản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bệnh viện Trung ương Huế
44 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 66/2020
Phẫu thuật nội soi ngực bụng trong điều trị ung thư thực quản
Nghiên cứu
PHẪU THUẬT NỘI SOI NGỰC BỤNG
TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ THỰC QUẢN
Phạm Trung Vỹ1*, Phạm Như Hiệp1, Hồ Hữu Thiện1, Phan Hải Thanh1,
Nguyễn Thanh Xuân1, Văn Tiến Nhân1, Trần Nghiêm Trung1, Nguyễn
Nhật Quang1, Phạm Xuân Đông1, Mai Trung Hiếu1, Vũ Hoài Anh1,
Nguyễn Phước Bảo Hưng1, Đỗ Văn Gia Khánh1, Phạm Như Hiển1
DOI: 10.38103/jcmhch.2020.66.7
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi ngực-bụng điều trị ung thư thực quản, nghiên cứu tiến
cứu 35 bệnh nhân ung thư thực quản từ 1/2016 đến 12/2019 tại Bệnh viện Trung ương Huế.
Kết quả: Tuổi trung bình (TB) 57,6±6,3tuổi(44-69), tỷ lệ nam/nữ 16,5/1. Triệu chứng lâm sàng: nuốt
nghẹn 82,9%, sút cân 34,3%, tăng CEA trước mổ 31,4%, kích thước u TB 2,6±1,2cm (3-6). Giai đoạn ung
thư: GĐI 31,4%; GĐII 45,7%; GĐIII 22,9%. Thời gian mổ TB 315,2±49,9phút(240-420), thời gian nằm viện
TB 15,6±7,2ngày(7-25). Biến chứng sau mổ: viêm phổi 11,4%, dò miệng nối cổ 8,6%, khàn tiếng 11,4%
và tử vong 2,9%. Thời gian theo dõi 2-35 tháng, tái phát tại chổ 2,9%, tái phát tại vùng 5,9% và di căn xa
8,8%. Thời gian sống thêm TB 28,4±1,9 tháng, sống thêm toàn bộ sau 1 năm là 84,7%, sau 2 năm 73,9%.
Kết luận: Phẫu thuật nội soi ngực-bụng điều trị ung thư thực quản là phương pháp có nhiều ưu điểm,
tránh phải mở ngực-bụng lớn, giúp giảm đau sau mổ, giảm các biến chứng hô hấp nặng trong thời kỳ hậu
phẫu. Tuy nhiên, một số lượng bệnh nhân lớn hơn nữa cần được nghiên cứu đánh giá chính xác các kết
quả lâu dài, đặc biệt là về mặt ung thư học.
Từ khóa: Ung thư thực quản; Phẫu thuật nội soi ngực-bụng.
ABSTRACT
THORACO-LAPAROSCOPIC ESOPHAGECTOMY
TO TREAT ESOPHAGEAL CANCER
Pham Trung Vy1*, Pham Nhu Hiep1, Ho Huu Thien1, Phan Hai Thanh1,
Nguyen Thanh Xuan1, Van Tien Nhan1, Tran Nghiem Trung1, Nguyen
Nhat Quang1, Pham Xuan Đong1, Mai Trung Hieu1, Vu Hoai Anh1,
Nguyen Phuoc Bao Hung1, Đo Van Gia Khanh1, Pham Nhu Hien1
Objectives: Evaluating the results of thoraco-laparoscopic esophagectomy to treat esophageal cancer,
prospective studies of 35 patients esophageal cancer were conducted from January 2016 to December
2019 at Hue Central Hospital.
Results: Average age 57.6±6.3years (44-69), male/female 16.5/1. Clinical symptoms: 82.9% swallowing
difficulty, weight loss 34.3%, increased preoperative CEA 31.4%, mean tumor size 2.6±1.2cm(3-6).
Stage: I 31.4%; II 45.7%; III of 22.9%. Time of surgery 315.2±49.9minutes(240-420), mean hospital stay
15.6±7.2days(7-25). Postoperative complications: pneumonia 11.4% , leakage of neck anastomosis 8.6%,
hoarseness 11.4% and mortality 2.9%. Follow-up time 2-35months, anastomotic recurrence 2.9%, local
1 Trung tâm Ung bướu, BVTW Huế - Ngày nhận bài (Received): 2/10/2020, Ngày phản biện (Revised): 5/11/2020;
- Ngày đăng bài (Accepted): 21/12/2020
- Người phản hồi (Corresponding author): Phạm Trung Vỹ
- Email: phamtrungvy2021@gmail.com; ĐT: 0913809935
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 66/2020 45
recurrence 5.9% and metastasis 8.8%. The overal survival time 28.4±1.9months, the survival time after 12
months 84.7% and after 2 years 73.9%.
Conclusion: Thoraco-laparoscopic esophagectomy to treat esophageal cancer has many advantages,
avoiding to the long thoracotomy-laparotomy, reducing postoperative pain, reducing respiratory
complications during the postoperative period. However, a larger number of patients should be studied to
accurately evaluate long-term results, especially in oncology results.
Keywords: Esophageal cancer; Thoraco-laparoscopic esophagectomy
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư thực quản (UTTQ) là loại ung thư phổ
biến của đường tiêu hóa, gồm hai dạng mô bệnh học
chủ yếu là ung thư biểu mô tế bào gai và ung thư
biểu mô tuyến. UTTQ là một ung thư có tiên lượng
xấu, dù đã có nhiều tiến bộ trong điều trị nhưng tỉ
lệ sống 5 năm chỉ từ 15 - 25%. Đến nay, phẫu thuật
cắt bỏ thực quản khi u không còn khu trú ở lớp niêm
mạc là phương pháp được lựa chọn hàng đầu trong
điều trị triệt căn UTTQ, hóa xạ trị có vai trò hỗ trợ
[1],[3],[9].
Phẫu thuật kinh điển cắt thực quản với nạo hạch
ba trường mổ ở cổ, ngực và bụng là phẫu thuật có
tính triệt để, tuy nhiên tỉ lệ tai biến, biến chứng sau
mổ còn cao đặc biệt là các biến chứng liên quan đến
hô hấp vì vết mổ lớn và đau sau mổ [2],[5].
Trong quá trình phát triển của PTNS thực quản,
các phẫu thuật viên ngày càng chú ý đến các kỹ thuật
xâm lấn tối thiểu. Trong đó, cắt thực quản kèm nạo
vét hạch trung thất trong thì nội soi ngực và cắt, tạo
hình ống dạ dày trong thì nội soi bụng là một phẫu
thuật xâm lấn tối thiểu được sử dụng ngày càng rộng
rãi trên thế giới. Hiện nay, có nhiều nghiên cứu trên
thế giới thực hiện cắt thực quản hoàn toàn nội soi
qua đường ngực và bụng, trong đó nghiên cứu của
Luketich năm 2012 có số lượng bệnh lớn nhất 1011
trường hợp với kết quả đáng khích lệ [2],[3],[5],[8].
Tại Bệnh viện Trung ương Huế, từ 2007 PTNS
ngực điều trị ung thư thực quản đã triển khai và đã
mang lại những kết quả khả quan [3],[5]. Trong
những năm gần đây, phẫu thuật nội soi ngực - bụng
(PTNSNB) ngày càng được ứng dụng thường quy
và xuất phát từ thực tế này, chúng tôi tiến hành đề
tài nhằm đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi ngực -
bụng điều trị UTTQ trong thời gian 3 năm.
II. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh: Bệnh nhân (BN)
được chẩn đoán UTTQ dựa vào lâm sàng và các xét
nghiệm nội soi sinh thiết thực quản, nội soi siêu âm,
CT Scan ngực... và giải phẫu bệnh sau mổ là UTTQ.
Khối u ở giai đoạn T1-T3 và không có di căn xa.
2.2. Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân có tiền sử
phẫu thuật mở vùng ngực phải, viêm dày dính màng
phổi, có tiền sử phẫu thuật vùng bụng trên hoặc
chống chỉ định của phẫu thuật nội soi.
2.3. Kỹ thuật phẫu thuật: Thực hiện kỹ thuật 3
trường mổ: ngực, bụng và cổ
Thì nội soi ngực phải:
- Gây mê nội khí quản 2 nòng (ống Carlène), BN
nằm sấp - nghiêng trái 300
- Phẫu thuật viên và phụ đứng bên phải bệnh
nhân, đặt màn hình đối diện
- Đặt 3 troca ở gian sườn 4 - 6 - 9 trên đường
nách giữa - giữa - sau (hình 1a)
Hình 1a: Tư thế BN thì nội soi ngực Hình 1b: Thắt TM đơn, di động TQ ngực
Bệnh viện Trung ương Huế
46 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 66/2020
Phẫu thuật nội soi ngực bụng trong điều trị ung thư thực quản
- Qua camera, đánh giá vị trí, độ xâm lấn khối u,
hạch và khả năng cắt bỏ
- Phẫu tích tĩnh mạch đơn, thắt clip hoặc hem-o-
lock và cắt tĩnh mạch đơn.
- Mở màng phổi trung thất 2 bên TQ, phẫu tích
di động toàn bộ TQ ngực từ cơ hoành lên đến nền
cổ, tránh làm tổn thương ống ngực và thần kinh quặt
ngược thanh quản. Vét hạch cạnh khối u, cạnh thực
quản và hạch cạnh khí phế quản.
- Đặt dẫn lưu khoang màng phổi, đóng troca, nở
phổi, kết thúc thì nội soi ngực.
Thì nội soi ổ bụng:
- Tư thế: bệnh nhân nằm ngửa, hai chân dạng,
đầu nghiêng phải, ưỡn cổ
- Tạo hình ống dạ dày kiểu Akiyama bằng các
Stapler thẳng (GIA) qua đường mở bụng 5-6 cm
thượng vị, chiều rộng ống dạ dày khoảng 4 cm [6],[8].
- Tạo hình môn vị, mở thông hỗng tràng nuôi
dưỡng, có thể thực hiện thủ thuật Kocher di động
khối tá tụy nếu thấy dạ dày không đủ chiều dài để
nối lên cổ.
Thì cổ: Tiến hành đồng thời với thì bụng
- Rạch da 6cm bờ trước trong cơ ức đòn chũm
trái, phẫu tích qua mạc cổ, cắt cơ vai móng. Tránh
tổn thương bao cảnh, tuyến giáp và thần kinh quặt
ngược trái.
- Cắt ngang TQ cổ gần hõm ức, kéo TQ kèm u
qua đường bụng.
- Kéo ống dạ dày đã tạo hình lên qua trung thất
sau để nối với TQ cổ tận bên.
- Đặt 1 dẫn lưu cổ, gửi hạch và thực quản làm
giải phẫu bệnh lý
3. Kết quả: Kết quả điều trị được tóm tắt thành
các bảng sau:
Bảng 3.1: Đặc điểm chung về đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm chung n = 35 %
Tuổi trung bình (tuổi) 57,6±6,3 (44-69)
Tỷ lệ nam/nữ 33/2 16,5/1
Các yếu tố nguy cơ
Hút thuốc lá
Uống rượu
Phối hợp
8
3
7
22,9
8,6
20,0
Triệu chứng lâm sàng
Nuốt nghẹn
Sút cân
Đau sau ức
29
12
15
82,9
34,3
42,9
Xạ trị trước mổ 7 20,0
BMI (kg/m2) 20,5±3,3(16,3-24,8)
CEA (≥5 ng/ml) 11 31,4
Vị trí tổn thương qua nội soi
1/3 trên
1/3 giữa
1/3 dưới
2 vị trí
2
14
18
1
5,7
40,0
51,4
2,9
Kích thước u trên CT ngực (cm) 2,6±1,2 (3-6)
Giai đoạn ung thư (I/II/III:
11/16/8)
31,4 / 45,7 / 22,9
Hình 2: Tư thế bệnh nhân và vị trí troca
trong thì nội soi bụng
- Phẫu thuật viên đứng giữa 2 chân BN, người
phụ đứng bên phải BN.
- Đặt 4 troca, qua camera, khảo sát ổ bụng, bộc
lộ, giải phóng bờ cong lớn dạ dày, bảo tồn cung
mạch vị mạc nối phải, cắt động mạch vị trái và động
mạch vị ngắn.
- Mở dây chằng gan vị giải phóng dạ dày vùng
bờ cong nhỏ đến trụ hoành phải
- Tách rời hoàn toàn thực quản bụng khỏi khe
hoành, mở rộng 2 trụ khe hoành
Hình 3: Tạo hình dạ dày bằng Stapler thẳng
và tái tạo thực quản [8]
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 66/2020 47
Bảng 3.2: Kết quả điều trị
Kết quả điều trị n = 35 %
Thời gian mổ (phút) 315,2±49,9 (240-420)
Thời gian cho ăn lại (ngày) 10,1±3,7 (7-13)
Thời gian nằm viện sau mổ (ngày) 15,6±7,2 (7-25)
Biến chứng sau mổ
Chảy máu
Viêm phổi
Dò miệng nối
Dò ống dạ dày
Nhiễm trùng vết mổ
Khàn tiếng
Tử vong
1
4
3
1
3
4
1
2,9
11,4
8,6
2,9
8,6
11,4
2,9
Kết quả theo dõi và tái khám (2-35 tháng)
Hẹp miệng nối
Hóa xạ trị
Tái phát tại chổ
Tái phát tại vùng
Di căn xa (1phổi, 1sàn miệng, 1 đa cơ quan)
n=34
11
14
1
2
3
%
32,4
41,2
2,9
5,9
8,8
Biểu đồ 1: Sống thêm toàn bộ và sống thêm không bệnh theo Kaplan-Meier
- Thời gian sống thêm trung bình là 28,4 ± 1,9 tháng (24,7-32,0).
- Tỷ lệ sống thêm toàn bộ sau 1 năm là 84,7%, sau 2 năm 73,9%.
- Thời gian sống trung bình không bệnh là 24,0 ± 1,7 tháng (20,7-27,3).
- Tỷ lệ sống thêm không bệnh sau 1 năm là 88,0%, sau 2 năm 72,8%.
- Tái phát trung bình sau 15,8±8,3 tháng, sớm nhất sau 4 tháng, muộn nhất 30 tháng.
IV. BÀN LUẬN
Qua nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật phẫu thuật nội
soi ngực-bụng trên 35 BN trong thời gian hơn 3 năm
tại Bệnh viện Trung ương Huế, chúng tôi nhận thấy:
PTNS điều trị ung thư TQ đã được nghiên cứu
ứng dụng và báo cáo tại Việt Nam từ 2004 bởi một
số tác giả như Nguyễn Minh Hải [2], Phạm Đức
Huấn [4]. Năm 2009, Phạm Như Hiệp và Lê Lộc
đã đề xuất một số vấn đề nhằm cải tiến kỹ thuật cắt
thực quản nội soi, những ưu điểm của cắt thực quản
trong tư thế nằm sấp, nghiêng trái 300 so với tư thế
nghiêng trái truyền thống [3],[5].
Bệnh viện Trung ương Huế
48 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 66/2020
Phẫu thuật nội soi ngực bụng trong điều trị ung thư thực quản
Kỹ thuật nội soi ngực bụng là sự kết hợp 2 kỹ
thuật trên một bệnh lý, điểm khác biệt trong thì nội
soi ổ bụng là việc phẫu tích và di động trên một dạ
dày hoàn toàn bình thường, tuy nhiên cần tránh làm
tổn thương mạch máu, đặc biệt là cung mạch ở bờ
cong lớn dạ dày. Kỹ thuật này đã được Nguyễn Minh
Hải và Trần Phùng Dũng Tiến báo cáo kinh nghiệm
bước đầu trong phẫu thuật cắt thực quản nội soi ngực
- bụng trên 87 trường hợp ung thư thực quản 2/3 dưới
vào năm 2010 [2], Phạm Như Hiệp và cs báo cáo
những thành công trên 18 bệnh nhân được phẫu thuật
nội soi ngực - bụng cắt thực quản vào 2015 [3].
Biến chứng hô hấp sau phẫu thuật cắt thực quản
là một biến chứng thường gặp, là một trong những
nguyên nhân của kéo dài thời gian nằm viện và tử
vong sau mổ. Ưu tiên hàng đầu trong chăm sóc bệnh
nhân sau phẫu thuật cắt thực quản là ngăn chặn các
biến chứng hô hấp xảy ra. Do đó phẫu thuật cắt TQ
nội soi ngực đã làm giảm đáng kể biến chứng viêm
phổi so với mổ mở. Theo Kubo N và cs nghiên cứu
so sánh giữa nhóm bệnh nhân phẫu thuật nội soi
ngực - bụng và bệnh nhân mổ mở ghi nhận tỷ lệ
biến chứng phổi ít gặp hơn 8,5% so với 21,6% với
p=0,015 [1],[4],[7],[8].
Về tai biến và biến chứng, nghiên cứu này ghi
nhận 1 bệnh nhân tử vong sau mổ chiếm tỷ lệ 2,9%,
trong đó 1 trường hợp tử vong sau mổ 14 ngày
do dò ống dạ dày tạo hình, sau mổ bệnh nhân hồi
phục nhanh, được rút dẫn lưu ngực và bơm ăn qua
sonde hỗng tràng, ngày thứ 8 sau mổ xuất hiện ho
ngày càng nhiều, Xquang phổi thấy hình ảnh tràn
dịch màng phổi, Xquang thực quản cản quang và
nội soi thực quản xác định ví trí dò, hình ống dạ
dày dãn lớn trên chổ hẹp, BN được đặt lại dẫn lưu
ngực, đặt sonde dạ dày, tuy nhiên triệu chứng không
giảm, BN được đề nghị phẫu thuật lại giải quyết
biến chứng nhưng từ chối, xin về và tử vong sau
xuất viện 5 ngày. Theo các tác giả, chảy máu nặng
sau phẫu thuật là biến chứng hiếm gặp và có nguy
cơ tử vong sau phẫu thuật cắt thực quản, việc nhận
biết được biến chứng tiềm ẩn nguy hiểm này cực kì
quan trọng và chảy máu sau mổ có liên quan đến dò
miệng nối vào trung thất, kết quả chung của nhiều
tác giả cho thấy tỷ lệ tử vong sau mổ cắt thực quản
khoảng 5% [2],[5],[7],[8].
Theo dõi sau mổ ghi nhận dò miệng nối chiếm
tỷ lệ 8,6% (3BN) và tất cả trường hợp dò đều gây
nhiễm trùng vết mổ vùng cổ. Hẹp miệng nối cổ
chiếm tỷ lệ 32,4% (11/34BN). Kết quả theo dõi về
mặt ung thư học với thời gian từ 2 - 35 tháng, chúng
tôi ghi nhận tái phát tại chổ (phát tại miệng nối)
2,9%, tái phát tại vùng (di căn hạch cổ) 5,9% và di
căn xa (1 phổi, 1 sàn miệng, 1 đa cơ quan) chiếm tỷ
lệ 8,8%. Thời gian sống thêm trung bình là 28,4±1,9
tháng và sống thêm toàn bộ sau 1 năm là 84,7% và
sau 2 năm 73,9%.
V. KẾT LUẬN
Phẫu thuật nội soi ngực-bụng điều trị ung thư
thực quản là phương pháp có nhiều ưu điểm, tránh
phải mở ngực - bụng lớn, giúp giảm đau sau mổ,
không ức chế hô hấp nên giảm các biến chứng hô
hấp nặng trong thời kỳ hậu phẫu. Tuy nhiên, một số
lượng bệnh nhân lớn hơn nữa cần được nghiên cứu
đánh giá chính xác các kết quả lâu dài, đặc biệt là về
mặt ung thư học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Triệu Triều Dương, Trần Hữu Vinh (2014), Đánh
giá kết quả điều trị ung thư thực quản 1/3 giữa-
dưới bằng phẫu thuật nội soi, Y học thực hành,
902(1), tr. 62- 66.
2. Nguyễn Minh Hải, Trần Phùng Dũng Tiến
(2010), Phẫu thuật nội soi ngực bụng điều trị ung
thư thực quản 2/3 dưới, Y học TP Hồ Chí Minh,
14(2), tr. 171-176.
3. Phạm Như Hiệp, Trần Nghiêm Trung, Hồ Hữu
Thiện và cs (2015), Phẫu thuật nội soi ngực - bụng
điều trị ung thư thực quản, Tạp chí Y học lâm
sàng, bệnh viện Trung ương Huế, 29, tr. 235-238.
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 66/2020 49
4. Nguyễn Xuân Hòa, Phạm Đức Huấn, Đỗ Mai
Lâm (2016), Đánh giá kết quả cắt thực quản qua
nội soi khe hoành, Tạp chí Y học lâm sàng, bệnh
viện Trung ương Huế, 33, tr. 35 - 40.
5. Lê Lộc và Lê Mạnh Hà (2013), Phẫu thuật ung
thư thực quản qua đường nội soi ngực, Y học
thực hành, 4, tr. 97 - 101.
6. Akiyama H. et al (1994), Radical lymph node
dissection for cancer of the thoracic esophagus,
Annals of Surgery, 220(3), p. 364-373.
7. Kubo N. et al (2014), The impact of combined
thoracoscopic and laparoscopic surgery
on pulmonary complications after radical
esophagectomy in patients with resectable
esophageal cancer, Anticancer Res, 34(5), p.
2399-404.
8. Luketich J.D et al (2012), Outcomes after
minimally invasive esophagectomy: review of
over 1000 patients, Annals of surgery, 256(1), p.
95-103.
9. National Comprehensive Cancer Network
(2019), Esophageal and esophagogastric junction
cancers, NCCN Clinical practice guidelines in
Oncology.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
phau_thuat_noi_soi_nguc_bung_trong_dieu_tri_ung_thu_thuc_qua.pdf