Khi phát hiện việc điều tra không đầy
đủ, vi phạm pháp luật thì Viện kiểm sát có
quyền: yêu cầu Cơ quan điều tra phải tiến
hành hoạt động điều tra đúng pháp luật;
kiểm tra việc điều tra và thông báo kết quả
cho Viện kiểm sát; cung cấp tài liệu liên
quan đến hành vi, quyết định tố tụng có vi
phạm pháp luật trong việc điều tra; yêu cầu
Cơ quan điều tra khắc phục vi phạm trong
việc khởi tố, điều tra; yêu cầu Thủ trưởng
Cơ quan điều tra thay đổi điều tra viên, cán
bộ điều tra, xử lý nghiêm minh điều tra viên,
cán bộ điều tra vi phạm pháp luật trong hoạt
động tố tụng (các khoản 5, 6, 7 Điều 166).
Cơ quan điều tra có trách nhiệm phải
thực hiện các yêu cầu, quyết định của Viện
kiểm sát.
- Viện kiểm sát có quyền huỷ bỏ các
quyết định trái pháp luật của Cơ quan điều
tra. Đây là một trong những quyền năng
quan trọng mà pháp luật quy định cho Viện
kiểm sát, là phương tiện của hoạt động kiểm
sát, bảo đảm cho việc kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động điều tra. Theo quy
định của Bộ luật TTHS, Viện kiểm sát có
quyền: hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp
ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, biện pháp
điều tra tố tụng đặc biệt; hủy bỏ quyết định
tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tội
phạm của Cơ quan điều tra (Điều 41); hủy
bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi
hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình
sự, quyết định không khởi tố vụ án hình sự
và các quyết định tố tụng khác không có căn
cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra
(Điều 161, Điều 165).
Có thể nói rằng, quyền giám sát và
quyền hủy bỏ của Viện kiểm sát đối với
các quyết định trái pháp luật của Cơ quan
điều tra là các quyền độc lập của Viện kiểm
sát nhưng có mối liên hệ chặt chẽ, hỗ trợ
lẫn nhau. Vì nếu chỉ có quyền giám sát mà
không có quyền hủy bỏ thì quyền yêu cầu
chỉ là hình thức; ngược lại, kết quả thực
hiện quyền giám sát là tiền đề để Viện kiểm
sát thực hiện quyền yêu cầu, quyền hủy bỏ.
Thực tế cho thấy, không phải lúc nào Viện
kiểm sát cũng thực hiện đầy đủ các quyền
năng trên, nhất là khi hoạt động điều tra đã
tuân thủ các quy định của pháp luật thì Viện
kiểm sát chỉ thực hiện quyền giám sát đối
với Cơ quan điều tra; khi Cơ quan điều tra
tiến hành điều tra vụ án chưa đầy đủ hoặc
có hoạt động tố tụng không có căn cứ, Viện
kiểm sát sẽ thực hiện cả quyền giám sát, yêu
cầu và hủy bỏ. Tuy nhiên, về mặt pháp lý,
Viện kiểm sát cần có đầy đủ các quyền năng
trên mới có khả năng kiểm soát trực tiếp,
toàn diện và hữu hiệu hoạt động điều tra vụ
án hình sự của Cơ quan điều tra, góp phần
quan trọng làm cho hoạt động điều tra tuân
thủ các quy định của pháp luật, đồng thời
phát huy được vai trò là cơ quan “quyết định
việc buộc tội”, tăng cường trách nhiệm công
tố trong giai đoạn điều tra, hạn chế oan, sai,
bảo đảm quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức
trong TTHS theo quy định của pháp luật
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 314 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quan hệ phối hợp, kiểm soát giữa cơ quan điều tra và viện kiểm sát trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, Cơ quan điều tra và
Viện kiểm sát tuy có chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng có mối
quan hệ tố tụng chặt chẽ với nhau. Đây là mối quan hệ quan trọng và
cần được pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) quy định rõ ràng, rành
mạch để tránh chồng chéo, đồng thời bảo đảm sự phối hợp kiểm soát
giữa các cơ quan trong thực hiện quyền tư pháp ở giai đoạn khởi tố,
điều tra vụ án hình sự. Bài viết tập trung phân tích một số quy định của
Bộ luật TTHS về quan hệ phối hợp, kiểm soát giữa Cơ quan điều tra
và Viện kiểm sát.
GIỮA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VÀ VIỆN KIỂM SÁT TRONG
KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
Đào Anh Tới*
Abstract:
Although the Investigation Agencies and the People’s Procuracy
have different functions and responsibilities, they have closed legal
relationship during the stage of investigation and prosecution in the
criminal cases. This is an important criminal procedure relationship
which must be clearly and explicitly defined by the criminal procedure
law in order to avoid the overlapped functions and tasks between the
Investigation Agencies and the People’s Procuracy. This article focuses
on the analysis of the provisions of the Criminal Procedure Code
related to criminal procedure relationships between the Investigation
Agencies and the People’s Procuracy
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Viện kiểm sát; Cơ quan
điều tra; khởi tố, điều tra án hình sự.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 22/03/2017
Biên tập: 13/04/2017
Duyệt bài: 27/04/2017
Article Infomation:
Keywords: The People’s Procuracy;
Investigation Agency; investigation
of criminal cases.
Article History:
Received: 22 Mar. 2017
Edited: 13 Apr. 2017
Appproved: 27 Apr. 2017
* ThS., Cục Pháp chế Bộ Công an.
Khởi tố, điều tra án hình sự là giai đoạn đầu tiên của TTHS, có vai trò, ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ
quá trình TTHS. Trong hoạt động khởi tố,
điều tra án hình sự, Cơ quan điều tra và Viện
kiểm sát có mối quan hệ chặt chẽ và là các
chủ thể chính tiến hành hoạt động này. Đây là
mối quan hệ tố tụng quan trọng trong TTHS,
QUAN HỆ PHỐI HỢP, KIỂM SOÁT
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
55Số 14(342) T7/2017
là biểu hiện của nguyên tắc phân công, phối
hợp, kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà
nước trong hoạt động tư pháp. Mối quan hệ
này được hình thành ngay từ khi có tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và
trong toàn bộ quá trình điều tra (kể cả điều
tra lại, điều tra bổ sung). Nếu quan hệ này
được vận hành tốt, nhịp nhàng, hiệu quả sẽ
góp phần bảo đảm việc phát hiện tội phạm,
điều tra, xử lý các vụ án hình sự đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, không để xảy ra
oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm, tiết kiệm thời
gian và chi phí vật chất trong hoạt động
TTHS.
Bộ luật TTHS năm 2015 đã có nhiều
quy định nhằm đổi mới mối quan hệ tố tụng
giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát theo
hướng tăng cường quan hệ phối hợp nhưng
có sự kiểm tra, kiểm soát giữa các cơ quan
trong việc thực hiện quyền tư pháp.
1. Trong quan hệ phối hợp khởi tố, điều
tra vụ án hình sự
Phối hợp là một trong các hình thức
và nguyên tắc hoạt động không thể thiếu
giữa các cơ quan nhà nước. Trong TTHS,
Viện kiểm sát có quan hệ phối hợp trực tiếp
với Tòa án, Cơ quan điều tra và Cơ quan thi
hành án.
Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ
án hình sự, Cơ quan điều tra và Viện kiểm
sát có quan hệ phối hợp nhằm bảo đảm phát
hiện, điều tra và xử lý tội phạm một cách
nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả và đúng
pháp luật. Tuy nhiên, mỗi cơ quan có chức
năng, nhiệm vụ khác nhau, nên sự phối hợp
giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát biểu
hiện bằng sự ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau
trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ.
Trong giai đoạn điều tra, Cơ quan điều
tra và Viện kiểm sát đều được giao những
nhiệm vụ, quyền hạn rất cụ thể. Hoạt động
điều tra chủ yếu do Cơ quan điều tra tiến
hành nhưng phải phối hợp với Viện kiểm sát
để Viện kiểm sát thực hiện kiểm sát điều tra,
bảo đảm hoạt động điều tra tuân thủ đúng
quy định của pháp luật.
Theo quy định tại các điều 183, 189,
190, 191, 201, 202, 204 Bộ luật TTHS năm
2015, khi tiến hành các hoạt động hỏi cung,
đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói,
khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử
thi, thực nghiệm điều tra, Cơ quan điều tra
phải báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết
và cử kiểm sát viên tham gia các hoạt động
điều tra trên; Cơ quan điều tra cũng phải
thông báo, cung cấp cho Viện kiểm sát các
tài liệu, chứng cứ thu thập được, tiến độ giải
quyết vụ án hình sự, các vấn đề phức tạp
phát sinh để phối hợp giải quyết; Cơ quan
điều tra có trách nhiệm lập hồ sơ vụ án hình
sự nhưng phải phối hợp chặt chẽ với Viện
kiểm sát, vì hồ sơ vụ án là căn cứ pháp lý
quan trọng để Viện kiểm sát ban hành các
quyết định TTHS và thực hành quyền công
tố tại phiên tòa.
Trong quá trình kiểm sát điều tra, Viện
kiểm sát cũng phải có trách nhiệm phối hợp
chặt chẽ với Cơ quan điều tra. Đối với các
hoạt động điều tra bắt buộc phải có sự tham
gia của Viện kiểm sát, khi nhận được thông
báo của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải
kịp thời cử kiểm sát viên có mặt để kiểm
sát hoạt động điều tra; thông báo kịp thời
ban hành các quyết định, yêu cầu bảo đảm
cho hoạt động điều tra được tiến hành một
cách khẩn trương, đầy đủ, chính xác; kiểm
tra các thủ tục tố tụng để phát hiện vi phạm
và yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục, bổ
sung. Trong công tác phối hợp, Viện kiểm
sát cũng phải tuân thủ các quy định của Bộ
luật TTHS, cân nhắc một cách toàn diện
giữa yêu cầu chính trị, pháp luật, nghiệp vụ
để phối hợp với Cơ quan điều tra khám phá,
điều tra vụ án hình sự, không vì kiểm sát
điều tra mà cản trở hoặc làm chậm tiến độ
điều tra vụ án hình sự.
Bên cạnh yêu cầu phân công rõ ràng,
rành mạch về chức năng, nhiệm vụ, trong
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
56 Số 14(342) T7/2017
quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và
Viện kiểm sát đòi hỏi phải có nguyên tắc để
làm cơ sở hình thành những chuẩn mực pháp
lý và cách ứng xử của các chủ thể trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự. Về nguyên
tắc của quan hệ phối hợp, Điều 20 Bộ luật
TTHS năm 2015 quy định “Viện kiểm sát
thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong TTHS, quyết định
việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật
nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người
phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp
luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp
thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội
phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm
tội, không làm oan người vô tội”. Điều đó
có nghĩa là Viện kiểm sát là cơ quan “quyết
định việc buộc tội”, quyền năng pháp lý mà
Nhà nước giao cho duy nhất cơ quan công
tố thực hiện. Quy định này có tính nguyên
tắc, khẳng định rõ hơn vị trí, vai trò của
Viện kiểm sát trong việc thực hiện quyền
tư pháp. Cùng với Viện kiểm sát, Cơ quan
điều tra cũng tham gia buộc tội nhưng Viện
kiểm sát đóng vai trò là cơ quan quyết định.
Viện kiểm sát cần sử dụng kết quả hoạt động
điều tra của Cơ quan điều tra để quyết định
việc luận tội bị can tại phiên tòa. Bằng các
biện pháp điều tra theo quy định của pháp
luật, Cơ quan điều tra phải thu thập đầy đủ
chứng cứ để chứng minh tội phạm, làm sáng
tỏ toàn bộ nội dung vụ án, lập hồ sơ vụ án,
làm cơ sở để Viện kiểm sát quyết định ra bản
cáo trạng truy tố bị can trước phiên tòa; nếu
quá trình điều tra không thu thập được đầy
đủ chứng cứ, có thiếu sót thì Viện kiểm sát
sẽ không tiến hành buộc tội bị can mà yêu
cầu Cơ quan điều tra điều tra bổ sung, tạm
đình chỉ hoặc đình chỉ điều tra theo quy định
của pháp luật.
Là cơ quan “quyết định việc buộc tội”
nên Viện kiểm sát quyết định tội danh mà
người phạm tội phải bị truy cứu theo quy
định của Bộ luật Hình sự. Điều này được
thể hiện qua việc Viện kiểm sát thực hiện
phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của Cơ
quan điều tra, nếu thấy Cơ quan điều tra
khởi tố bị can chưa đủ căn cứ hoặc chưa phù
hợp với tài liệu, chứng cứ thu thập được thì
Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra hủy
bỏ quyết định khởi tố bị can hoặc ra quyết
định khởi tố bị can về một tội danh khác phù
hợp hơn. Ngay cả khi Cơ quan điều tra đã
hoàn tất việc điều tra, ra bản kết luận điều
tra đề nghị truy tố bị can, nhưng nếu xét thấy
không đủ căn cứ buộc tội, Viện kiểm sát sẽ
trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ
sung hoặc quyết định đình chỉ vụ án, quyết
định đình chỉ vụ án đối với bị can nếu có căn
cứ theo quy định của pháp luật.
Để tạo cơ sở pháp lý cho Viện kiểm sát
thực hiện vai trò “quyết định buộc tội”, Bộ
luật TTHS năm 2015 bổ sung cho Viện kiểm
sát nhiều chức năng, nhiệm vụ mới, đặc biệt
là quy định Viện kiểm sát thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
ngay từ giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Theo đó,
khi Cơ quan điều tra tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi
tố, Viện kiểm sát có quyền đề ra yêu cầu
kiểm tra, xác minh và yêu cầu Cơ quan điều
tra thực hiện; hủy bỏ quyết định tạm giữ,
quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định
không khởi tố vụ án hình sự, quyết định tạm
đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm và
các quyết định tố tụng khác trái pháp luật
của Cơ quan điều tra và nhiệm vụ, quyền
hạn khác trong việc thực hành quyền công tố
và kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội
phạm theo quy định của Bộ luật này nhằm
chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người
vô tội (các điều 159, 160). Đến giai đoạn
điều tra, Viện kiểm sát đề ra yêu cầu điều
tra và yêu cầu Cơ quan điều tra thực hiện để
làm rõ tội phạm, người phạm tội; trực tiếp
tiến hành các hoạt động điều tra để bổ sung
tài liệu, chứng cứ khi phát hiện có dấu hiệu
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
57Số 14(342) T7/2017
oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp luật
mà Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản
nhưng không được khắc phục hoặc trường
hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ
khi quyết định việc truy tố (Điều 165); tham
gia cùng Cơ quan điều tra tiến hành các
hoạt động điều tra như: khám nghiệm hiện
trường, khám nghiệm tử thi, hỏi cung, đối
chất, nhận dạng,...
Xét cho cùng, những nhiệm vụ, quyền
hạn nêu trên của Viện kiểm sát nhằm bảo
đảm cho Viện kiểm sát chủ động nắm chắc
và kiểm sát chặt chẽ toàn bộ quá trình điều
tra vụ án, đưa ra quyết định buộc tội bị can
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, thuyết
phục, hạn chế oan, sai ngay từ những giai
đoạn đầu của TTHS.
2. Trong quan hệ kiểm soát việc thực hiện
quyền lực nhà nước ở giai đoạn khởi tố,
điều tra vụ án hình sự
Kiểm soát quyền lực cũng là một
nguyên tắc cơ bản của quá trình tổ chức và
thực hiện quyền lực nhà nước. Bất cứ lĩnh
vực nào có quyền lực nhà nước cũng cần
phải có cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực
hiện.
Theo quy định tại Điều 20 Bộ luật
TTHS năm 2015, Viện kiểm sát là cơ quan
thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong TTHS, nhằm phát
hiện vi phạm pháp luật, bảo đảm mọi hành vi
phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm
tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát
hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không
để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp
nhân phạm tội, không làm oan người vô tội.
Thực chất hoạt động kiểm sát hoạt
động điều tra, xét xử và thi hành án của Viện
kiểm sát là việc kiểm soát quyền lực nhà
nước trong hoạt động tư pháp hình sự. Để
thực hiện chức năng hiến định quan trọng
này, pháp luật TTHS trao cho Viện kiểm sát
các quyền hạn nhất định trong hoạt động
điều tra, đó là: quyền giám sát, quyền yêu
cầu và quyền hủy bỏ các quyết định, hành
vi tố tụng không có căn cứ pháp luật của
Cơ quan điều tra. Nghiên cứu các quy định
của Bộ luật TTHS năm 2015 cho thấy, các
quyền năng này của Viện kiểm sát được biểu
hiện dưới các hình thức chủ yếu như sau:
- Viện kiểm sát thực hiện quyền giám
sát hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra
một cách trực tiếp, như việc kiểm sát các
hoạt động: khám nghiệm hiện trường (Điều
201), khám nghiệm tử thi (Điều 202), hỏi
cung bị can (Điều 183) hoặc giám sát
gián tiếp thông qua việc nghiên cứu hồ sơ,
tài liệu phản ánh hoạt động điều tra. Quyền
giám sát của Viện kiểm sát thể hiện rõ nhất
trong việc kiểm sát việc thực hiện các quyền
năng, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra
bằng việc nhất trí hoặc không nhất trí với
Cơ quan điều tra thông qua việc phê chuẩn
hoặc không phê chuẩn các quyết định tố
tụng quan trọng của Cơ quan điều tra như:
quyết định khởi tố bị can (Điều 179, Điều
180); quyết định áp dụng biện pháp điều tra
tố tụng đặc biệt (Điều 225); quyết định áp
dụng các biện pháp bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp (Điều 110), bắt bị can
để tạm giam (Điều 113), gia hạn tạm giữ
(Điều 118),
Từ trước đến nay, Viện kiểm sát thực
hiện quyền giám sát hoạt động điều tra của
Cơ quan điều tra vẫn được coi là một nguyên
tắc trong TTHS. Bởi vì, bất kỳ cơ chế hoạt
động nào, quyền hạn nào cũng cần có sự
kiểm tra, giám sát. Qua thực hiện quyền
giám sát, Viện kiểm sát mới có cơ sở để xác
định được hoạt động điều tra được thực hiện
đúng hay sai, có khách quan, đầy đủ không.
- Viện kiểm sát thực hiện quyền yêu
cầu Cơ quan điều tra thực hiện các hoạt
động điều tra khi thông qua hoạt động giám
sát hoạt động điều tra mà phát hiện thấy việc
điều tra chưa đầy đủ, chính xác hoặc có vi
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
58 Số 14(342) T7/2017
phạm pháp luật. Quyền yêu cầu của Viện
kiểm sát đối với Cơ quan điều tra được quy
định rõ trong Bộ luật TTHS năm 2015. Cụ
thể, trong trường hợp xét thấy Cơ quan điều
tra khởi tố bị can chưa khởi tố vụ án, khởi tố
bị can hoặc khởi tố chưa đúng tội danh hoặc
còn bỏ lọt tội phạm, Viện kiểm sát có quyền:
yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay
đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình
sự, khởi tố bị can (Khoản 1 Điều 165); yêu
cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can, áp dụng
biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt (Khoản
6 Điều 165); yêu cầu Cơ quan điều tra xử
lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi
phạm pháp luật (Khoản 2 Điều 166); yêu cầu
Cơ quan điều tra cung cấp tài liệu liên quan
để kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc khởi tố, điều tra khi cần thiết (Khoản 4
Điều 166).
Khi phát hiện việc điều tra không đầy
đủ, vi phạm pháp luật thì Viện kiểm sát có
quyền: yêu cầu Cơ quan điều tra phải tiến
hành hoạt động điều tra đúng pháp luật;
kiểm tra việc điều tra và thông báo kết quả
cho Viện kiểm sát; cung cấp tài liệu liên
quan đến hành vi, quyết định tố tụng có vi
phạm pháp luật trong việc điều tra; yêu cầu
Cơ quan điều tra khắc phục vi phạm trong
việc khởi tố, điều tra; yêu cầu Thủ trưởng
Cơ quan điều tra thay đổi điều tra viên, cán
bộ điều tra, xử lý nghiêm minh điều tra viên,
cán bộ điều tra vi phạm pháp luật trong hoạt
động tố tụng (các khoản 5, 6, 7 Điều 166)...
Cơ quan điều tra có trách nhiệm phải
thực hiện các yêu cầu, quyết định của Viện
kiểm sát.
- Viện kiểm sát có quyền huỷ bỏ các
quyết định trái pháp luật của Cơ quan điều
tra. Đây là một trong những quyền năng
quan trọng mà pháp luật quy định cho Viện
kiểm sát, là phương tiện của hoạt động kiểm
sát, bảo đảm cho việc kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động điều tra. Theo quy
định của Bộ luật TTHS, Viện kiểm sát có
quyền: hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp
ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, biện pháp
điều tra tố tụng đặc biệt; hủy bỏ quyết định
tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tội
phạm của Cơ quan điều tra (Điều 41); hủy
bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi
hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình
sự, quyết định không khởi tố vụ án hình sự
và các quyết định tố tụng khác không có căn
cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra
(Điều 161, Điều 165).
Có thể nói rằng, quyền giám sát và
quyền hủy bỏ của Viện kiểm sát đối với
các quyết định trái pháp luật của Cơ quan
điều tra là các quyền độc lập của Viện kiểm
sát nhưng có mối liên hệ chặt chẽ, hỗ trợ
lẫn nhau. Vì nếu chỉ có quyền giám sát mà
không có quyền hủy bỏ thì quyền yêu cầu
chỉ là hình thức; ngược lại, kết quả thực
hiện quyền giám sát là tiền đề để Viện kiểm
sát thực hiện quyền yêu cầu, quyền hủy bỏ.
Thực tế cho thấy, không phải lúc nào Viện
kiểm sát cũng thực hiện đầy đủ các quyền
năng trên, nhất là khi hoạt động điều tra đã
tuân thủ các quy định của pháp luật thì Viện
kiểm sát chỉ thực hiện quyền giám sát đối
với Cơ quan điều tra; khi Cơ quan điều tra
tiến hành điều tra vụ án chưa đầy đủ hoặc
có hoạt động tố tụng không có căn cứ, Viện
kiểm sát sẽ thực hiện cả quyền giám sát, yêu
cầu và hủy bỏ. Tuy nhiên, về mặt pháp lý,
Viện kiểm sát cần có đầy đủ các quyền năng
trên mới có khả năng kiểm soát trực tiếp,
toàn diện và hữu hiệu hoạt động điều tra vụ
án hình sự của Cơ quan điều tra, góp phần
quan trọng làm cho hoạt động điều tra tuân
thủ các quy định của pháp luật, đồng thời
phát huy được vai trò là cơ quan “quyết định
việc buộc tội”, tăng cường trách nhiệm công
tố trong giai đoạn điều tra, hạn chế oan, sai,
bảo đảm quyền, lợi ích của cá nhân, tổ chức
trong TTHS theo quy định của pháp luật
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
59Số 14(342) T7/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quan_he_phoi_hop_kiem_soat_giua_co_quan_dieu_tra_va_vien_kie.pdf