Thứ nhất, nó chưa giúp lượng hóa
thành các con số cụ thể - ít nhất cho đến
chừng nào chưa thống nhất về thang điểm
đối với các quyền tự do, lợi ích phi vật chất
- nhưng lại dễ dàng giúp cho những người
tham gia tranh luận so sánh các lựa chọn
chính sách, lựa chọn chính sách khác nhau.
Lúc này việc chứng minh một lựa chọn
chính sách nào đó là tối ưu rất giống với việc
chứng minh bất đẳng thức toán học, rằng: hệ
số tương quan chi phí (cost) và lợi ích đạt
được (benefit) lớn hơn hệ số của phương án
thuộc đối tượng so sánh. Ít nhất, nó giúp cho
các tranh luận diễn ra trong cùng một hệ quy
chiếu; tránh tình trạng A bảo rằng cam nhà
B rất chua, còn B thì ra sức chứng minh khế
nhà B rất ngọt.
Thứ hai, thành công hay thất bại của
một quốc gia do thể chế; thể chế gồm nhiều
yếu tố cấu thành; việc giải thích cắt khúc
phiến diện sẽ không tìm ra lời giải đúng.
Phương pháp nêu trên, bắt đầu từ việc góp
quyền tự do nguyên thủy đến phân tích
hiệu quả sử dụng từng đồng ngân sách. Hy
vọng sẽ tránh bỏ sót các giai đoạn, các yếu
tố quan trọng; đồng thời gợi mở cách tiếp
cận linh hoạt, mà không bó hẹp việc tìm
kiếm giải pháp ở trong khu vực công.
Thứ ba, làm rõ hơn bản chất, vai trò
của “nhà nước của dân, do dân, vì dân”, nhà
nước phúc lợi chung thay vì nhà nước cai trị;
nhà nước cảm tính, duy ý chí theo ý muốn
chủ quan của một nhóm nhỏ người cai trị.
Thứ tư, các chính sách công trên thực
tế sẽ ít khi đạt trạng thái tuyệt đối, mà dao
động giữa hai đường cong (đường cong thịnh
vượng & đường cong đói nghèo); nhiệm vụ
của các thảo luận chính sách, các đạo luật là
nắn đường cong thực tế sao cho càng tiệm
cận đường cong thịnh vượng càng tốt
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 222 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phương pháp kinh tế - luật trong phân tích chính sách lập pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Bài viết phân tích hiệu lực, chi phí, hiệu quả, trật tự ưu tiên của các
phương pháp điều chỉnh mà nhà nước có thể sử dụng; các nguyên tắc
cơ bản cần phải tuân thủ trong thiết kế bộ máy nhà nước, lựa chọn
lãnh đạo, tuyển dụng công chức, thu thuế nhằm đạt được hiệu quả
tối ưu dưới góc nhìn kinh tế - luật.
Võ Trí Hảo*
* PGS. TS. Khoa Luật, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
Abstract
This article provides the analysis of strengths, costs, benefits, priorities
of each method for which the government may apply; and also the
principles should be followed for stablishment of state apparatus,
leadership selection, employment of civil servants, tax collection etc.
in order to receive the optimal option under the view of economics -
jurisprudence.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: quyền tự nhiên, xã hội
hóa, phương pháp điều chỉnh, hiệu
quả pháp luật
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 28/05/2018
Biên tập : 21/07/2018
Duyệt bài : 01/08/2018
Article Infomation:
Keywords: natural rights,
privatization, (legal dealing)
method, effectiveness of law
Article History:
Received : 28 May 2018
Edited : 21 Jul. 2018
Approved : 01 Aug. 2018
PHƯƠNG PHÁP KINH TẾ - LUẬT
TRONG PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH LẬP PHÁP
1. Lựa chọn bên thứ ba để góp quyền
tự do
Mỗi cá nhân chúng ta khi góp quyền
tự do cho ai đó cũng sẽ có những mưu cầu,
toan tính như thể một nhà đầu tư tài chính;
họ cũng áp dụng nguyên tắc “trứng không
để cùng một giỏ”; họ đa dạng hoá “kênh đầu
tư góp vốn”, để phân tán rủi ro và thu được
“lợi ích đặc thù”, mà ở các kênh khác không
có được. Ví dụ, đa số nhân loại khi đến tuổi
trưởng thành, chấp nhận hy sinh tự do của
trạng thái độc thân, mang hầu hết của cải
và tự do của mình để đầu tư vào hợp đồng
quan trọng nhất của cuộc đời - contract of
marriage - tức hôn nhân trong chế độ một
vợ một chồng; một quan hệ hợp đồng mà
một bên (thường là phụ nữ) xem là “đầu tư”,
một bên (thường là đàn ông) quan niệm là
“tiêu dùng” với quy trình thẩm định đối tác
(tìm hiểu yêu đương), đặt cọc giao kết hợp
CHÑNH SAÁCH
36 Số 16(368) T8/2018
đồng (ăn hỏi), ký kết hợp đồng với nghi thức
chứng thực đăng ký giao dịch bảo đảm tại
ủy ban nhân dân xã, phường và với lễ công
bố long trọng.
Cũng giống như các nhà đầu tư tài
chính, càng có nhiều đam mê sở thích, càng
có nhiều “vốn” họ càng đầu tư đa dạng; các
cá nhân không chỉ góp tự do của mình cho
nhà nước, cho gia đình mà họ còn tham
gia xây dựng, tạo lập hoặc gia nhập các
hợp đồng mẫu có sẵn của các cơ quan, tổ
chức, các hợp đồng này có thể thành văn,
bất thành văn với tên gọi đa dạng từ điều
lệ, hiến chương, nội quy, quy chế Người
mê sinh vật cảnh thì gia nhập hội cây cảnh,
người muốn chia sẻ cảm xúc thì gia nhập
câu lạc bộ thơ, người muốn bảo vệ lợi ích
nhóm hội viên thì gia nhập hội bất động sản,
hội taxi1.
Mỗi cá nhân khi tham gia vào bất
kỳ quan hệ hợp đồng, gia nhập một “cộng
đồng” nào đó họ đều phải góp một quyền
tự do nào đó, để đổi lại một lợi ích nào đó.
Vì vậy, có nhiều quyền tự do tự nhiên của
chúng ta sinh ra bị hạn chế không phải bởi
luật pháp; mà bởi chúng ta đã tự nguyện trao
quyền hành xử nó cho một bên thứ ba nào
đó; sau khi gia nhập hội thì hội viên mất một
phần quyền tự do tư hữu của mình tương
ứng với phần hội phí.
Cũng như trên thị trường chứng
khoán, công ty nào nhận được sự quan tâm
của các nhà đầu tư nhiều nhất sẽ là công ty
mạnh nhất; tổ chức nào giành được sự hy
sinh (góp tự do) nhiều nhất của những nhóm
người xuất sắc nhất trong xã hội thì tổ chức
đó sẽ trở nên mạnh nhất. Nhà nước là ứng
cử viên số một bởi hai lý do chính: (a) Là
tổ chức có số lượng thành viên đông nhất ở
1 Cổ đông/người tham gia góp vốn vào doanh nghiệp cũng có hai loại loại: doanh nghiệp thương mại và doanh nghiệp xã
hội; doanh nghiệp xã hội cũng chia làm hai loại: doanh nghiệp xã hội trá hình & doanh nghiệp xã hội chân chính vì sự
phát triển bền vững của môi trường, cộng đồng, xã hội.
mỗi quốc gia; (b) Có tính độc quyền; trừ khi
thay đổi quốc tịch, các thành viên trong một
quốc gia không có một tổ chức tương đương
thay thế để lựa chọn. Tuy nhiên, đông chưa
hẳn đã mạnh; nhà nước đôi khi chỉ đứng vị
trí số hai về sức mạnh quyền lực, do các “cổ
đông quyền lực” dồn vốn cho một tổ chức
khác và khéo léo kiểm soát nhà nước. Điều
đó có nghĩa, quyền lực nhà nước luôn luôn
phải được phân tích trong mối tương quan,
chuyển hoá qua lại giữa các loại quyền lực
khác; bản thân nhà nước cũng phải “cạnh
tranh” với các loại tổ chức khác trong xã hội.
Ở Việt Nam, song song với quá trình
đổi mới là quá trình chuyển giao trở lại chức
năng cung cấp một số loại dịch vụ công cho
các tổ chức phi nhà nước, từ những việc khó
thấy như chấn hưng Phật giáo đến những
việc dễ thấy như cổ phần hoá doanh nghiệp
nhà nước, BOT, trường học tư, bệnh viện
tư Và đặc biệt gần đây, sự cạnh tranh diễn
ra ở các lĩnh vực vốn từng được xem là độc
quyền nhà nước bất khả tranh như dịch vụ
công chứng, dịch vụ cung cấp công lý, dịch
vụ thi hành án. Sự linh hoạt này cho thấy,
văn phòng công chứng tư nhân, trung tâm
trọng tài thương mại, thừa phát lại đang
góp phần giảm gánh nặng ngân sách, thuế
khoá cho người dân, từng bước nâng cao
chất lượng phục vụ, đặc biệt là dịch vụ công
chứng tư nhân.
Ở chiều ngược lại, khi một quy tắc
xã hội (social norm) không đủ sức mạnh,
kém hiệu quả để ngăn chặn bội tín, giảm bớt
tranh chấp, thì nhà nước cần can dự, loại bỏ
những quy tắc trái ngược lợi ích công cộng
như tảo hôn, nối nòi, hoặc gán giá trị pháp lý
cho các quy tắc xã hội, như quy tắc hụi, họ,
để đạo đức xã hội được hỗ trợ từ phía nhà
CHÑNH SAÁCH
37Số 16(368) T8/2018
nước để có thể vận hành tốt hơn. Năm 2018,
ở Việt Nam đang có ý kiến đề xuất chuyển
giao ngược công việc phát triển hạ tầng giao
thông từ mô hình BOT trở về mô hình đầu tư
bằng ngân sách nhà nước, là một ví dụ về sự
linh hoạt, chuyển đổi qua lại giữa khu vực
công và khu vực tư.
Dưới góc nhìn này, việc góp quyền tự
do cá nhân cho bên thứ ba hành xử sẽ giống
như một danh mục “đầu tư”; cá nhân cần được
bảo đảm quyền lựa chọn mà theo họ là sẽ tối
ưu hoá giữa số lượng quyền phải từ bỏ và lợi
ích thu lại tương ứng; tối ưu hoá diễn ra khi hệ
thống tạo ra nhiều cơ hội lựa chọn song song
cho người dân, từ đó tạo ra cạnh tranh, áp lực
đổi mới trên toàn bộ hệ thống2; để giảm bớt
gánh nặng ngân sách, giảm bớt rủi ro bội tín,
thì nguyên tắc “gần trước, xa sau” cần được
tôn trọng, để bảo đảm người dân có quyền lựa
chọn tổ chức nào gần họ nhất, họ tin tưởng
nhất để trao quyền, chỉ khi tổ chức đó không
đáp ứng được kỳ vọng, việc góp quyền mới
đẩy lên cấp trên kế tiếp, lên tổ chức có quy mô
lớn hơn; hay nói cách khác, nhà nưóc chỉ nên
là lựa chọn sau cùng khi thị trường và xã hội
thất bại; bởi bất cứ cái gì chuyển giao từ khu
vực tư nhân, từ xã hội sang nhà nước thì tính
cạnh tranh sẽ suy giảm.
2. Tối ưu hoá khi lựa chọn phương pháp
điều chỉnh
Đối với phần tự do mà đa số thành viên
trưởng thành trong một cộng đồng quốc gia
đã biểu quyết uỷ quyền cho nhà nước thực
hiện thì nhà nước cũng có nhiều phương
pháp khác nhau để hoàn thành phần công
việc được uỷ nhiệm này. Dưới góc nhìn luật
học các phương pháp này có thể được phân
chia làm năm loại3 và đánh giá dựa vào khả
2 Hiện nay Điều 5 Khoản 1 Nghị định 45/2010/NĐ-CP, đang loại bỏ quyền lựa chọn, sự đa dạng và cạnh tranh, hạn chế
các hội mới ra đời khi hội cũ hoạt động không tốt, bằng cách đặt ra điều kiện thành lập hội mới: “không trùng lặp về
tên gọi và lĩnh vực hoạt động chính với hội đã được thành lập hợp pháp trước đó trên cùng địa bàn lãnh thổ”.
3 Các giáo trình luật học thường gọi là “phương pháp điều chỉnh” và chỉ chia làm ba loại.
năng mang lại hiệu lực nhanh hay chậm, yếu
hay mạnh, từ phương pháp: (a) quy định
mẫu, gán giá trị pháp lý; (b) phương pháp
khuyến khích bằng phần thưởng lợi ích; (c)
phương pháp nhà nước trực tiếp thực hiện;
(d) phương pháp hành chính; (d) phương
pháp hình sự.
Dưới góc nhìn kinh tế, việc đánh giá
năm phương pháp này được dựa vào chi
phí thực hiện, sự tác động lên toàn bộ nền
kinh tế và hiệu quả kinh tế, để từ đó bàn
câu chuyện tối ưu hoá trong sử dụng các
phương pháp.
a) Phương pháp quy định mẫu, gán
giá trị pháp lý có thể tìm thấy trong các
quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự
(BLDS) năm 2015 của Việt Nam. Thay vì
đưa ra quy tắc bắt buộc, BLDS nhiều chỗ
đưa ra các bộ quy tắc mẫu và kèm theo cụm
từ: “trừ khi các bên có thoả thuận khác” để
cho các bên lựa chọn; các bên có thể lựa
chọn áp dụng hoặc không áp dụng; nhưng
khi các bên không tuỳ biến hay nêu rõ lựa
chọn trong hợp đồng thì quy tắc mẫu trở
thành quy tắc bắt buộc.
Trong trường hợp này, hiệu quả tối
ưu hoá việc sử dụng “vốn góp” (quyền tự
do) thể hiện ở các khía cạnh sau đây: Thứ
nhất, bảo đảm tôn trọng quyền sáng tạo
mô hình hợp tác của hai bên hợp đồng,
tôn trọng quyền tự do hợp đồng, coi trí tuệ
“quần chúng” thông minh hơn trí tuệ của các
công chức soạn luật; Thứ hai, tôn trọng sự
đa dạng và đi trước của thực tiễn so với hiểu
biết hạn hẹp của các công chức soạn luật;
tôn trọng quyền hiến định “công dân được
làm tất cả những gì không cấm”; Thứ ba,
giảm bớt thời gian đàm phán của các bên,
CHÑNH SAÁCH
38 Số 16(368) T8/2018
bằng cách đưa ra các khuôn mẫu; các bên
sẽ không phải đàm phán mọi chi tiết từ đầu,
mà chỉ đàm phán những nội dung tuỳ biến.
Điều này cho phép cắt giảm thời gian và chi
phí đàm phán, chi phí kinh doanh; thúc đẩy
số lượng giao dịch thành công tăng lên; thúc
đẩy sự thịnh vượng của xã hội; Thứ tư, khác
với Incoterm - chỉ áp dụng khi hai bên cùng
lựa chọn - các quy tắc mẫu của BLDS năm
2015 sẽ mặc nhiên được áp dụng nếu các
bên tuỳ biến hay không tuỳ biến.
b) Phương pháp khuyến khích bằng
lợi ích:
Với phương pháp này, nhà nước không
còn dừng lại ở vai trò “người lính gác đêm”
nữa, mà can dự vào việc điều tiết hành vi
của các chủ thể; thuế không còn đơn thuần
là công cụ tạo nguồn thu nuôi bộ máy; mà
còn đóng vai trò điều tiết kinh tế.
Chi phí áp dụng phương pháp này
chính là số tiền chi trực tiếp từ ngân sách
hoặc số tiền mà ngân sách bị hụt đi do giảm
thuế tương ứng. So với phương pháp quy
định mẫu, gán giá trị pháp lý, chi phí của
phương pháp này tăng lên, rủi ro bị lạm
dụng từ cả hai phía tăng lên.
Việc trao quyền sở hữu, quyền khai
thác, sử dụng các tài nguyên công như đất
đai, vùng biển, vùng trời cho các chủ thể
tư nhân như một ưu đãi thu hút đầu tư cũng
có thể xếp vào nhóm phương pháp này.
c) Phương pháp nhà nước trực tiếp
thực hiện. Đối với một số công việc không
phát sinh lợi nhuận, tư nhân không muốn
làm; hoặc quy mô quá lớn, vượt quá khả
năng của các chủ thể tư nhân của quốc gia,
ví dụ ở thế kỷ 21, Công ty Space X của tỷ
phú Elonmusk có thể đưa người lên vũ trụ
4 Quốc phòng luôn do nhà nước cung cấp, nhưng các cấu phần trong đó như quân trang, quân dụng, vũ khí thì không
nhất thiết phải do nhà nước mà các công ty tư nhân, ví dụ Lockheet Martin, Boeing, cung cấp; hoặc dịch vụ quốc phòng
cũng có thể mua bán phần từ nước ngoài, ví dụ như Nhật Bản, Hàn Quốc “mua” dịch vụ này từ Hoa Kỳ thông qua các
hiệp ước phòng thủ chung.
được; nhưng thập niên 60 của thế kỷ 20, nhà
nước Hoa Kỳ phải trực tiếp đứng ra làm;
hoặc việc giao cho tư nhân làm có thể dẫn
tới độc quyền tự nhiên hoặc lãng phí nguồn
lực dân tộc, ví dụ xây dựng mạng lưới truyền
tải điện quốc gia; hoặc vì lý do an ninh, quốc
phòng đặc biệt, nhà nước sẽ trực tiếp thực
hiện công việc và yêu cầu nhân dân trả thuế,
phí cho việc cung cấp hàng hoá công cộng
đặc biệt này.
Về phương diện kinh tế, đằng nào
người dân cũng phải bỏ tiền mua các hàng
hoá công cộng đặc biệt này, hoặc từ các nhà
cung cấp tư nhân, hoặc từ nhà nước. Vì vậy
chi phí ở đây chính là khoảng chênh lệch
(chi phí cơ hội) giữa chi phí mà người dân
phải bỏ ra mua hàng hoá chất lượng tương
đương từ nhà nước so với mua từ khu vực
tư nhân (nếu khu vực này cũng có khả năng
cung cấp)4. Nếu hiệu số này là dương thì
nhân dân có lãi; nếu âm thì nhân dân lỗ và
cần chuyển giao ngược bán phần hoặc toàn
phần về khu vực tư nhân (nếu có thể), giống
như quá trình xã hội hóa đã làm với giáo
dục, y tế, công chứng.
d) Phương pháp hành chính. Đối với
những vấn đề mà phương pháp khuyến
khích không phát huy tác dụng, hoặc xã hội
cần một quy tắc duy nhất để tránh xung đột,
thì nhà nước sẽ ban hành các quy tắc xử sự
bắt buộc, tạo ra các nghĩa vụ pháp lý cho các
chủ thể. Ví dụ quy tắc giao thông, do việc
trao quyền tuỳ biến cho các bên là không
thể, nên nhà nước sẽ ban hành các quy tắc
xử sự bắt buộc, tạo ra các nghĩa vụ pháp lý
cho các chủ thể. Và để bảo đảm chủ thể tuân
thủ đúng quy tắc xử sự thì nhà nước đặt ra
các chế tài. Nhóm các chế tài làm cho đối
tượng vi phạm bị thiệt hại về tài sản, quyền
CHÑNH SAÁCH
39Số 16(368) T8/2018
tự do, nhưng không bao gồm hạn chế tự do
thân thể hay tự do tính mạng, được gọi là
các chế tài hành chính. Phương pháp này có
ưu điểm là có hiệu lực nhanh; được bảo đảm
bởi sức mạnh cưỡng chế của nhà nước - điều
tạo ra sự khác biệt với các quy tắc đạo đức.
Để áp dụng chế tài hành chính, thu về
tiền xử phạt vi phạm hành chính, thì ngân
sách đã phải chi ra rất nhiều cho đội ngũ
công chức tham gia vào thanh tra, kiểm
tra, cấp phép và xử lý vi phạm hành chính.
Đó chưa phải là chi phí lớn nhất mà nhân
dân phải trả khi sử dụng phương pháp hành
chính; chi phí lớn nhất mà họ phải chịu đựng
là những tiêu cực, nhũng nhiễu, tham nhũng
phát sinh từ phương pháp hành chính5.
Nếu có thể ví von, thì sử dụng phương
pháp hành chính giống như sử dụng kháng
sinh, đôi khi buộc phải sử dụng để nhanh
chóng chấm dứt cơn đau đầu, nhưng chi phí
mua kháng sinh có thể đắt đỏ, kèm theo các
phản ứng phụ tiêu cực.
đ) Phương pháp hình sự hóa các hành
vi mà xã hội cần ngăn cấm. Phương pháp
này được áp dụng khi phương pháp hành
chính không đủ ngăn chặn những hành vi
nguy hiểm cho xã hội. Phương pháp này có
cùng khuynh hướng và tính chất với phương
pháp hành chính, với nhiều điểm khác biệt.
Nhưng sự khác biệt lớn nhất về mặt kinh tế
nằm ở chi phí áp dụng. Thứ nhất, để buộc
một người chịu trách nhiệm hình sự một
cách thận trọng, tránh oan sai, quy trình
phức tạp hơn rất nhiều so với áp dụng trách
nhiệm hành chính. Bắt đầu từ khởi tố vụ án,
khởi tố bị can, phê chuẩn và kiểm sát hoạt
động điều tra; lập cáo trạng; xét xử hai cấp
với sự tham gia của luật sư. Thứ hai, nếu thi
hành quyết định xử phạt hành chính thường
thu về tiền xử phạt, thì thi hành án hình sự,
5 Hảo, Võ Trí. (2014). Chi phí của lệnh cấm. from
html
trừ án tử hình, người đóng thuế lại phải tiếp
tục chi ra một khoản tiền rất lớn để xây dựng
và duy trì hệ thống nhà tù. Thứ ba, việc một
người bị hạn chế tự do cá nhân, cách ly ra
khỏi môi trường bên ngoài, đặc biệt đối với
các tội phạm kinh tế, sẽ loại bỏ khả năng
đóng góp kinh tế của họ và gây ra một số
tác động tiêu cực lên các thành viên gia đình
của họ; suy cho cùng đây cũng là một loại
chi phí mà xã hội phải hy sinh. Thứ tư, sau
khi mãn hạn tù, nhà nước sẽ phải tiếp tục chi
thêm chi phí giúp họ tái hòa nhập cộng đồng;
nếu thành công, vòng quay chi phí sẽ dừng
lại ở loại chi phí thứ tư này. Thứ năm, nếu
nhà tù không thành công trong việc giáo dục
nhân phẩm, xã hội không thành công trong
việc giúp người mãn hạn tù tái hòa nhập xã
hội; việc tái phạm của người mãn hạn tù sẽ
giống như vi khuẩn kháng thuốc. Xã hội lại
phải trả giá theo một chu trình mới, với giá
cao hơn nhiều.
So với phương pháp hành chính, trách
nhiệm hình sự như kháng sinh liều cao, rất
đắt tiền khi mua và nếu bị kháng thuốc thì
“hết cách chữa”. Bởi vậy, việc quyết định
có hình sự hóa hay không một hành vi nguy
hiểm cho xã hội phải được quyết định bởi
Quốc hội/Nghị viện, không chỉ vì nó tác
động ghê gớm đến tự do cá nhân, mà cả về
phương diện chi phí (kinh tế) mà xã hội phải
trả khi áp dụng phương pháp này.
Để hạn chế bớt các chi phí cho phương
pháp hình sự, pháp luật hình sự một số quốc
gia đã cho phép chuyển đổi qua lại giữa việc
nộp tiền và hạn chế tự do cá nhân đối với
các hành vi tội phạm mang tính chất vụ lợi;
kẻ phạm tội đi tìm kiếm lợi ích kinh tế thì
chỉ cần đánh vào lợi ích kinh tế là đủ, khi
đối tượng này không còn khả năng kinh tế
thì mới phải đánh vào tự do cá nhân. Ví dụ
CHÑNH SAÁCH
40 Số 16(368) T8/2018
năm 2017, Saudi Arabia đã áp dụng chính
sách nộp lại tiền có nguồn gốc bất minh để
đổi lấy tự do và đã thu hồi trở về 107 tỷ USD
cho ngân sách sau ba tháng triển khai chiến
dịch chống tham nhũng6.
Như vậy, xét về phương diện kinh tế,
việc dịch chuyển từ phương pháp có hiệu
lực chậm, yếu sang phương pháp có hiệu
lực nhanh, mạnh sẽ kéo theo chi phí xã hội
tăng lên theo cấp số nhân. Bởi vậy, để đạt
được hiệu quả tối ưu và sự thận trọng cần
thiết như nguyên tắc dùng thuốc kháng sinh,
các cơ quan làm luật cần phải chứng minh
cho nhân dân rằng các phương pháp mạnh
đã không còn phát huy tác dụng; tránh tùy
tiện áp dụng phương pháp hành chính, hình
sự thiếu kiểm soát.
3. Tối ưu hóa mô hình quản trị nhà nước
Nhân dân góp tự do của mình cho nhà
nước cũng giống như cổ đông góp vốn vào
công ty cổ phần, các cổ đông có quyền kỳ
vọng bộ máy quản trị sẽ giúp mình “kiếm
lời” chia lại cho mình. “Lời” ở đây có thể
chính là dịch vụ công chất lượng cao hơn,
giá cả rẻ hơn quốc gia láng giềng, có thể đo
bằng phúc lợi xã hội như dịch vụ giáo dục,
y tế, giao thông, môi trường, an ninh Gần
đây, người dân ở một số quốc gia như Thụy
Sĩ, Hà Lan, Singapore còn được Nhà nước
chia đều cho mỗi người từ 500 - 2500 USD/
tháng, mà không cần phải làm gì thêm.
Để có “lời” lớn như ngày hôm nay, các
quốc gia này đã phải trải qua hàng chục năm
miệt mài tối ưu hóa việc quản trị quốc gia,
tiết kiệm chi ngân sách, tăng cường đầu tư
ngân sách hiệu quả, kiểm soát bội tín, kiểm
6 Điệp, Thăng. (2018), Saudi Arabia tuyên bố đã thu hồi số tiền hơn 400 tỷ Riyal, tương đương 107 tỷ USD, từ các nghi
phạm bị bắt giữ trong chiến dịch chống tham nhũng gây chấn động diễn ra mới đây ở nước này, VnEconomy.
7 Bởi nhóm đa số lúc này không còn nhu cầu giữ các quyền này; mà ngược lại lúc này các quyền hiến định này trở thành
rào cản, ngăn bước họ thực hiện các tham vọng đối với nhóm thiểu số.
8 Minh, B. (2017). Tòa án phúc thẩm Mỹ ngày 25/5 từ chối lập lại sắc lệnh hạn chế nhập cảnh của Tổng thống Donald
Trump đối với công dân từ 6 quốc gia có phần đông dân số là người theo đạo Hồi. Trong phán quyết được coi là một đòn
pháp lý giáng vào ông Trump, tòa phúc thẩm gọi sắc lệnh này của ông là một sự phân biệt đối xử. VnEconomy.
soát tham nhũng, thất thoát và duy trì hòa
bình, ổn định trong sự tôn trọng tự do cá
nhân tối đa. Họ đã giải quyết thành công ba
vấn đề lớn sau đây:
Thứ nhất, bảo vệ quyền cơ bản của
“cổ đông thiểu số” bằng thiết chế độc lập:
Tạo dựng được niềm tin giữa nhóm “cổ
đông thiểu số” - là những tộc ít người, nhóm
có niềm tin tôn giáo khác đa số, nhóm bị dễ
bị tổn thương trong xã hội - và nhóm “cổ
đông đa số” - là những tộc người chiếm số
đông, nhóm có niềm tin tôn giáo trùng với
số đông, nhóm giàu có, nhóm có ảnh hưởng
truyền thông lớn, nhóm có thể kiểm soát
được chính trị của quốc gia. Để tạo dựng
niềm tin rằng, nhóm “cổ đông đa số” không
thể dùng nguyên tắc số đông để phủ quyết
các quyền cơ bản của nhóm “cổ đông thiểu
số”; không thể dùng chính trị để bắt nạt
nhóm “cổ đông thiểu số”, các dân tộc này
thiết lập các thể chế bảo vệ vững chắc các
quyền của nhóm cổ đông thiểu số bằng việc
quy định trong Hiến pháp quyền con người,
quyền cơ bản của công dân – quyền mà vốn
dĩ nhóm “cổ đông đa số” không thể dùng số
đông của mình trong nghị viện để thay đổi
hay tước đoạt; và thiết kế nên cơ chế tài phán
hiến pháp nhân danh công lý phán quyết một
cách khách quan, công bằng về những hành
vi dùng quyền lực số đông, thông qua các cơ
quan nhà nước, để xâm hại đến các quyền
tự do cơ bản của nhóm “cổ đông thiểu số”7;
đồng thời ngăn chặn sự quá khích của tâm
lý đám đông; ngăn chặn sự tùy tiện của các
chính trị gia dân túy8.
Thỏa thuận bảo quyền cơ bản của
CHÑNH SAÁCH
41Số 16(368) T8/2018
nhóm “cổ đông thiểu số” được văn bản hóa
(written down) theo tiến trình dân chủ hóa
của nhân loại, từ Magna Carta 1215 ở Anh
Quốc, Déclaration des droits de l'Homme et
du citoyen 1789 ở Pháp, Bill of Rights 1789
ở Hoa Kỳ và trở thành điều khoản tiêu chuẩn
cho tất cả các bản hiến pháp thành văn dưới
tên gọi “quyền con người, quyền cơ bản của
công dân”. Sau thảm họa diệt chủng, phát -
xít, điều khoản này được toàn cầu hóa trong
các điều ước quốc tế như ICCPR 1966 và
ICESCR 1966 của Liên hiệp quốc.
Việc soạn ra, thông qua cam kết tôn
trọng các quyền cơ bản của nhóm “cổ đông
thiểu số” không khó, nhưng việc thiết kế ra
một hệ thống thể chế thực thi điều khoản
này khó hơn rất nhiều: thiết kế ra một cơ
quan nhà nước như thể đứng ngoài bộ máy
nhà nước, đứng về phía nhân dân để kiểm
soát sự lạm quyền của nhà nước; đứng về
phía công lý, không phụ thuộc áp lực của số
đông9 để có thể “độc lập xét xử” - đó chính
là tòa án.
Thứ hai, quản trị kiểm soát đa lớp,
phòng ngừa rủi ro bội tín: Tạo dựng sự kiểm
soát của “cổ đông” đối với bộ máy quản trị,
điều hành bằng cách thiết lập các lớp kiểm
soát (layers).
Lớp thứ nhất, nghị viện. Cử tri bầu ra
nghị viện/quốc hội có nét tương đồng với
việc bầu ra “hội đồng quản trị” với bốn chức
năng: (a) lập pháp; (b) tuyển chọn nhân sự
lãnh đạo cho các bộ phận khác; (c) giám sát
nhân sự lãnh đạo của các bộ phận khác và
giám sát việc sử dụng ngân sách; (d) quyết
định các vấn đề quan trọng. Bản thân trong
lớp này bao gồm hai lớp nhỏ, chia thành hạ
9 Bằng chế độ nhiệm kỳ suốt đời; lương chỉ có tăng, không giảm; chỉ thuyên chuyển khi được thẩm phán đồng ý.
10 Để hạn chế bớt của việc ban hành luật một cách tùy tiện thì thông thường, một dự luật sau khi được hạ viện thông qua
sẽ được chuyển lên thượng viện xem xét lại lần nữa. Xem thêm: Hảo, Võ Trí. (2015). Làm luật: quy trình quyết định
sản phẩm, Thời báo Kinh tế Sài Gòn.
11 Hành vi bội tín có thể xuất phát từ bất kỳ cơ quan nào; nhưng nhiều nhất, thường xuyên nhất vẫn xuất phát từ hành pháp.
viện và thượng viện10.
Đây chính là lớp kiểm soát thứ nhất,
đóng vai trò chính trong việc kiểm soát bội
tín của bộ phận thực thi (excecutive) hay
còn gọi là hành pháp11. Lớp kiểm soát thứ
nhất này có nhược điểm là nó khép kín trong
nội bộ các cơ quan nhà nước; không cho
phép công dân chủ động khởi xướng một
quy trình kiểm soát.
Lớp thứ hai, tòa án là lớp cho phép
công dân thông qua quyền khởi kiện vụ án
hành chính; khởi kiện vụ án hiến pháp để có
thể chống lại hành vi lạm quyền của các cơ
quan hành pháp, cơ quan lập pháp, bất kể
đó là hành vi cá biệt hay một văn bản quy
phạm pháp luật. Tòa án không nắm giữ sức
mạnh của “túi tiền thiên hạ” như nghị viện;
không nắm giữ “thanh gươm thiên hạ” như
hành pháp, mà chỉ nắm giữ “trí khôn thiên
hạ”. Để cho cơ quan nắm giữ “trí khôn thiên
hạ” có thể đủ sức kiểm soát “túi tiền thiên
hạ” và “thanh gươm thiên hạ” không quay
trở lại “chém bừa” vào dân, thì tòa án cần
được trao quyền xét xử lại các hành vi lạm
quyền của các cơ quan nhà nước thông qua
tài phán hành chính, tài phán hiến pháp, chứ
không chỉ dừng lại ở việc xét xử các vụ án
hình sự, dân sự.
Lớp thứ ba, trưng cầu ý dân. Đối với
các vấn đề hoàn toàn mới, vấn đề mang tính
chất chính trị, nếu các cư dân - với tư cách
cổ đông - không tin tưởng nghị viện - với tư
cách hội đồng quản trị - thì sẽ yêu cầu triệu
tập “đại hội cổ đông” để trực tiếp quyết định
các vấn đề liên quan vận mệnh đất nước.
Nếu các chuyên gia luật tư gọi việc triệu tập
này là “đại hội cổ đông” thì các chuyên gia
luật công cố làm cho ra vẻ khác biệt bằng
cách gọi nó là “trưng cầu ý dân” hay phúc
CHÑNH SAÁCH
42 Số 16(368) T8/2018
quyết toàn dân.
Dù tên gọi khác nhau, nhưng bản chất
không thay đổi: các đồng chủ sở hữu (tiền
bạc hay quyền lực) trực tiếp hành xử, không
thông qua người đại diện nữa. Bởi vậy, nó
luôn phải bảo đảm các yêu cầu sau: a) Hiệu
lực cao nhất: Quyết định của người chủ sẽ
có hiệu lực cao nhất, có thể phủ quyết hành
vi của người đại diện12. b) Bảo đảm quyền
chủ động khởi xướng: Khi hội đủ chữ ký của
một nhóm cổ đông nhất định thì cuộc trưng
cầu ý dân bắt buộc phải tổ chức, giống như
việc triệu tập Đại hội đồng cổ đông bất
thường; nếu bị tước đi quyền này, thì sự ủy
quyền đã trở thành “ủy quyền định đoạt” và
mất quyền sở hữu trên thực tế. c) Những nội
dung bắt buộc phải thông qua trưng cầu dân
ý hay Đại hội đồng cổ đông: Để tránh việc
những người đại diện câu kết với bên ngoài,
ký các thỏa thuận bất lợi với bên ngoài - ví
dụ điều ước quốc tế về sáp nhập, chia tách
lãnh thổ, tự tiện quyết định các vấn đề liên
quan vận mệnh quốc gia, thì hiến pháp - với
tư cách là Điều lệ của siêu công ty - hoặc
Luật Trưng cầu Ý dân sẽ quy định danh mục
các nội dung nghị viện không được phép
tự mình quyết định, mà bắt buộc chỉ được
quyết định thông qua trưng cầu dân ý, đồng
thời đặt ra tiêu chí xác định các việc sẽ phát
sinh trong tương lai, chưa rõ đó là việc gì,
nhưng được xem là “liên quan vận mệnh
quốc gia”.
Để cho ba lớp kiểm soát này hoạt động
độc lập, phát huy tác dụng bọc lót lẫn nhau,
thì nguyên tắc bất khả kiêm trong bộ máy
nhà nước phải được áp dụng.
Thứ ba, đề xuất “phương án khai thác
tài nguyên công, cung ứng dịch vụ công”
gắn liền với “đấu thầu” trọn gói nhân sự
12 Chỉ trong quan hệ nội bộ; còn trong quan hệ bên ngoài, hành vi của người đại diện theo ủy quyền hợp lệ sẽ phát sinh
hiệu lực pháp lý đối với người được đại diện. Và người được đại diện phải tuân thủ nguyên tắc Pacta sunt servanda.
13 Hảo, Võ Trí. (2018). Ngẫm về tài, đức, bằng cấp, Thời báo Kinh tế Sài Gòn.
thực thi
Để thuyết phục rằng cư dân, cũng như
cổ đông sẽ có “lời” khi góp quyền tự do cho
nhà nước, các chính trị gia phải trình ra các
phương án khai thác, tối ưu hóa phần quyền,
nguồn lực mà nhân dân đã trao cho nhà
nước, chẳng khác nào các CEO phải trình
phương án kinh doanh trước mỗi kỳ Đại hội
đồng cổ đông.
Một ý tưởng tốt không có người thực
thi thì cũng trở nên vô nghĩa; một con người
bằng cấp chót vót, đạo đức sáng ngời nhưng
không có kế hoạch, chính sách thì cũng vô
dụng13. Bởi vậy, vạch ra ý tưởng, lên kế
hoạch không gắn với nguồn lực tài chính,
nhân sự là một sai lầm; càng sai lầm sau khi
chọn người xong, mới nghĩ ra việc, mới nghĩ
ra “ghế”.
Bởi vậy, thay vì cấm, thì việc vận động
tranh cử cần được khuyến khích và luật hóa.
Để thực hiện những ý tưởng lớn, cần cho
phép các ứng viên liên danh với nhau cùng
ra tranh cử, như thể liên danh đấu thầu cung
ứng dịch vụ công; mọi điểm yếu trong kế
hoạch sẽ bị loại bỏ thông qua sự tấn công
của đối thủ. Hay nói cách khác, cạnh tranh là
động lực cần thiết cho phát triển trong việc
tìm ra kế hoạch hoàn hảo nhất, người thực
hiện phù hợp nhất, chi phí (thuế, phí) hợp
lý nhất.
4. Hiệu quả cuối cùng và sự linh hoạt
Tạo hóa sinh ra con người vốn bình
đẳng, tự do. Nhưng chúng ta mang tự do cá
nhân của mình góp vào nhiều nơi, trong đó có
nhà nước. Khi chúng ta thỏa thuận cùng nhau
“đầu tư” quyền tự do cho nhà nước, chúng ta
nhận lại gì? Đó là hàng hóa công cộng đặc
biệt theo nghĩa rộng, trong đó bao gồm từ
giao thông, an ninh, giáo dục, y tế, an sinh xã
CHÑNH SAÁCH
43Số 16(368) T8/2018
hội, trật tự, giá trị đạo đức tốt đẹp (theo quan
niệm của từng quốc gia tương ứng).
Để có một hàng hóa dịch vụ bất kỳ,
người dân phải mua nó từ khu vực tư nhân
hoặc khu vực nhà nước; dù cách nào thì
người dân cũng đều mất tiền. Sự khác biệt
căn bản nằm ở chỗ, khi mua từ khu vực tư
nhân, có tồn tại sự cạnh tranh, người dân có
quyền đàm phán rộng hơn, đàm phán trực
tiếp và trả tiền trực tiếp, ví dụ thuê một công
ty bảo vệ tư nhân để bảo vệ tính mạng tự
do tài sản của mình; khi mua từ nhà nước,
người dân ít có lựa chọn và phải thỏa thuận
thông qua người đại diện là các cơ quan dân
cử và phải trả tiền gián tiếp thông qua thuế,
phí, để nhà nước tuyển dụng lực lượng cảnh
sát hướng tới mục đích tương tự.
Dưới góc nhìn kinh tế, người dân đều
mất tiền và người dân quan tâm nhiều đến
tổng số tiền phải chi và tổng số lợi ích nhận
lại, mà việc tách bạch thành trả trực tiếp hay
trả gián tiếp qua thuế phí. Vì vậy, người dân
quan tâm nhiều hơn tới hệ số tổng chi/ tổng
lợi ích, sao cho họ nhận được dịch vụ tốt
nhất, với chi phí thấp nhất có thể. Do đó, cần
phải bảo đảm sự linh hoạt chuyển đổi qua lại
giữa hai khu vực công và tư trong việc cung
cấp dịch vụ công, không nên cứng nhắc một
việc nào đó nhất định phải do tư nhân cung
cấp; một việc nào đó nhất định phải do nhà
nước cung cấp, mà không xuất phát từ hiệu
quả hệ số tổng chi/ tổng lợi ích mà người
dân đạt được; mọi phân tích hiệu quả phải
xuất phát từ lợi ích của người dân; nhà nước
chỉ là một trong số các công cụ giúp người
dân đạt được lợi ích; chứ nhà nước không có
lợi ích tự thân hay nói cách khác, không có
lợi ích nào của nhà nước không xuất phát và
gắn liền với nhân dân; một lợi ích nhà nước
tự thân, ví dụ nhu cầu quản lý nhà nước, mà
không lý giải được nhu cầu, lợi ích tương
ứng của nhân dân, đó là lợi ích ngụy biện,
lợi ích nhóm thân hữu.
Kết luận
Một chính sách, một đạo luật đạt được
hiệu quả tối ưu, đạt được hệ số Tổng chi,
tổng tự do hy sinh/ Tổng dịch vụ, phúc lợi,
hàng hóa công cộng cao nhất đòi hỏi chính
sách đó phải đồng thời đạt được hiệu quả
Tối ưu – Max f(Social welfare) = Tối ưu về
Chủ thể đứng ra tiếp nhận việc góp quyền tự
do - Max f(p) + Tối ưu về phương pháp điều
chỉnh - Max f(m) + Tối ưu về mô hình quản
trị - Max f(s) + Tối ưu về chi phí tài chính -
Max f(f), khi đó dân tộc đó sẽ đạt được thịnh
vượng.
Ngược lại, một chính sách hoặc vì duy
ý chí của lãnh tụ hoặc cảm tính của đám
đông dân túy, rơi vào trạng thái hiệu quả
thấp nhất: Min f(S) =Min f(p) + Min f(m) +
Min f(s) + Min f(f), lúc đó dân tộc đó sẽ gặp
tai họa.
Phương pháp nêu trên không cho phép
xác định chi tiết, cụ thể, đạo luật nào, quy
tắc xử sự nào được luật pháp pháp hóa/ hoặc
được phi luật pháp hóa, trả về cho các quy
tắc xã hội khác điều chỉnh sẽ giúp một cộng
đồng cụ thể, tại một thời điểm cụ thể, nhưng
nó sẽ sẽ có những đóng góp sau:
Thứ nhất, nó chưa giúp lượng hóa
thành các con số cụ thể - ít nhất cho đến
chừng nào chưa thống nhất về thang điểm
đối với các quyền tự do, lợi ích phi vật chất
- nhưng lại dễ dàng giúp cho những người
tham gia tranh luận so sánh các lựa chọn
chính sách, lựa chọn chính sách khác nhau.
Lúc này việc chứng minh một lựa chọn
chính sách nào đó là tối ưu rất giống với việc
chứng minh bất đẳng thức toán học, rằng: hệ
số tương quan chi phí (cost) và lợi ích đạt
được (benefit) lớn hơn hệ số của phương án
thuộc đối tượng so sánh. Ít nhất, nó giúp cho
các tranh luận diễn ra trong cùng một hệ quy
chiếu; tránh tình trạng A bảo rằng cam nhà
B rất chua, còn B thì ra sức chứng minh khế
nhà B rất ngọt.
CHÑNH SAÁCH
44 Số 16(368) T8/2018
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Điệp, Thăng. 2018. Saudi Arabia tuyên bố đã thu hồi số tiền hơn 400 tỷ Riyal, tương đương
107 tỷ USD, từ các nghi phạm bị bắt giữ trong chiến dịch chống tham nhũng gây chấn
động diễn ra mới đây ở nước này, VnEconomy, 31/1/2018.
2. Dương, Đặng. 2018, 27/1/2018. Vận tải ở Đồng bằng sông Cửu Long: cần đột phá về
chính sách từ Bộ Giao thông vận tải, from
o-DBSCL-can-dot-pha-ve-chinh-sach-tu-Bo-GTVT.html
3. Hảo, Võ Trí. 2014, 18/10/2014. Chi phí của lệnh cấm, from
vn/121342/Chi-phi-cua-lenh-cam.html
4. Hảo, Võ Trí. 2015, 06/11/2015. Làm luật: quy trình quyết định sản phẩm, from http://
www.thesaigontimes.vn/137978/Lam-luat-quy-trinh-quyet-dinh-san-pham.html
5. Hảo, Võ Trí. 2018, 19/3/2018. Ngẫm về tài, đức, bằng cấp, from
vn/270072/Ngam-ve-tai-duc-bang-cap.html
6. Loan, Đào. 2017. Khách sạn không được tự gắn sao công bố chất lượng, Thời báo Kinh
tế Sài Gòn.
7. Minh, Bình. 2017. Tòa án phúc thẩm Mỹ ngày 25/5 từ chối lập lại sắc lệnh hạn chế nhập
cảnh của Tổng thống Donald Trump đối với công dân từ 6 quốc gia có phần đông dân
số là người theo đạo Hồi. Trong phán quyết được coi là một đòn pháp lý giáng vào ông
Trump, Tòa phúc thẩm gọi sắc lệnh này của ông là một sự phân biệt đối xử, VnEconomy,
26/5/2017.
8. Văn Bông, Nguyễn. 1966. Luật Hiến pháp và Chính trị học, Tủ sách Đại học, Saigon.
9. Như, Khánh. 2017. Hệ quả từ can thiệp thị trường, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 15/10/2017.
10. Quỳnh, Châu Như. 2015. “Nóng” tranh luận về mũ bảo hiểm dành riêng cho phụ nữ
người dân tộc, Dân Trí.
11. Trang, Đ. 2012. Ông Đặng Hùng Võ nộp đơn rút khỏi danh sách tự ứng cử, Tuổi Trẻ.
12. Yến, Hải. 2012. Tục xăm mình kỳ quái của bộ tộc săn đầu người, VTC.
Thứ hai, thành công hay thất bại của
một quốc gia do thể chế; thể chế gồm nhiều
yếu tố cấu thành; việc giải thích cắt khúc
phiến diện sẽ không tìm ra lời giải đúng.
Phương pháp nêu trên, bắt đầu từ việc góp
quyền tự do nguyên thủy đến phân tích
hiệu quả sử dụng từng đồng ngân sách. Hy
vọng sẽ tránh bỏ sót các giai đoạn, các yếu
tố quan trọng; đồng thời gợi mở cách tiếp
cận linh hoạt, mà không bó hẹp việc tìm
kiếm giải pháp ở trong khu vực công.
Thứ ba, làm rõ hơn bản chất, vai trò
của “nhà nước của dân, do dân, vì dân”, nhà
nước phúc lợi chung thay vì nhà nước cai trị;
nhà nước cảm tính, duy ý chí theo ý muốn
chủ quan của một nhóm nhỏ người cai trị.
Thứ tư, các chính sách công trên thực
tế sẽ ít khi đạt trạng thái tuyệt đối, mà dao
động giữa hai đường cong (đường cong thịnh
vượng & đường cong đói nghèo); nhiệm vụ
của các thảo luận chính sách, các đạo luật là
nắn đường cong thực tế sao cho càng tiệm
cận đường cong thịnh vượng càng tốt■
CHÑNH SAÁCH
45Số 16(368) T8/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phuong_phap_kinh_te_luat_trong_phan_tich_chinh_sach_lap_phap.pdf