Phát triển xét nghiệm nhiễm nấm
Năm 1988, các nhà điều tra Nhật Bản đã mô
tả một phương pháp có thể thay thế phản ứng
LAL [17]. Nhiều nghiên cứu ở Nhật Bản sử
dụng hai công thức LAL khác nhau(một chỉ
nhạy cảm với nội độc tố và một nhạy cảm với
cả nội độc tố và glucan) đã chứng minh giá trị
của thử nghiệm LAL trong việc phát hiện
nhiễm nấm và đưa đến chẩn đoán nấm [28].
Nghiên cứusử dụng thuốc thử LAL chỉ nhạy
cảm với glucan, thử nghiệm trở nên đơn giản
hơn nhiều. Mặc dù xét nghiệm glucan đã được
sử dụng rộng rãi ở Nhật Bản, sự phát triển hơn
nữa tại Hoa Kỳ là cần thiết trước khi
FungitellTM được FDA phê duyệt như một trợ
giúp trong việc chẩn đoán nhiễm nấm hệ thống.
Trong khi không phải là một thử nghiệm phổ
biến cho nhiễm nấm, xét nghiệm glucan đã
được báo cáo là đặc biệt hữu ích cho phát hiện
sớm nhiễm Aspergillus và Candida [15].
Tổng hợp sản phẩm thay thế cho xét
nghiệm LAL
Để sản xuất các LAL, máu sam biển được
lấy bằng cách chích trực tiếp vào timcon vật
trong điều kiện hạn chế tối thiểu nhiễm nội độc
tố. Một con sam lớn có thể thu 200 - 400
mlmáu (Hình 4). Sau khi lấy máu, chúng được
thả trở lại biển. Hầu hết sống sót trong quá trình
này, tỷ lệ chết liên quan với cả lượng máu được
lấy và điều kiện trong khi xử lý và vận chuyển.
Ước tính tỷ lệ chết sau lấy máu thay đổi từ 3-
15% đến 10-30%. Vì lý do bảo vệ loài sam biển
và tránh phụ thuộc hoàn toàn vào loài này, việc
nghiên cứu tổng hợp các sản phẩm thay thế cho
LAL cần phải được triển khai [5].
Hình 4. Lấy máu từ sam biển [15].
Từ năm 2003, một sản phẩm tổng hợp thay
thế cho xét nghiệm LAL đã có mặt trên thị
trường. Nó được dựa trên một protein là yếu tố
đông máu C của sam biển, được sản xuất bởi tế
bào ruột côn trùng biến đổi gen. Việc áp dụng
xét nghiệm này tương đối chậm, bắt đầu thay
đổi vào năm 2016 khi Dược điển châu Âu
chấp nhận xét nghiệm này để xét nghiệm độc
tố vi khuẩn.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 80 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phỏng sinh học miễn dịch loài sam biển và ứng dụng trong y dược, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 2 (2018) 1-9
1
Phỏng sinh học miễn dịch loài sam biển và
ứng dụng trong y dược
Nguyễn Thị Huyền1, Đặng Kim Thu1, Bùi Thanh Tùng1,
Phạm Thị Minh Huệ2, Nguyễn Thanh Hải1,*
1Khoa Y Dược, Đai học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
2Đại học Dược Hà Nội, 15 Lê Thánh Tông, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 05 tháng 11 năm 2018
Chỉnh sửa ngày 26 tháng 11 năm 2018; Chấp nhận đăng ngày 25 tháng 12 năm 2018
Tóm tắt: Phỏng sinh học là một ngành khoa học công nghệ có tiềm năng ứng dụng to lớn, có hiệu
quả cao trong rất nhiều lĩnh vực nghiên cứu cũng như ứng dụng vào cuộc sống của con người.
Trong y dược học, các phương pháp phỏng sinh học cũng có giá trị lớn trong việc phát triển thuốc,
phát triển các phương pháp trong chẩn đoán, phòng tránh và điều trị bệnh tật.
Phỏng sinh học hệ miễn dịch ứng dụng trong y dược là một nội dung lớn, có tiềm năng tạo ra
những tiến bộ nổi trội. Hệ thống miễn dịch của các loài sinh vật rất phong phú, đa dạng và theo
nhiều cơ chế khác nhau. Trong bài trước, chúng tôi đã giới thiệu tóm tắt về phỏng sinh học hệ
miễn dịch người và ứng dụng trong y dược, trong bài này xin giới thiệu phỏng sinh học của một hệ
thống miễn dịch theo một cơ chế khác, đó là phỏng sinh học hệ miễn dịch của loài sam biển và các
triển vọng ứng dụng trong thực tiễn.
Từ khóa: Phỏng sinh học, sam biển, miễn dịch Biomimetics,ứng dụng trong y dược.
Thuật ngữ“biomimetics” bắt nguồn từ từ
tiếng Hy Lạp “bios” (cuộc sống) và “mimesis”
(bắt chước). Trên thực tế phỏng sinh học
(Bionics/Biomimetics) là ngành khoa học công
nghệ chuyên nghiên cứu các chức năng, đặc
điểm và hiện tượng của sinh vật trong tự
nhiên và mô phỏng các khả năng đặc biệt đó để
thiết kế, chế tạo các hệ thống kỹ thuật và công
nghệ hiện đại, hữu ích nhằm cải tiến hoạt động
và đáp ứng nhu cầu của con người. Phỏng sinh
_______
Tác giả liên hệ. ĐT: 84-913512599.
Email: haipharm@yahoo.com
https://doi.org/10.25073/2588-1132/vnumps.4132
học đã và đang được ứng dụng rộng rãi và có
hiệu quả trong rất nhiều các lĩnh vực như hóa
học, sinh học, kiến trúc, kỹ thuật, y dược học và
kỹ thuật y sinh Với y dược học, phỏng sinh
học là lĩnh vực nghiên cứu tiềm năng, có nhiều
ứng dụng trong chẩn đoán và điều trị bệnh tật,
như phỏng sinh học trong công nghệ mô và y
học tái tạo, phát triển thuốc, miễn dịch trị
liệu, trong đó phỏng sinh học miễn dịch loài
sam biển đã và đang đem lại lợi ích lớn [1, 2].
N.T. Huyền và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 2 (2018) 1-9
2
1. Giới thiệu loài sam biển
Sam biển (hay còn được gọi là cua móng
ngựa) là động vật chân đốt biển thuộc họ
Limulidae, sống chủ yếu ở vùng biển nước
nông, trên cát mềm hoặc đáy bùn, chúng thỉnh
thoảng lên bờ để giao phối. Mặc dù hóa thạch
cổ xưa liên quan với sam biển được phát hiện
cách đây 520 triệu năm, nhưng loài này chỉ tồn
tại khoảng 20 triệu năm trở lại đây. Sinh sống
trên hành tinh rất lâu, nhưng cơ thể sam biển
thay đổi rất ít trong những năm đó. Giải phẫu lạ
của sam biển là một trong khía cạnh đáng chú ý
nhất của động vật này. Nhiều người xem sam
biển là động vật nguy hiểm vì chúng có đuôi
nhọn nhưng trên thực tế, sam biển vô hại [3].
Về phân loại, sam biển giống động vật giáp
xác, nhưng thuộc về một phân ngành riêng biệt
– động vật chân kìm, và có liên quan chặt chẽ
với loài nhện. Limulidae là họ duy nhất của bộ
đuôi kiếm, và bao gồm 4 loài: Carcinoscorpius
rotundicauda, sống ở rừng ngập mặn, được tìm
thấy ở Đông Nam Á; Limulus polyphemus, sam
biển Đại Tây Dương, được tìm thấy dọc theo bờ
biển Đại Tây Dương của Mỹ và vịnh Mexico;
Tachypleus gigas, được tìm thấy ở Đông Nam
Á và Đông Á; Tachypleus tridentatus, được tìm
thấy ở Đông Nam Á và Đông Á [3].
Sam biển đóng một vai trò quan trọng (ít
được biết đến) trong lĩnh vực y dược học. Dịch
chiết máu sam biển đã được ứng dụng từ lâu
trong lĩnh vực công nghiệp dược phẩm, công
nghiệp thiết bị y tế để kiểm tra sự có mặt của vi
sinh vật và nội độc tố của chúng trong cácsản
phẩm [3, 4].
2. Hệ thống miễn dịch của sam biển
Hệ thống miễn dịch tự nhiên được coi là
hàng rào bảo vệ đầu tiên của cơ thể sinh vật
chống lại các tác nhân gây bệnh xâm lấn từ bên
ngoài(như vi khuẩn, nấm và virus). Hệ thống
bảo vệ này là cần thiết cho sự sống sót và sinh
tồn của tất cả sinh vật đa bào. Thế giới sinh vật
rất đã dạng và phong phú, cùng với đó là sự đa
dạng và phong phú của các hệ thống miễn dịch
trong tự nhiên. Động vật không xương sống, mà
đại diện trong trường hợp này là sam biển,
không có globulin miễn dịch, đã phát triển các
phương thức độc đáo để phát hiện và phản ứng
với các kháng nguyên bề mặt vi sinh vật như
các lipopolysaccharide (LPS), các acid
lipoteichoic, các lipoprotein, peptidoglycan
(PGN) và (1 → 3) β-D-glucan. Trình bày một
cách tóm tắt thì hệ thống bảo vệ sinh học chính
của sam biển bao gồm hệ thống đông máu
(hemolymph), hệ thống hoạt hóa Pro-
phenoloxidase (pro-PO), hệ thống agglutinin -
lectin, hệ thống lectin - bổ thể, hệ thống kháng
khuẩn, kháng nấm và kháng virus gián tiếp bởi
các thụ thể giống Toll (TLR) và protein liên kết
peptidoglycan (PGBP), hệ thống oxy hóa và hệ
thống thực bào (Hình 1) [5].
Sau khi nhận dạng kháng nguyên, có thể
xảy ra một số cơ chế liên quan đến quá trình
bảo vệ miễn dịch ở sam biển như sản xuất
cácpeptid kháng khuẩn qua trung gian thụ thể,
đông máu (hemolymph), hình thành melanin,
và hoạt hóa bổ thể qua trung gian lectin. Thêm
vào đó, nhiều loại agglutinin-lectin, sản phẩm
oxy hóa và hệ thống thực bàophối hợp với các
phản ứng miễn dịch để tiêu diệt tác nhân xâm
nhập [6].
Hình 1. Nguyên lý của hệ thống bảo vệ vật chủ liên
quan với thực bào ở động vật không xương sống [5].
Hemolymph và các hemocyte tuần hoàn
Hệ thống miễn dịch tự nhiên của sam biển
chủ yếu liên quan đến đáp ứng bảo vệ bằng
N.T. Huyền và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 2 (2018) 1-9 3
cách sử dụng hệ thống phòng thủ độc đáo và
hiệu quả cao. Hemolymph (chất lỏng ở sam
biển tương tự như máu - sau đây xin phép gọi là
máu) và các hemocyte (giống như tế bào máu)
hoạt động như cơ chế bảo vệ cơ bản khi bị
nhiễm vi sinh vật. Huyết tương của sam biển
chứa nhiều phân tử bảo vệ hòa tan, như các
hemocyanin, các lectin, các protein phản ứng C,
và các protein có liên kết thioester (các α2 -
macroglobulin). Thêm vào đó các hemocyte hạt
(amebocyte) - tế bào di động trong cơ thể,
tương tự như tế bào máu trắng ở động vật có
xương sống, sẽ khử cực nhanh khi tiếp xúc với
tác nhân gây bệnh [7]. Các hemocyte chiếm hơn
99% các tế bào trong tuần hoàn, chứa các phân
tử bảo vệ khác nhau, nằm trong hai loại hạt lớn
(L) - và nhỏ (S) (Hình 2). Hạt L chứa chọn lọc
hơn 25thành phần bảo vệ với khối lượng phân
tử từ 8 đến 120 kDa. Chúng bao gồm các yếu tố
đông máu, protein đông máu coagulogen, chất
ức chế proteinase, các lectin và protein kháng
khuẩn. Ngược lại, hạt S chứa ít nhất sáu peptid
kháng khuẩnvà một số protein có khối lượng
phân tử <30 kDa.Những peptid này bao gồm
một lượng lớn tachyplesin giống kẹp tóc
(hairpin-like tachyplesin) (17-18 gốc amino
acid), các tachystatin (dư 41-44 gốc amino
acid), tachycitin (73 gốc amino acid) và các
defensin lớn (79 amino acid), có hoạt tính
caochống lại vi khuẩn gram âm, gram dương và
nấm [8, 9].
Hình 2. Hình ảnh tế bào hemocyte của sam biển (T.
tridentatus) và các phân tử bảo vệ chính nằm trong
các hạt lớn và hạt nhỏ [5].
Huyết tương của Tachypleus
tridentatus chứa ba loại protein chiếm ưu thế, là
hemocyanin (vận chuyển oxy), proteinC-phản
ứng (CRP) và các α2 –macroglobulin.Hơn thế
nữa, các hemocyte trong tuần hoàn cực kỳ nhạy
cảm với LPS - thành phần chính của thành tế
bào vi khuẩn, và đáp ứng bằng cách khử một số
thành phần của hạt sau khi được kích thích qua
trung gian LPS, kết quả dẫn đến hình thành cục
máu đông bao bọc và phong tỏa vi khuẩn. Sự
nhanh chóng hình thành cục máu đông này
được cho là cơ chế quan trọng bảo vệ cơ thể vật
chủ, tiêu diệt vi khuẩn xâm nhập, và ngăn ngừa
sựmất máu [6].
Hệ thống đông máu của sam biển
Hiện tượng đông máu được Bang lần đầu
tiênxác định nhưmột hệ thống miễn dịch -
phòng thủ nổi bật của sam biển (Limulus
polyphemus) [10]. Khi vi khuẩn gram âm xâm
nhập vào máu, các hemocyte phát hiện các phân
tử LPS trên bề mặt của chúng, và sau đó phân
giải nhanh chóng thông qua sự xuất bào các
thành phần chứa trong các hạt L và S. Các
thành phần hạt được giải phóng bao gồm hai
yếu tố cảm biến là C và G. Hai yếu tố này là các
enzyme serine protease và được kích hoạt bởi
LPS,hoặc (1 → 3)-β-D-glucan (thành phần
chính của thành tế bào nấm). Năm 1996,
Tamura và cộng sự cho biếtcác hemocyte chứa
một protein liên kết với (1 → 3)-β-D-glucan,
khác với yếu tố G vì nó không tham gia vào
khởi động quá trình đông máu [11].
Hình 3. Thác đông máu qua trung gian LPS và
(1→3)-β-D-glucan ở các tế bào hemocyte của sam
biển (T. tridentatus). LICI (Limulus intracellular
coagulation inhibitor) [5].
N.T. Huyền và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 2 (2018) 1-9
4
Hình 3 minh họa quá trình đông máu của T.
tridentatusqua trung gian LPS và (1→3)-β-D-
glucan, trong đó tác nhân ức chế đông máu nội
bào limulus (LICI), có tác dụng điều khiển sự
lan truyền phản ứng. Quá trình kích hoạt đông
máu này liên quan đến serine protease
zymogen; yếu tố C (123 kDa), B (64 kDa), G
(110 kDa); enzyme tiền đông (54 kDa) và
coagulogen (20 kDa). Trong sự có mặt của LPS
hoặc các chất tương tự lipid tổng hợp A, yếu tố
C được tự hoạt hóa thành dạng hoạt động (yếu
tố C). Yếu tố B zymogen sau đó được hoạt hóa
bởi yếu tố C thành dạng hoạt động của nó (yếu
tố B), yếu tố B hoạt hóa enzyme tiền đông
thành enzyme đông máu. Enzyme đông máu
sau đó chuyển coagulogen thành coagulin gel
không hòa tan, bao gồm các polymer giống
nhau không liên kết cộng trị. Mặt khác, yếu tố
G zymogen bao gồm hai phần khác nhau và tự
hoạt hóa xúc tác trong sự hiện diện của (1 →
3)-β-Dglucan, trong trường hợp không có bất
kỳ protein nào khác. Kết quả của sự hoạt hóa
yếu tố G làm hoạt hóa trực tiếp enzyme tiền
đông, dẫn đến hình thành gel coagulin. Gần
đây, Osaki và cộng sự thấy rằng coagulin (các
polymer giống nhau không liên kết cộng trị)
được liên kết chéo bằng cách nối các protein bề
mặt tế bào hemocyte, có tên là các proxin, trong
sự có mặt của transglutaminase có nguồn gốc từ
hemocyte [12]. Điều này cho thấy rằng liên kết
chéo quan trọng ở giai đoạn cuối cùng của quá
trình đông máu để tạo điều kiện cầm máu và
chữa lành vết thương, như đã được biết trong hệ
thống đông máu của động vật có vú. Điều thú vị
là đầu tận NH2 của yếu tố B zymogen và
enzyme đông máu chứa một phần domain nhỏ
có ba liên kết disulfide, được gọi là clip domain
(yếu tố miễn dịch trong máu). Một clip domain
tương tự cũng đã được tìm thấy trong vùng NH2
tận của proenzyme protease serine có nguồn
gốc từ Drosophila. Ba cầu nối disulfide nằm
trong clip domain được xác định là defensin-
peptid kháng khuẩn trong hemocyte của T.
tridentatus. Đầu tận COOH của clip domain
trong enzyme tiền đông tạo thành một vùng bản
lề dễ bị phân giải protein, clip domain giống
như defensin, có thể bị phân giải trong quá trình
hoạt hóa các serine protease zymogen, hoạt
động như một chất kháng khuẩn. Trong thực tế,
clip domain bắt nguồn từ prophenoloxidase
hoạt hóa serine protease của tôm song, có hoạt
tính kháng khuẩn tương tự như β-defensin của
người. Như vậy, quá trình đông máu cũng có
thể sản xuất các tác nhân kháng khuẩn, và do đó
phục vụ hai mục đích là đông máu vừa có tác
dụng chống mất máu, vừa có tác dụng bao bọc,
cô lập và tiêu diệt tác nhân xâm nhập [6, 13].
3. Limulus amebocyte lysate sam biển và
đặc tính
Nguồn gốc và hóa tính của nội độc tố
Nội độc tố (lipopolysaccharide (LPS)) là
một thành phần của thành tế bào vi khuẩn gram
âm. LPS rất bền vững và không bị phá hủy bởi
hầu hết các phương pháp tiệt khuẩn bằng các
tác nhân vật lý và hóa học thông dụng. Bất cứ ở
đâu có vi sinh vật sinh sống thì đều có sản
phẩm của chúng là nội độc tố. Khi nội độc tố
được đưa vào cơ thể con người thì đều gây ra
các phản ứng có hại, trong số đó có khả năng
làm tăng nhiệt độ cơ thể (pyrogenic - nên còn
được gọi là chất gây sốt), nếu nặng thậm chí có
thể gây từ vong. Nước là một môi trường phát
triển tuyệt vời cho vi khuẩn, đặc biệt là vi
khuẩn gram âm, vì vậy nước thường là nguồn
nội độc tố chính [14]. Tuy nhiên nước đóng vai
trò như thành phần chính trong quá trình sản
xuất thuốc tiêm truyền, vaccine, sinh phẩm và
trang thiết bị y tế, do đó việc loại bỏ nội độc tố
ra khỏi nước là mối quan tâm chính của các nhà
sản xuất dược phẩm. Thành phần gây độc của
LPS và thành phần phản ứng với Limulus
amebocyte lysate (LAL) là lipid A - một phần
của phân tử LPS. Lipid A tương tự nhau ở các
loài vi khuẩn khác nhau. Do đó LAL trở thành
một thử nghiệm phổ biến để phát hiện nội độc
tố, tuy nhiên LAL không thể được sử dụng để
phân biệt giữa các loài [15].
Sinh hóa của Limulus amebocyte lysate
Cơ sở sinh hóa của Limulus amebocyte
lysate (LAL) đóng một vai trò quan trọng trong
N.T. Huyền và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 2 (2018) 1-9 5
khả năng ngăn ngừa nhiễm trùng của sam biển
[16]. Các cơ chế hoạt động của các thành phần
sinh hóa tạo nên LAL bắt nguồn từ các
amebocyte của sam biển. Năm 1956 Bang đã
cho biết các vi khuẩn gram âm, ngay cả khi bị
chết, sẽ làm cho máu của sam biển đông vón
thành một khối bán rắn. Sau đó người ta nhận ra
rằng các tế bào máu của động vật này, các tế
bào di động được gọi là amebocyte, chứa các
hạt có yếu tố đông máu được gọi là coagulogen;
chúng được giải phóng ra bên ngoài tế bào khi
gặp nội độc tố vi khuẩn. Các thành phần này
không chỉ nhận ra vi khuẩn gram âm mà còn
nhận diện được các loại nấm (chứa b-D-1,3-
glucan) [17]. Về cơ bản, tất cả LAL được lấy từ
máu của sam biển trưởng thành và phân tách
các amebocyte từ huyết tương hoặc từ máu. Các
amebocyte sau đó bị phá vỡ hoặc phân giải để
giải phóng các thành phần sinh hóa tạo thành
các thành phần hoạt tính của LAL. Sự khác biệt
trong sản xuất ở các nhà sản xuất khác nhau xảy
ra ở tất cả các bước. Ví dụ: một số nhà sản xuất
sử dụng các dụng cụ bằng thủy tinh và thép
không gỉ để lấy máu, trong khi một số khác sử
dụng nhựa. Các amebocyte có thể được phá vỡ
bằng cách phân tán trong nước cất, bằng cách
luân phiên đóng băng và rã đông, hoặc làm vỡ
do cơ học.Các hóa chất khác nhau có thể cũng
được sử dụng để ngăn chặn sự đông máu hoặc
sự vỡ sớm của các amebocyte trong khi lấy
máu. Các sản phẩm test LAL của các nhà sản
xuất khác nhau thì khác nhau về chất lượng và
kết quả. Điều này đặc biệt rõ ràng với một số
mẫu nhất định, thường có thành phần hóa học
phức tạp, được thử nghiệm với nhiều loại test
LAL của các nhãn hiệu. Sự liên hệ sinh hóa của
phản ứng LAL được thể hiện trong hình 2 [15].
Xét nghiệm LAL được mô tả ban đầu đã sử
dụng phản ứng sinh lý ''đông máu''. Xét nghiệm
này thường được gọi là test cục máu đông [18].
Về cơ bản nó là một test dựa trên việc xác định
mức pha loãng nhất của mẫu thử mà vẫn còn
làm cho thuốc thử LAL keo tụ trong ống thử
nghiệm trong một khoảng thời gian nhất định ở
nhiệt độ ủ cố định. Một biến thể của xét nghiệm
này sử dụng phép đo độ đục, độ đục được hình
thành do khơi mào sự keo tụ và được xác định
như điểm kết thúc phép thử. Loại xét nghiệm
này thường nhạy hơn và/hoặc nhanh hơn so với
xét nghiệm gây keo tụ trong ống nghiệm trên
đây. Để đọc chính xác kết quả thử nghiệm này
cần sử dụng máy quang phổ.
Cuối cùng, thành phần của LAL gây đục và
sau đó là cục máu đông hình thành, coagulogen,
có thể được thay thế bởi một cơ chất peptide
màu. Cơ chất màu được sử dụng cho các phản
ứng đặc trưng của nội độc tố vi khuẩn là Boc-
Leu-Gly-Arg-p-nitroanilide (pNA). Chuỗi cơ
chất này bắt nguồn từ các chuỗi ở vị trí kết thúc
bị enzyme đông máu cắt trong sự gel hóa
coagulogen. Cơ chất màu được thủy phân bằng
enzyme đông máu để giải phóng pNA. Bằng
cách đo độ hấp thụ của pNA giải phóng ở 405
nm, nồng độ nội độc tố trong các mẫu có thể
được xác định. Nồng độ nội độc tố cũng có thể
được xác định bằng cách đo độ hấp thụ ở bước
sóng 545 nm sau khi tạo nối diazo với pNA,
trong trường hợp mẫu có màu vàng sẵn có để
loại bỏ nhiễu . Các phương pháp được mô tả
trên đây nhạy hơn 100 lần so với test cục máu
đông và khả năng lặp lại cao [5].
4. Ứng dụng của LAL trong y dược học
Ứng dụng của LAL trong xác định nội
độc tố vi sinh vật
Ngay sau khi phát hiện ra LAL và các đặc
tính của nó, việc ứng dụng để phân tích xác
định nội độc tố vi sinh vật trong dược phẩm và
trang thiết bị y tế ngày càng phổ biến. So với
phương pháp sử dụng thỏ sống để đánh giá sự
tăng nhiệp độ do thuốc gây ra (xác định chất
gây sốt) được hầu hết các dược điển công nhận
thì thử nghiệm LAL (mặc dù chưa được chính
thức công nhận trên diện rộng) cho nhiều ưu
điểm hơn về độ nhạy, thời gian và chi phí.
Nước tinh khiết
Vì nước là thành phần hoặc là một tác nhân
trong quá trình chế biến (nước rửa) của các loại
thuốc và thiết bị, và vì nước dễ bị nhiễm nội
độc tố vi khuẩn, do đó nước là chất chiếm số
lượng lớn nhất các xét nghiệm LAL trong
N.T. Huyền và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 2 (2018) 1-9
6
ngành công nghệ dược phẩm. Mức độ được
chấp nhận của USP và FDA là 0,25 đơn vị độc
tố (EU) ml-1 (1 EU tương đương với khoảng 1
ng nội độc tố tinh khiết thu được từ chủng
Escherichia coli). Để so sánh, thông thường nước
uống đóng chai có thể chứa vài EU ml-1. Việc
kiểm tra nội độc tố trong nước cũng đặc biệt
quan trọng khi sử dụng trong chạy thận nhân
tạo. Trong quá trình chạy thận nhân tạo, ngoài
nước, máy lọc cũng cần kiểm tra chặt chẽ với
thử nghiệm LAL [19].
Thuốc tiêm tĩnh mạch
Độc tính của nội độc tố sẽ cao nhất khi tiêm
trực tiếp vào máu, vì vậy các dung dịch tiêm
tĩnh mạch (IV) phải chứa nồng độ nội độc tố
dưới liều gây sốt. Khi bào chế thuốc IV, sản
phẩm cuối cùng cần phải được thử nghiệm để
xác định giới hạn chất gây sốt. Bên cạnh
phương pháp thử trên thỏ sống, thử nghiệm
LAL cũng được một số nước chấp thuận chính
thức hoặc được sử dụng cho các thử nghiệm
trong quá trình sản xuất. Giới hạn nội độc tố
cho thuốc IV cao hơn một chút so với nước và
dựa trên liều dự đoán được sử dụng cho từng
loại thuốc cụ thể [15].
Các chế phẩm sinh học
Chế phẩm sinh học (CPSH) là các chế phẩm
chứa các chất có nguồn gốc từ động vật, ví dụ,
các yếu tố đông máu, insulin, interferon, ... Chế
phẩm sinh học cũng bao gồm vaccin có thể
chứa vi khuẩn hoặc thành phần động vật (ví
dụtừ trứng gà). Người ta nhận thấy, các chế
phẩm sinh học có thể chứa một lượng lớn nội
độc tố. Tuy nhiên chế phẩm sinh học thường sử
dụng ở liều tương đối thấp và thường được tiêm
bắp, vì thế các phản ứng có hại ở mức kiểm
soát được. Mặc dù vậy, vào năm 1976, đã xảy
ra phản ứng bất lợi ở lô của vaccin cúm lợn,
bằng xét nghiệm LAL, xác định rằng lô vaccin
có mức nội độc tố đặc biệt cao và là nguyên
nhân gây ra những tác động bất lợi này. Thuốc
kháng sinh, tuy không giống chế phẩm sinh
học, cũng có thể chứa một lượng lớn nội độc tố
vì chúng có nguồn vi sinh vật [20].
Thiết bị y tế
Các thiết bị y tế như bơm tiêm, catheter và
kim tiêm thường được xử lý trước khi sử dụng.
Tuy nhiên, các cơ quan cấy ghép như van tim
của lợn, hoặc thiết bị chỉnh hình, quá trình
tạo ra khá phức tạp, có thể chứa hàm lượng nội
độc tố gây viêm cục bộ và thải ghép. Trong
những trường hợp này, cần đặc biệt chú ý kiểm
tra chất gây sốt, trong đó có thử nghiệm LAL
trước khi sử dụng. Các thiết bị cần được rửa
bằng nước âm tính với LAL và sau đó nước rửa
này được sử dụng cho thử nghiệm LAL [15].
Thuốc tái tổ hợp
Đây là những loại thuốc được sản xuất bằng
kỹ thuật di truyền và được sản xuất bởi vi
khuẩn, nấm hoặc nuôi cấy tế bào động vật có
vú. Các loại thuốc tái tổ hợp được sản xuất bởi
vi khuẩn gram âm E. coli sẽ có có khả năng
nhiễm nội độc tố cao từ sinh vật sản xuất. Thử
nghiệm LAL đặc biệt quan trọng để kiểm tra và
đảm bảo chất lượng sản phẩm với những chế
phẩm loại này [15].
Lưu trữ máu
Từ năm 1987 đến năm 1991, chín trường
hợp liên quan đến máu bị nhiễm vi khuẩn
Yersinia enterocolitica đã được báo cáo với
CDC [21]. Trong các trường hợp này, được xác
định thông qua phân tích LAL, hầu hết các tác
dụng phụ nghiêm trọng (bao gồm 7 ca tử vong)
là do được truyền tế bào máu bị nhiễm nội độc
tố mà không liên quan đến nhiễm trùng. Trong
một trường hợp, hơn 20.000 ng.ml-1 nội độc tố
đã được phát hiện. Mặc dù hy vọng rằng LAL
có thể được sử dụng thường xuyên để sàng lọc
các tế bào máu được lưu trữ ngay trước khi
truyền máu, lấy mẫu (ví dụ: lấy mẫu ra khỏi túi
máu ngay trước khi truyền) mà không ảnh
hưởng đến tính vô khuẩn của (các) đơn vị, và
gửi mẫu đến phòng thí nghiệm (so với thử
nghiệm bên cạnh giường), cho thấy thử nghiệm
LAL không thực tế cho ứng dụng này. Ngoài
ra, tỷ lệ nhiễm trùng là cực kỳ thấp (43 triệu
đơn vị máu được sử dụng cho 13 triệu bệnh
nhân từ tháng 4 năm 1987 đến tháng 10 năm
1990, trong đó có chín trường hợp được báo
cáo và bảy người chết). Vấn đề cuối cùng đã
được giải quyết bằng cách rút ngắn thời gian
bảo quản các tế bào máu. Thời gian lưu trữ
ngắn hơn không cho phép vi khuẩn sản xuất đủ
endotoxin để gây ra vấn đề [15].
N.T. Huyền và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 2 (2018) 1-9 7
5. Ứng dụng của LAL trong nghiên cứu y
dược học
Tác dụng sinh học của nội độc tố
Một trong những biểu hiện rõ ràng nhất của
nội độc tố là phản ứng gây sốt, phản ứng ở mức
độ thể dịch và tế bào rất đa dạng và phức tạp.
Do đó thử nghiệm LAL trở thành một công cụ
không thể thiếu cho các nhà khoa học nghiên
cứu ảnh hưởng của nội độc tố trong các mô
hình động vật có vú để tìm ra vai trò của nội
độc tố trong các biểu hiện bệnh [22, 23].
Tìm kiếm thuốc kháng nội độc tố
Trong nghiên cứu nhiễm trùng gram âm và
nhiễm trùng huyết, nội độc tố đóng một vai trò
quan trọng trong đáp ứng sinh lý bệnh của vật
chủ [24]. Giả định rằng nếu các tác động bất lợi
của nội độc tố có thể được loại trừ, khả năng
sống trong bệnh nhiễm khuẩn có thể được cải
thiện. Vì phần độc tính của nội độc tố (LPS) là
lipid A, là một phần của phân tử LPS gây phản
ứng LAL, các hợp chất kháng nội độc tố có thể
được sàng lọc bằng thử nghiệm LAL trước khi
thử nghiệm trên động vật [25]. Một số nghiên
cứu đã chỉ ra điều này là một chiến lược hiệu
quả, và thực tế là một hợp chất có khả năng
trung hòa độc tố với tiềm năng điều trị được
phân lập từ Limulus hemolymph và được nghiên
cứu rộng rãi [26]. Một dạng tái tổ hợp của
protein này cũng được phát triển và bước đầu
cho thấy có tác dụng tốt [27].
Phát triển xét nghiệm nhiễm nấm
Năm 1988, các nhà điều tra Nhật Bản đã mô
tả một phương pháp có thể thay thế phản ứng
LAL [17]. Nhiều nghiên cứu ở Nhật Bản sử
dụng hai công thức LAL khác nhau(một chỉ
nhạy cảm với nội độc tố và một nhạy cảm với
cả nội độc tố và glucan) đã chứng minh giá trị
của thử nghiệm LAL trong việc phát hiện
nhiễm nấm và đưa đến chẩn đoán nấm [28].
Nghiên cứusử dụng thuốc thử LAL chỉ nhạy
cảm với glucan, thử nghiệm trở nên đơn giản
hơn nhiều. Mặc dù xét nghiệm glucan đã được
sử dụng rộng rãi ở Nhật Bản, sự phát triển hơn
nữa tại Hoa Kỳ là cần thiết trước khi
FungitellTM được FDA phê duyệt như một trợ
giúp trong việc chẩn đoán nhiễm nấm hệ thống.
Trong khi không phải là một thử nghiệm phổ
biến cho nhiễm nấm, xét nghiệm glucan đã
được báo cáo là đặc biệt hữu ích cho phát hiện
sớm nhiễm Aspergillus và Candida [15].
Tổng hợp sản phẩm thay thế cho xét
nghiệm LAL
Để sản xuất các LAL, máu sam biển được
lấy bằng cách chích trực tiếp vào timcon vật
trong điều kiện hạn chế tối thiểu nhiễm nội độc
tố. Một con sam lớn có thể thu 200 - 400
mlmáu (Hình 4). Sau khi lấy máu, chúng được
thả trở lại biển. Hầu hết sống sót trong quá trình
này, tỷ lệ chết liên quan với cả lượng máu được
lấy và điều kiện trong khi xử lý và vận chuyển.
Ước tính tỷ lệ chết sau lấy máu thay đổi từ 3-
15% đến 10-30%. Vì lý do bảo vệ loài sam biển
và tránh phụ thuộc hoàn toàn vào loài này, việc
nghiên cứu tổng hợp các sản phẩm thay thế cho
LAL cần phải được triển khai [5].
Hình 4. Lấy máu từ sam biển [15].
Từ năm 2003, một sản phẩm tổng hợp thay
thế cho xét nghiệm LAL đã có mặt trên thị
trường. Nó được dựa trên một protein là yếu tố
đông máu C của sam biển, được sản xuất bởi tế
bào ruột côn trùng biến đổi gen. Việc áp dụng
xét nghiệm này tương đối chậm, bắt đầu thay
đổi vào năm 2016 khi Dược điển châu Âu
chấp nhận xét nghiệm này để xét nghiệm độc
tố vi khuẩn.
N.T. Huyền và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 2 (2018) 1-9
8
6. Kết luận
Năm 1977, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và
Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) cấp giấy phép cho
Limulus amebocyte lysate (LAL) như một xét
nghiệm sự có mặt của nội độc tố trong các chế
phẩm sinh học, thuốc và các thiết bị y tế. LAL
hiện đã được công nhận bởi một số dược điển
lớn và được sử dụng trên toàn thế giới. Đó là
một giải pháp thay thế thích hợp để phát hiện
nội độc tố so với sử dụng động vật sống như
trước đây do giảm được thời gian và chi phí. Kể
từ khi được tìm ra, LAL đã chứng minh tính
hữu ích của nó.LAL cũng đã trở thành xét
nghiệm được lựa chọn bởi cả các nhà nghiên
cứu lâm sàng và môi trường. Cuối cùng, mặc dù
số lượng sam biển chết liên quan đến sản xuất
LAL là thấp, ngành công nghiệp LAL đã thực
hiện các bước để tìm một chất thay thế tổng hợp
và tạo ra các thuốc thử và phương pháp sử dụng
LAL ít hơn nhiều so với xét nghiệm truyền
thống [15].
Tài liệu tham khảo
[1] Hwang Jangsun, Jeong Yoon, Park Jeong Min,
Lee Kwan Hong, Hong Jong Wook, Choi
Jonghoon, Biomimetics: forecasting the future of
science, engineering, and medicine, International
Journal of Nanomedicine 10 (2015) 5701-5713.
[2] Nguyễn Thanh Hải, Bùi Thanh Tùng, Phạm Thị
Minh Huệ, Phỏng sinh học trong y dược học –
Hướng nghiên cứu cần được đẩy mạnh, Tạp chí
Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội – Khoa học Y
Dược 33(1) (2017) 1.
[3] Vikash Kumar, Suvra Roy, A.K. Sahoo, B.K.
Behera, A.P. Sharma, Horseshoe crab and its
medicinal values, International Journal of Current
Microbiology and Applied Sciences 4 (2) (2015)
956-964.
[4] Elizabeth A. Walls, Jim Berkson, Stephen A.
Smith, The Horseshoe Crab, Limulus
polyphemus: 200 Million Years of Existence, 100
Years of Study, Reviews in Fisheries Science 10
(1) (2002) 39-73.
[5] Vikash Kumar, Suvra Roy, A.K. Sahoo, Vikas
Kumar, Horseshoe crabs: biomedical importance
and its potential use in developing health-care
products, Indian Journal of Geo-Marine Sciences
45 (10) (2016) 1234-1244.
[6] Iwanaga S., Lee B.L., Recent Advances in the
Innate Immunity of Invertebrate Animals, Journal
of Biochemistry and Molecular Biology 38 (2)
(2005) 128-150.
[7] Iwanaga S., Kawabata S., Evolution and
phylogeny of defense molecules associated with
innate immunity in horseshoe crab, Frontiers in
Bioscience 3 (1998) 973-984.
[8] Iwanaga S., The molecular basis of innate
immunity in the horseshoe crab, Current Opinion
in Immunology 14 (2002) 87-95.
[9] Iwanaga S., Muta T., Shigenaga T., Miura Y.,
Seki N., Saito T., Kawabata S., Role of hemocyte-
derived granular components in invertebrate
defense,Annals of the New York Academy of
Sciences 712 (1994) 102-116.
[10] Bang F.B., A bacterial disease of Limulus
Polyphemus, Bulletin of the Johns Hopkins
Hospital 98 (1956) 325-351.
[11] Tamura H., Tanaka S., Oda T., Uemura Y.,
Aketagawa J., Hashimoto Y., Purification and
characterization of a (13)-β-D-glucan binding
protein from horseshoe crab (Tachypleus
tridentatus) amoebocytes, Carbohydrate Research
295 (1996) 103-116.
[12] Osaki T., Okino N., Tokunaga F., Iwanaga S.,
Kawabata S., Proline-rich cell surface antigens of
horseshoe crab hemocyté are substrates for protein
cross-linking with clotting protein coagulin,
Journal of Biological Chemistry277 (2002)
40084-40090.
[13] Krem M.M., Cera E.D., Evolution of enzyme
cascades from embryonic development to blood
coagulation, Trends in Biochemical Sciences 27
(2002) 67-74.
[14] Dawson ME, Novitsky TJ, Gould MJ, Microbes,
endotoxins and water, Pharmaceutical
Engineering 8(2) (1988) 9–12.
[15] Thomas J. Novitsky, Biomedical Applications of
Limulus Amebocyte Lysate, Biology and
Conservation of Horseshoe Crabs (2009) 315-329.
[16] Armstrong PB, Internal defense against
pathogenic invasion: The immune system, The
American Horseshoe Crab, Harvard University
Press, Cambridge (2003) 288–309.
[17] Morita T, Tanaka S, Nakamura T, Iwanaga S, A
new (1–3)-ß-D-glucan-mediated coagulation
pathway found in Limulus amebocytes, FEBS
Letters 129 (1981) 318–321.
N.T. Huyền và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược, Tập 34, Số 2 (2018) 1-9 9
[18] Novitsky TJ, Industrial application of the LAL
test, Rapid detection of bacteria and bacterial
endotoxins (1988) 179–180.
[19] Novitsky TJ, Monitoring and validation of high
purity water systems with the Limulus amebocyte
lysate test for pyrogens, Pharmaceutical
Engineering 4 (1984) 21–33.
[20] Case MJ, Ryther SS, Novitsky TJ, Detection of
endotoxin in antibiotic solutions with Limulus
amoebocyte lysate, Antimicrobial Agents and
Chemotherapy 23 (1983) 649–652.
[21] Arduino MJ. Bland LA, Tipple MA, Aguero SM,
Favero MS, Jarvis WR, Growth and endotoxin
production of Yersinia enterocolitica and
Enterobacter agglomerans in packed
erythrocytes, Journal of Clinical Microbiology 27
(1989) 1483–1485.
[22] Romero R, Roslansky PF, Oyarzun E, Wan M,
Emamian M, Novitsky TJ, Gould MJ, Hobbins
JC, Labor and infection Bacterial endotoxin in
amniotic fluid and its relationship to the onset of
preterm labor, American Journal of Obstetrics and
Gynecology 158 (1988) 1044–1049.
[23] Warren HS, Novitsky TJ, Ketchum PA, Roslansky
PF, Kania S, Siber GR, Neutralization of bacterial
lipopolysaccharides by human plasma, Journal of
Clinical Microbiology 22 (1985) 590–595.
[24] Riveau, GR, Novitsky TJ, Roslansky PF, Warren
HS, Dinarello CA, Role of interleukin-1 in
augmenting serum neutralization of bacterial
lipopolysaccharide, Journal of Clinical
Microbiology25 (1987) 889–892.
[25] Warren HS, Novitsky TJ, Martin P, Roslansky PF,
Siber GR, Endotoxin neutralizing capacity of sera
from different patient populations assessed by the
Limulus lysate test, Detection of bacterial
endotoxins with the Limulus amebocyte lysate test
(1987) 341–348.
[26] Stack AM, Saladino RA, Siber GR, Thompson C,
Marra MN, Novitsky TJ, Fleisher GR, A
comparison of bactericidal/permeability versus
increasing protein variant recombinant endotoxin-
neutralizing protein for the treatment of
Escherichia coli sepsis in rats, Critical Care
Medicine 25 (1997) 101–105.
[27] Andra¨ J, Garidel P, Majerle A, Jerala R, Ridge R,
Paus E, Novitsky T, Koch MHJ, Brandendurg K,
Biophysical characterization of the interaction of
Limulus polyphemus endotoxin neutralizing
protein with lipopolysaccharide, European Journal
of Biochemistry 271 (2004) 2037–2046.
[28] Obayashi T, Yashida M, Mori T, Goto H,
Yasuoka A, Iwansaki H, Teshima H, Kohno S,
Horiuchi A, Ito A, Yamanguchi H, Shimada K,
Kawai T, Plasma (1–3)-ß-D-glucan measurement
in diagnosis of deep mycosis and fungal febrile
episodes, Lancet 345 (1995) 17–20.
Biomimetics of Limulus Immune System and
Its Medical Applications
Nguyen Thi Huyen1, Dang Kim Thu1, Bui Thanh Tung1,
Pham Thi Minh Hue2, Nguyen Thanh Hai1
1VNU School of Medicine and Pharmacy, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
2Hanoi University of Pharmacy, 15 Le Thanh Tong, Hoan Kiem, Hanoi, Vietnam
Abstract: Biomemetics (or bionics) as a scientific discipline has potential applications in various
research fields as well as in improving human lives. In the field of medicine and pharmacy,
biomimetic methods are of great value in developing drugs, developing methods for the diagnosis,
prevention and treatment of diseases.
Biomimetics of immune system in medicine and pharmacy is a great subject with the potential to
make remarkable progress. The immune system of the species is rich, diverse and has different
mechanisms. This study investigates the biomimetics of Limulus immune system and its practical
application prospects.
Keywords: Biomimetics, Limulus, immunology, practical applications.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phong_sinh_hoc_mien_dich_loai_sam_bien_va_ung_dung_trong_y_d.pdf