Quan hệ kinh tế Việt Nam – Liên Bang đầu thế kỷ XXI - Thực trạng và triển vọng

KẾT LUẬN Hai thập niên đầu thế kỷ XXI là giai đoạn chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ trong quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Liên bang Nga trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực kinh tế. Nhờ lực đẩy của hợp tác chính trị - ngoại giao, quan hệ kinh tế Việt Nam - Nga ngày càng có những thay đổi tích cực, những bước tiến về chất trong nhiều lĩnh vực, nhất là trong thương mại, đầu tư và hợp tác năng lượng. Tuy nhiên, xuất phát từ sự chênh lệch lớn về trình độ và quy mô của hai nền kinh tế và sự khác biệt các giá trị, chiến lược dẫn đến quá trình xây dựng chính sách của hệ kinh tế song phương luôn bị chậm so với đòi hỏi của thực tiễn. Trong quan hệ kinh tế, hai bên chưa thực sự coi nhau là đối tác chiến lược. Điều này thể hiện rõ trong quan hệ thương mại và đầu tư. Kim ngạch thương mại hai nước là nhỏ bé so với tiềm năng và so với một số các nước khác. Quan hệ đầu tư cũng chưa đạt được những bước đột biến, chưa tương xứng với quan hệ đối tác chiến lược toàn diện mà hai nước thiết lập. Quan hệ kinh tế Việt – Nga còn nhiều hạn chế, khó khăn, thách thức; song những kết quả đạt được trong thời gian qua cũng đang mở ra triển vọng lạc quan trong những năm tiếp theo khi hai nước hoàn thiện và bổ sung thêm các chính sách đúng đắn. Nhìn một cách tổng thể, sự đan xen giữa triển vọng và thách thức của quan hệ kinh tế Việt Nam- Liên bang Nga cần có sự nỗ lực của cả hai phía nhằm phát huy thuận lợi, hạn chế khó khăn nhằm đưa mối quan hệ tiếp tục tiến lên phía trước.

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 308 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quan hệ kinh tế Việt Nam – Liên Bang đầu thế kỷ XXI - Thực trạng và triển vọng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
95 Quan hệ kinh tế Việt Nam... QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM – LIÊN BANG ĐẦU THẾ KỶ XXI - THỰC TRẠNG VÀ TRIỂN VỌNG Bùi Thị Huyền* TÓM TẮT Bài viết nghiên cứu thực trạng quan hệ kinh tế Việt Nam – Liên bang Nga trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI; đánh giá những thành tựu và hạn chế của quan hệ này trên các lĩnh vực chủ yếu như thương mại, đầu tư và hợp tác nĕng lượng dầu khí; qua đó dự báo xu hướng phát triển quan hệ kinh tế Việt – Nga trong thời gian tới. Từ khóa: Quan hệ kinh tế, Việt Nam, Liên bang Nga, thương mại, đầu tư, dầu khí VIETNAM - RUSSIA ECONOMIC RELATIONS AT THE BEGINNING OF THE 21 ST CENTURY, THE SITUATION AND PROSPECTS ABSTRACT The paper studies the status of Vietnam-Russia economic relations in the first two decades of the 21st century; assess the achievements and limitations of this relationship on essential fields such as trade, investment and oil and gas energy cooperation; thereby forecasting the trend of developing Vietnam - Russia economic relations in the coming time. Keywords: Economic relations, Vietnam, Russian Federation, trade, investment, oil and gas. * ThS. GV. NCS. Trường Đại học Kinh tế TP.HCM.ĐT:0902370848;email:huyenbt@ueh.edu.vn 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Nĕm 1991 Liên bang Xô Viết sụp đổ, Liên bang Nga hình thành và kế thừa phần lớn vị trí của Liên Xô trong quan hệ quốc tế. Quan hệ kinh tế song phương Việt – Nga cũng được hình thành từ đó, tuy nhiên gặp nhiều khó khĕn trong giai đoạn đầu vì hai nước chưa xác định được khuôn khổ hợp tác mới thời kỳ hậu Xô Viết. Trong chuyến thĕm Việt Nam của Tổng thống V.Putin nĕm 2001, Việt Nam và Liên bang Nga đã thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược. Khuôn khổ hợp tác mới này mang đến một luồng sinh khí mới cho sự phát triển quan hệ hai nước. Nhờ lực đẩy về chính trị - ngoại giao, quan hệ kinh tế Việt –Nga ngày càng có những thay đổi tích cực, trên các lĩnh vực thương mại, đầu tư và nĕng lượng, coi đây là trọng tâm trong quan hệ song phương Việt –Nga. Đặc biệt, trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều chuyển biến, xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa cùng sự gia tĕng của các hình thức hợp tác kinh tế quốc tế đa dạng, quan hệ kinh tế Việt Nam – Liên bang Nga đang có nhiều cơ hội khi hai nước tiến hành chính sách đổi mới nền kinh tế đối ngoại. Tháng 10/2016, Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh kinh tế Á-Âu (EAEU) chính thức có hiệu lực, điều này góp phần quan trọng thúc đẩy hợp tác kinh tế song phương phát triển lên tầm cao mới. Trải qua 18 nĕm phát triển (2001-2018) quan hệ kinh tế Việt – Nga trên các lĩnh vực chủ yếu như thương mại, đầu tư và hợp tác nĕng lượng dầu khí đã đạt được những thành tựu nhất định, song còn nhiều khó khĕn, thách thức và có triển vọng để tiếp tục phát triển trong thời gian tới. 2. THỰC TRẠNG QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM – LIÊN BANG NGA ĐẦU THẾ KỶ XXI 2.1. Trên lĩnh vực thương mại Trải qua 18 nĕm phát triển, quan hệ thương mại song phương Việt – Nga đã đạt được những thành tựu. Dưới hiệu ứng của quan 96 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật hệ đối tác chiến lược và những chính sách vĩ mô về thuế nhập khẩu ưu đãi cho hàng hóa của Việt Nam, trao đổi thương mại hai chiều Việt Nam – Liên bang Nga phát triển nhanh chóng cả về kim ngạch, cơ cấu xuất nhập khẩu và mặt hàng. Sự tĕng trưởng này thể hiện rất rõ ở kim ngạch xuất nhập khẩu nĕm 2000 là 363 triệu USD, đã tĕng lên 571 triệu USD vào nĕm 2001. Nĕm 2005 kim ngạch xuất nhập khẩu hai nước tĕng cao kỷ lục là 1,02 tỷ USD. Đặc biệt, sau khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, kim ngạch thương mại hai chiều cũng tĕng, đạt 1,642 tỷ USD vào nĕm 2008 và 1,981 tỷ USD vào nĕm 2011, lần đầu tiên Việt Nam đã xuất siêu sang Liên bang Nga (593 triệu USD). Quan hệ thương mại hai nước thật sự được thúc đẩy mạnh mẽ từ nĕm 2012, sau khi đã nâng cấp quan hệ thành đối tác chiến lược toàn diện, Liên bang Nga đã gia nhập WTO và Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á - Âu (VN - EAEU FTA) được ký kết và có hiệu lực vào nĕm 2016. Kim ngạch thương mại hai chiều nĕm 2012 là 2,447 tỷ USD, tĕng lên 2,740 tỷ USD vào nĕm 2016 (Tổng cục Thống kê, 2017) và đặc biệt tĕng cao vào nĕm 2017 với kim ngạch là 3,552 tỷ USD, nĕm 2018 đạt 4,75 tỷ USD, đứng thứ 23 trong số các nước trên thế giới và đứng đầu ASEAN. 109 2.1. Trên lĩnh vực thương mạ ải qua 18 nĕm phát triể ệ thương mại song phương Việ – Nga đã đạt đượ ữ ự Dướ ệ ứ ủ ệ đố ến lượ ững chính sách vĩ mô về ế ậ ẩu ưu đãi cho hàng hóa củ ệt Nam, trao đổi thương mạ ề ệ ể ả ề ạch, cơ cấ ấ ậ ẩ ặ ự tĕng trưở ể ệ ấ ở ạ ấ ậ ẩu nĕm 2000 là 363 triệu USD, đã tĕng ệu USD vào nĕm 2001. Nĕm 2005 kim ngạ ấ ậ ẩu hai nước tĕng cao kỷ ụ ỷ USD. Đặ ệ ệ ứ ậ ạch thương mạ ề cũng tĕng, đạ ỷ USD vào nĕm 2008 và 1,981 tỷ USD vào nĕm 2011, lần đầ ệt Nam đã xuấ ệ ệ thương mại hai nướ ậ ự được thúc đẩ ạ ẽ ừ nĕm 2012, sau khi đã nâng cấ ệ thành đố ế lượ ện, Liên bang Nga đã gia nhậ ệp định Thương mạ ự ữ ệ ế đượ ế ệ ực vào nĕm 2016. Kim ạch thương mạ ều nĕm 2012 là 2,447 tỷ USD, tĕng lên 2,740 tỷ USD vào nĕm 2016 ổ ụ ố và đặ ệt tĕng cao vào nĕm 2017 vớ ạ ỷ nĕm 2018 đạ ỷ đứ ứ ố các nướ ế ới và đứng đầ Nguồn: Do tác giả vẽ theo số liệu của (Tổng cục Thống kê, 2017, tr.438-443, Niên giám thống kê nĕm 2017) Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Nga là những mặt hàng Việt Nam có thế mạnh, đó là các sản phẩm nông, lâm, thủy sản và các sản phẩm chế biến có hàm lượng lao động cao như dệt may, giầy dép. Nhưng cơ cấu hàng xuất khẩu cũng đang có những chuyển dịch tích cực theo hướng đa dạng hóa chủng loại mặt hàng và tĕng tỷ trọng hàng chế biến và chế tạo. Nhóm hàng điện thoại, máy vi tính và các linh kiện kèm theo tĕng khá nhanh, chiếm tỉ trọng đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Nga. Điều này phản ánh chuyển biến tích cực trong cơ cấu sản xuất của nền kinh tế Việt Nam, đồng thời nói lên thành công bước đầu công 571 688 651 887 1020 869 1010 1642 1705 1828 1981 2447 2776 2552 2180 2740 3552 0 500 1000 1500 2000 2500 3000 3500 4000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Biểu đồ 1: Tĕng trưởng kim ngạch thương mại Việt Nam - Liên bang Nga giai đoạn 2001-2017. ĐVT. Triệu USD Nguồn: Do tác giả vẽ theo số liệu của (Tổng cục Thống kê, 2017, tr.438-443, Niên giám thống kê nĕm 2017) Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Nga là những mặt hàng Việt Nam có thế mạnh, đó là: các sản phẩm nông, lâm, thủy sản và các sản phẩm chế biến có hàm lượng lao động cao như dệt may, giầy dép. Nhưng cơ cấu hàng xuất khẩu cũng đang có những chuyển dịch tích cực theo hướng đa dạng hóa chủng loại mặt hàng và tĕng tỷ trọng hàng chế biến và chế tạo. Nhóm hàng điện thoại, máy vi tính và các linh kiện kèm theo tĕng khá nhanh, chiếm tỉ trọng đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Nga. Điều này phản ánh chuyển biến tích cực trong cơ cấu sản xuất của nền kinh tế Việt Nam, đồng thời nói lên thành công bước đầu công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những thành tựu trong xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Liên bang Nga đã giúp Việt Nam phát huy được lợi thế so sánh của mình thông qua việc đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng Việt Nam có lợi thế vào thị trường Liên bang Nga với kim ngạch ngày càng tĕng và đa dạng về chủng loại. Về cơ cấu mặt hàng Việt Nam nhập khẩu (tức Liên bang Nga xuất khẩu) các mặt hàng 97 Quan hệ kinh tế Việt Nam... nhập khẩu chính của Việt Nam từ Nga trong những nĕm qua bao gồm sắt thép và sản phẩm từ sắt thép, xĕng dầu, máy móc, thiết bị và dụng cụ, phụ tùng. Những mặt hàng này phục vụ cho cho sản xuất và tiêu dùng trong nước, đó là những hàng hóa chưa sản xuất được hay sản xuất còn kém hiệu quả, đặc biệt là các nguyên liệu cho các ngành công nghiệp, nĕng lượng. Điều này cũng phản ánh trình độ tiên tiến của nền sản xuất Liên bang Nga và do đó đã hỗ trợ đắc lực cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra ở Việt Nam. Tuy nhiên, quan hệ thương mại song phương giữa hai nước cũng còn nhiều hạn chế, thể hiện ở: Thứ nhất, quy mô và kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa giữa hai nước còn thấp. Mặc dù kim ngạch xuất nhập khẩu hai nước có tĕng lên, tuy nhiên tổng giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam và Liên bang Nga còn rất nhỏ bé so với nhu cầu thị trường mỗi nước. Có thể chứng minh luận điểm này qua xuất nhập khẩu Việt-Nga nĕm 2010, kim ngạch buôn bán hàng hóa hai chiều Việt Nam – Nga đạt 1,83 tỷ USD, trong đó Việt Nam nhập khẩu từ Liên bang Nga là 999,07 triệu USD, xuất khẩu là 829,7 triệu USD (Tổng cục Thống kê, 2017b). Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Nga chiếm tỷ trọng nhỏ (0,3%) trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Nga; trong đó, hàng xuất khẩu của Việt Nam chỉ chiếm 0,24% tổng trị giá nhập khẩu của Nga, trị giá xuất khẩu của Nga sang Việt Nam chiếm 0,46 % trị giá xuất khẩu của Nga (theo Cục đầu tư nước ngoài). Đến nĕm 2016, xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với Nga chiếm 0,78% tổng xuất nhập khẩu của cả nước trong nĕm 2016. Tính chung tất cả các thị trường trên thế giới, nĕm 2016 Nga là đối tác thương mại thứ 25 của Việt Nam, trong đó là thị trường xuất khẩu hàng hóa thứ 26 của các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam và ở chiều ngược lại Nga là nguồn hàng lớn thứ 19 của các nhà nhập khẩu Việt Nam. Nĕm 2017, Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á Âu (VN - EAEU FTA) có hiệu lực, kim ngạch thương mại tĕng cao là 3,552 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu sang Liên bang Nga đạt kim ngạch 2.167 tỷ USD, nhưng vẫn thấp hơn nhiều các thị trường châu Âu khác như: Hà Lan (7,1 tỷ USD), Đức (6,36 tỷ USD), Anh (5,4 tỷ USD), Áo (3,7 tỷ USD); Pháp (3,35 tỷ USD); Italia (2,7 tỷ USD); Tây Ban Nha (2,5 tỷ USD); Bỉ (2,25 tỷ USD) (Bộ Công thương, 2018, tr.92). Thứ hai, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam chưa có sự chuyển dịch tích cực.Việt Nam cũng đã xuất khẩu sang Liên bang Nga các mặt hàng có hàm lượng công nghệ cao trong giai đoạn 2011-2018 như điện thoại và các loại linh kiện, máy vi tính và linh kiện, hàng dệt may cao cấp..nhưng nhìn chung hàng hóa xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam vẫn là hàng nông, lâm, thủy sản, hàng tiểu thủ công, gia công chế biến. Nếu không tính xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam thì tỷ trọng này càng nhỏ bé. Ngoài ra, tuy mức độ tĕng trưởng cao, nhưng còn chưa vững chắc, kém ổn định và chưa tạo ra bước đột phá. Kim ngạch trao đổi thương mại giữa hai nước chưa tương xứng với tiềm nĕng và nhu cầu của hai bên, chưa ngang tầm với mối quan hệ chiến lược của hai nước Những nguyên nhân của hạn chế: Thứ nhất, hàng hóa của cả Việt Nam và Nga chưa xây dựng được thương hiệu của riêng mình tại mỗi thị trường, hạn chế thông tin giữa hai thị trường. Sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam tại thị trường Nga còn còn chưa cao, chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường. Đối với các mặt hàng bình dân, giá rẻ, hàng hóa Việt Nam khó cạnh tranh được với hàng Trung Quốc; đối với hàng chất lượng cao, hàng hóa Việt Nam lại chưa bằng hàng hóa của các nước tây Âu, Mỹ, Nhật Bản. Thứ hai, khó khĕn về những rào cản thương mại – kỹ thuật của Liên bang Nga như thuế giá trị gia tĕng cao cho các hàng tiêu dùng (trung bình 20-30% giá trị), quy định các thủ 98 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật tục hải quan, kiểm định chất lượng hàng hóa, về xuất xứ1, còn khá phức tạp - với những điều kiện kinh doanh như vậy thì thị trường Nga trở nên kém hấp dẫn với các doanh nghiệp Việt Nam. Thêm vào đó, khó khĕn bởi các rào cản phi thuế quan như: quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, quy định về kiểm dịch chất lượng... mà Nga đang áp dụng đối với hàng nông thủy sản của Việt Nam như gạo, rau, quả, thủy sản... tương đối chặt chẽ, thậm chí, chưa phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Thứ ba, khó khĕn lớn nữa là các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam hầu như không có đầu mối giao dịch thương mại tập trung, ổn định tại thị trường này. Có khá nhiều doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu sang Nga đã thông qua các công ty trung gian, môi giới mà không ký kết hợp đồng trực tiếp được với các đối tác Nga. Điều này làm tĕng chi phí doanh nghiệp, và cũng tĕng rủi ro cho doanh nghiệp khi không kiểm soát được nhà nhập khẩu thực tế và dẫn đến rủi ro không được thanh toán. Thứ nĕm, việc thanh toán xuất nhập khẩu của hai nước sử dụng trên 90% là phương thức TT (Telegraphic Transfer - Chuyển tiền bằng điện báo). Điều này gây tâm lý e ngại cho người xuất khẩu, vì không chắc chắn được khả nĕng nhận được tiền thanh toán) hoặc giao tiền thì giao chứng từ (Document against Payment- D/P) cũng gây khó khĕn cho các doanh nghiệp 1 Hàng hóa Việt Nam khi nhập khẩu vào thị trường Liên bang Nga được hưởng thuế xuất thuộc nhóm nước đang phát triển (bằng 75% thuế suất cơ sở công bố), nhưng muốn được hưởng thuế suất này của Nga hàng hóa xuất khẩu sang nước này phải thỏa mãn về xuất xứ được quy định trong “Hệ thống ưu đãi phổ cập-GSP” của Liên bang Nga. Với quy định này, khi hàng hóa xuất khẩu vào Nga, để được hải quan xác định đủ tiêu chuấn GSP thì doanh nghiệp phải chứng minh sự phù hợp về xuất xứ. Hải quan Nga quy định rất chặt chẽ về giấy chứng nhận xuất xứ và có thể tiến hành điều tra xác minh khi có dấu hiệu nghi ngờ. Việt. Việc thanh toán bằng nội tệ hai bên chiếm khoảng 1,5% còn lại là bằng USD, chính vì vậy bị phụ thuộc vào tỷ giá USD lên xuống, rồi sau mới có thể dùng nó để thanh toán cho nhau. 2.2. Trong quan hệ đầu tư Cùng với quan hệ thương mại, quan hệ đầu tư Việt Nam – Liên bang Nga giai đoạn 2001 - 2018 cũng có những bước tiến bộ. Trong giai đoạn từ 1988-2002, Liên bang Nga có 40 dự án đầu tư đã thực hiện ở Việt Nam với tổng số vốn đĕng ký là 1.5 tỷ USD và vốn đầu tư thực hiện đạt 607.5 triệu USD, xếp thứ 9 trong số 62 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Nĕm 2007, sau khi Việt Nam gia nhập WTO, đầu tư của Liên bang Nga đã gia tĕng về số vốn lẫn số dự án đầu tư: 54 dự án với tổng số vốn đầu tư hơn 302 triệu USD, đứng thứ 23 trong tổng số 81 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Nĕm 2009 tuy bị tác động bởi suy thoái kinh tế nhưng Nga vẫn có 6 dự án đầu tư mới vào Việt Nam với tổng số vốn đĕng ký đạt 335,0 triệu USD, đứng thứ 5 trong số 35 nước có đầu tư trực tiếp tại Việt Nam trong nĕm 2009 Lũy kế từ 1988 đến 2009 Nga có 117 dự án với số vốn đĕng ký là 2,321 tỷ USD (Tổng cục Thống kê, 2009, tr.117). Lũy kế đến nĕm 2018, Nga đứng thứ 23 trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với 123 dự án và tổng mức đầu tư khoảng 1 tỷ USD (trừ dầu khí) (Tổng cục thống kê, 2018). Đầu tư trực tiếp của Nga đã có mặt trong những ngành kinh tế quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam như dầu khí, điện, nĕng lượng hạt nhân, cơ khí, công nghiệp hoá chất, luyện kim, công nghiệp chế biến nông lâm, hải sản, ngân hàng, công nghệ thông tin. Trong quan hệ đầu tư Việt Nam – Liên bang Nga còn ghi nhận sự thành công đầu tư từ Việt Nam sang Liên bang Nga có những bước tiến tích cực. Từ chỗ chỉ có 11 dự án với số vốn khoảng 100 triệu USD vào nĕm 2005, đã tĕng lên 18 dự án với tổng số vốn đầu tư là 1,7 tỷ USD vào nĕm 2008. Lũy kế đến ngày 99 Quan hệ kinh tế Việt Nam... 31/12/2017, Việt Nam có 13 dự án FDI đang thực thi tại Liên bang Nga, với số vốn là 2.825 tỷ USD. Liên bang Nga chiếm 13% tổng vốn đĕng ký đầu tư ra nước ngoài, đứng thứ 3/75 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư của Việt Nam. Bảng 2: Đầu tư FDI của Việt Nam phân theo nước tiếp nhận đầu tư (Lũy kế đến 31/12/2017). Số thứ tự Nước tiếp nhận Số dự án Tổng số vốn (triệu USD) 1 Lào 196,0 4.792,6 2 Liên bang Nga 13 2.825,5 3 Campuchia 168,0 2.730,0 4 Venezuela 2 1.825,1 5 Mianma 78 1.319,0 6 Angieri 1 1.261,5 7 Peru 4 1.249,0 8 Malaixia 17 845,0 9 Hoa Kỳ 149,0 585,1 10 Tandania 4 356,3 11 Modambich 3 345,9 12 Singapore 80 277,0 13 Camaron 3 230,7 14 Australia 39 202,3 17 nước khác 143 955,9 Tổng số 1.047,0 19.865,5 Nguồn:https://www.gso.gov.vn/SLTK/Table.aspx Tuy đạt được những thành tựu đáng khích lệ, song quan hệ đầu tư Việt – Nga còn nhiều hạn chế: Thứ nhất, số dự án và số vốn đĕng ký khiêm tốn so với tiềm nĕng và chưa tương xứng với quan hệ đối tác chiến lược. FDI của Liên bang Nga vào Việt Nam thời gian qua tuy có tĕng trưởng về số dự án và tổng vốn nhưng vẫn khiêm tốn so với tiềm nĕng của và chưa tương xứng với quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. Đến hết nĕm 2017 Liên bang Nga chỉ đứng thứ 23 trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với 115 dự án, chỉ chiếm 0,61% về số dự án; 0,82% về vốn đĕng ký và 2,12% về vốn điều lệ trong tổng số các dự án FDI ở Việt Nam (Tổng cục Thống kê, 2017a, tr.157). Ở chiều ngược lại, đầu tư của Việt Nam sang Liên bang Nga tuy bắt đầu có những chuyển biến nhưng không đáng kể. Tính đến nĕm 2017 Nga là nước đứng thứ 3 trong số các nước và vùng lãnh thổ mà Việt Nam đầu tư với 17 dự án, tổng vốn đầu tư đạt 2,8 tỷ USD (Tổng cục Thống kê, 2017a, tr.175). Các dự án đầu tư vào Nga của phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam thường có quy mô nhỏ, chủ yếu là các lĩnh vực dệt may, vật liệu xây dựng, viễn thông, trung tâm thương mại, nông nghiệp, chĕn nuôi bò sữa và chế biến sữa.... Điều này phản ánh quy mô nhỏ bé và tiềm lực kinh tế, khoa học – công nghệ còn thấp của phía Việt Nam. Thứ hai, hiệu quả đầu tư và tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện đối với nguồn vốn FDI của Nga vào Việt Nam còn chưa cao (ngoại trừ liên doanh VietsoPetro). Hầu hết các nhà đầu tư Nga chủ yếu tập trung vào những nơi có cơ sở hạ tầng phát triển. So với nhiều nước khác vốn của Nga còn khiêm tốn và dự án bị giải thể khá nhiều đến 49 % tổng các dự án cấp phép trong khi tỷ lệ trung bình là 23% (Vũ Dương Huân, 2016,tr.6). 100 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Nguyên nhân của hạn chế trong quan hệ đầu tư. Thứ nhất, mặc dù là đối tác chiến lược, song cả hai bên chưa thực sự coi nhau là ưu tiên trong chiến lược kinh tế đối ngoại của mình, vẫn chỉ dành cho nhau ưu tiên thấp. Hai nước chưa có tầm nhìn dài hạn, chưa có một chiến lược phát triển quan hệ kinh tế trong một giai đoạn dài; chưa có chương trình, kế hoạch cụ thể phát triển quan hệ kinh tế - thương mại và đầu tư. Thứ hai, hợp tác đầu tư của Nga tại Việt Nam về cơ bản vẫn chỉ kế thừa các dự án, những định hướng và hình thức đã có từ thời Liên Xô cũ, chưa có các dự án mới có tầm cỡ quốc gia. Thêm vào đó, các doanh nghiệp của Liên bang Nga thường có chi phí sản xuất và vận chuyển lớn. Sự hạn chế về tài chính từ phía Nga và hiệu quả của các dự án đầu tư của Nga tai Việt Nam cũng làm cho các dự án đầu tư của Nga ở Việt Nam thường có hiệu quả chưa cao. 2.3. Hợp tác nĕng lượng dầu khí Thành tựu trong hợp tác dầu khí Việt Nam - Nga có sự phát triển mang tính đột phá về quy mô và lĩnh vực, địa bàn hoạt động. Bên cạnh Liên doanh Vietsovpetro và Gazprom, Rosneft đang gia tĕng sự hiện diện ở Việt Nam, còn có liên doanh Rusvietpetro, Vietgazprom, Gazpromviet đang mở rộng hợp tác trong lĩnh vực dầu khí ở cả Việt Nam và Nga. Quan hệ về dầu khí đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách hai nước Việt Nam và Nga trong những nĕm qua. Hoạt động hợp tác giữa Công ty Zarubezhneft với Petrovietnam qua Liên doanh Vietsovpetro (thành lập nĕm 1981) tại Việt Nam và Liên doanh Rusvietpetro (2008) tại Liên bang Nga đã mang lại hiệu quả cao, doanh thu lớn cho cả Việt Nam và Liên bang Nga. Liên doanh Vietsovpetro đã đưa Việt Nam là nước xuất khẩu dầu lớn thứ ba ở khu vực Đông Nam Á. Giai đoạn 2000-2010 mang lại doanh thu cho Việt Nam là 16 tỷ USD, phía Liên bang Nga là 5 tỷ USD. Giai đoạn 2011-2017 sản lượng dầu khai thác của Vietsovpetro là 38,56 triệu tấn, doanh thu bán dầu là 25,99 tỷ USD. Doanh thu và lợi nhuận về phía Việt Nam là 16,01 tỷ, về phía Liên bang Nga là 2,422 tỷ USD. Trong các dự án đầu tư của Nga tại Việt Nam, Liên doanh Dầu khí Vietsopevtro được nhắc tới nhiều nhất như là một điển hình thành công trong hợp tác đầu tư Việt Nam - Liên bang Nga. Một thành tựu đồng thời là biểu tượng của quan hệ truyền thống chiến lược trong hợp tác dầu khí Việt – Nga đó là Liên doanh Rusvietpetro hoạt động ở nước Nga, giữa Công ty Zarubezhneft và PetroVietnam với tỷ lệ 51/49, đi vào hoạt động vào tháng 12 nĕm 2009. Hiện tại, Liên doanh này đang tìm kiếm, khai thác và khai thác 13 lĩnh vực của 4 khối trong khu tự trị Nenetsky, Liên bang Nga. Cuối nĕm 2017, Liên doanh Rusvietpetro đã khai thác được gần 19 triệu tấn dầu, chuyển về Việt Nam trên 650 triệu USD. Với Việt Nam, hợp tác dầu khí không chỉ có ý nghĩa về kinh tế, mà cả về an ninh, về bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển, đảo. Việc Liên bang Nga tham gia vào khai thác dầu khí trên thềm lục địa của Việt Nam đã góp phần khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông và cũng là yếu tố tạo nên vị thế địa chính trị có lợi cho Việt Nam trong các tranh chấp ở Biển Đông. 3. TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM – LIÊN BANG NGA TRONG NHỮNG NĔM TỚI Mặc dù còn nhiều khó khĕn, thách thức, song quan hệ kinh tế Việt – Nga có đầy đủ các nhân tố để tiếp tục thúc đẩy phát triển trong thời gian tới. Trên nền tảng quan hệ chính trị - ngoại giao tốt đẹp là cơ sở tin cậy cho việc thúc đẩy quan hệ đầu tư, thương mại giữa hai bên. Liên tiếp các chuyến thĕm cấp cao của Nga tới Việt Nam và của Việt Nam tới Nga gần đây đã thể hiện quyết tâm thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt – Nga, nội dung quan trọng nhất trong các chuyến thĕm này đó là xoay quanh chủ đề thúc đẩy hợp tác kinh tế - thương mại – đầu tư. Trên lĩnh vực thương mại: Việt Nam và 101 Quan hệ kinh tế Việt Nam... Liên bang Nga là bạn hàng truyền thống của nhau, danh mục hàng hóa xuất nhập khẩu không những không mạng tính cạnh tranh mà còn bổ trợ cho nhau và thiết yếu cho cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của mỗi nước. Thực tế đã chứng minh kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao, trải qua những thĕng trầm của lịch sử mỗi nước, quan hệ hợp tác thương mại và đầu tư Việt Nam - Liên bang Nga đã không ngừng được mở rộng và phát triển. Đặc biệt, kể từ khi Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á – Âu bắt đầu có hiệu lực từ tháng 10/2016, kim ngạch thương mại giữa Nga và Việt Nam tĕng thêm 62% trong 2 nĕm 2016, 2017 so với 2015. Xuất khẩu từ các nước trong EAEU tĕng thêm 70% trong nĕm 2016. Xuất khẩu từ Việt Nam tĕng đều 19% trong nĕm 2016 và tĕng thêm 35% trong nĕm 2017, nĕm 2018 đạt 4,75 tỷ USD. Khuôn khổ pháp lý trên được kỳ vọng sẽ góp phần quan trọng tĕng cường hơn nữa cơ hội xuất khẩu hàng hóa, mở rộng thị trường tiêu thụ giữa Việt - Nga và hiện thực hóa mục tiêu 10 tỷ USD vào nĕm 2020. Trong thời gian tới, các nhà sản xuất Việt Nam có thể nắm bắt được các lợi thế thương mại tự do và nỗ lực gia tĕng xuất khẩu hàng hóa công nghiệp nhẹ và sản phẩm của ngành sản xuất máy móc vào Liên bang Nga. Ngược lại, hợp tác thương mại mà phía Nga ưu tiên tập trung hợp tác với Việt Nam là đường sắt, hàng không, nĕng lượng, nông nghiệp, công nghiệp nhẹ. Trên lĩnh vực đầu tư: Dầu khí là một trong những lĩnh vực hợp tác hứa hẹn nhiều triển vọng tốt đẹp. Sau khi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á - Âu có hiệu lực, nhiều kế hoạch hợp tác đầu tư giữa các bên đã được thúc đẩy. Chính vì thế, trong thời gian tới hợp tác dầu khí Việt – Nga tiếp tục phát triển mạnh mẽ bởi: Liên bang Nga là nước xuất khẩu dầu khí nằm trong nhóm nước đứng đầu thế giới và “sẽ chiếm vị trí dẫn đầu thế giới về xuất khẩu dầu mở vào nĕm 2030” (Nguyễn An Hà, 2011, tr.33). Thị trường xuất khẩu dầu mỏ truyền thống của Nga chủ yếu là các nước châu Âu, tuy nhiên hiện nay Nga muốn đa dạng hóa thị trường, cho nên đã vào đang mở rộng thị trường sang các nước châu Á – Thái Bình Dương. Chính vì vậy, Nga đã tĕng cường khai thác trữ lượng mới ở vùng Đông Siberi và Viễn Đông, xây dựng các đường ống dẫn khí cũng như các nhà máy hóa lỏng để cung cấp cho thị trường phía này, chủ yếu là Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản. Việt Nam hiện nay cũng đang tập trung phát triển công nghiệp lọc hóa dầu, Liên doanh Vietsovpetro đã và đang mở rộng sang Nga và nước thứ 3. Điều này cũng phù hợp với lợi ích của Nga khi nước này muốn đa dạng hóa thị trường ở khu vực châu Á – Thai Bình Dương nói chung và Đông Á nói riêng. Chính vì vậy, hợp tác thĕm dò và khai thác dầu khí Việt – Nga mở ra triển vọng hợp tác chặt chẽ trong những nĕm tới. Nga sẽ cùng khai thác và cung cấp dầu thô cho Việt Nam để Việt Nam chế biến thành phẩm xĕng dầu các loại cung cấp cho thị trường các nước Đông Á. Thêm vào đó, “hai bên đang thúc đẩy việc việc hợp tác trong nghiên cứu sản xuất các dạng nĕng lượng mới như các loại xĕng sinh học thay thế cho nguồn nguyên liệu Cacbon, thĕm dò địa chất và khai thác hydrocacbon trên lãnh thổ Việt Nam, thực hiện các dự án chung trong lĩnh vực sản xuất khí đốt và nhiên liệu động cơ khí” cũng là hướng mà cả Nga và Việt Nam đều chú trọng” (Petrotimes, 2019) Bên cạnh dầu khí, hiện tại có danh mục 20 dự án ưu tiên hợp tác đầu tư Việt Nam - Liên bang Nga, với vốn đầu tư khoảng 10 tỷ USD, trong đó có các dự án triển vọng trong các lĩnh vực mới như nông nghiệp, dược liệu, vốn đầu tư khoảng 500 triệu USD. Bên cạnh đó, việc đầu tư của Việt Nam sang Nga cũng có triển vọng phát triển trong thời gian tới, đặc biệt mà mở rộng xúc tiến đầu tư ngành công nghiệp nhẹ tại Nga là rất lớn và khả quan. Thời điểm hiện tại và những nĕm tới cũng là thời cơ lớn đối với doanh nghiệp nhẹ Việt Nam mở rộng sản xuất và đầu 102 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật tư nước ngoài vào địa bàn Nga, bởi chính phủ Nga đang rất quan tâm phát triển công nghiệp nhẹ, và cũng rất ủng hộ doanh nghiệp Việt Nam hợp tác, đầu tư vào Nga. Một số doanh nghiệp Việt Nam cũng đã có kế hoạch đầu tư sang thị trường Nga như đầu tư các trung tâm phân phối hàng hóa, vật liệu xây dựng. 4. KẾT LUẬN Hai thập niên đầu thế kỷ XXI là giai đoạn chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ trong quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Liên bang Nga trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực kinh tế. Nhờ lực đẩy của hợp tác chính trị - ngoại giao, quan hệ kinh tế Việt Nam - Nga ngày càng có những thay đổi tích cực, những bước tiến về chất trong nhiều lĩnh vực, nhất là trong thương mại, đầu tư và hợp tác nĕng lượng. Tuy nhiên, xuất phát từ sự chênh lệch lớn về trình độ và quy mô của hai nền kinh tế và sự khác biệt các giá trị, chiến lược dẫn đến quá trình xây dựng chính sách của hệ kinh tế song phương luôn bị chậm so với đòi hỏi của thực tiễn. Trong quan hệ kinh tế, hai bên chưa thực sự coi nhau là đối tác chiến lược. Điều này thể hiện rõ trong quan hệ thương mại và đầu tư. Kim ngạch thương mại hai nước là nhỏ bé so với tiềm nĕng và so với một số các nước khác. Quan hệ đầu tư cũng chưa đạt được những bước đột biến, chưa tương xứng với quan hệ đối tác chiến lược toàn diện mà hai nước thiết lập. Quan hệ kinh tế Việt – Nga còn nhiều hạn chế, khó khĕn, thách thức; song những kết quả đạt được trong thời gian qua cũng đang mở ra triển vọng lạc quan trong những nĕm tiếp theo khi hai nước hoàn thiện và bổ sung thêm các chính sách đúng đắn. Nhìn một cách tổng thể, sự đan xen giữa triển vọng và thách thức của quan hệ kinh tế Việt Nam- Liên bang Nga cần có sự nỗ lực của cả hai phía nhằm phát huy thuận lợi, hạn chế khó khĕn nhằm đưa mối quan hệ tiếp tục tiến lên phía trước. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Công Thương. 2018. “Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam nĕm 2017.”, Hà Nội: Nhà Xuất Bản Công Thương. 2. Bộ phát triển kinh tế Liên bang Nga.2018. “Kết quả ngoại thương Nga Nĕm 2018.” h t tp : / /www.ved.gov. ru / f i les / images / slaids%202018.pdf. 3. Bộ phát triển kinh tế Liên bang Nga, Báo cáo tình hình phát triển kinh tế - xã hội các nĕm, 2016, 2017. Tiếng Nga, www.goverment.ru. 4. Bộ ngoại giao, Vụ châu Âu, 2016. “Концепции внешней политики Российской Федерации (30/11/2016)”,ht tp: / /kremlin.ru/acts/ bank/41451 5. Nguyễn An Hà. 2011. “Chiến Lược Dầu Khí Của Liên Bang Nga Và Triển Vọng Hợp Tác Việt – Nga Tới 2020.” Nghiên Cứu Châu Âu. Số 3: 28–36. 6. Petrotimes. 2019. “Hợp tác Dầu khí: điểm sáng trong quan hệ hữu nghị Việt Nam- Liên bang Nga,” 2019. Https://Petrovietnam. Petrotimes.Vn/Hop-Tac-Dau-Khi-Diem- Sang-Trong-Quan-He-Huu-Nghi-Viet-Nam- Lb-Nga-537167.Html. 7. Tổng cục Thống kê. 2009. Niên giám Thống kê 2009. Nhà xuất bản Thống kê. Hà Nội 8. Tổng Cục Thống Kê. 2017a. Niên Giám Thống Kê Tóm Tắt. Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội. 9. Tổng Cục Thống Kê, 2017b. Xuất Nhập Khẩu Hàng Hóa Việt Nam Hội Nhập Và Phát Triển 2005 – 2015. Nxb. Thống Kê, Hà Nội. 10. Tổng Cục Thống Kế 2017c. Xuất Nhập Khẩu Hàng Hóa Việt Nam Hội Nhập Và Phát Triển 2005 – 2015. Nxb. Thống Kê, Hà Nội. 11. Vũ Dương Huân. 2016. “Thực trạng và triển vọng quan hệ đối tác chiến lược VIỆT – NGA.” Bộ Ngoại Giao, 6.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfquan_he_kinh_te_viet_nam_lien_bang_dau_the_ky_xxi_thuc_trang.pdf