Khoản 2 Điều 12 đã liệt kê cụ thể
những tội danh mà người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 phải chịu TNHS nhằm đảm bảo tính
minh bạch, nhân đạo trong xử lý đối với đối
tượng này theo tinh thần của Hiếp pháp năm
2013 và Công ước của LHQ về Quyền trẻ
em. Theo đó, người từ đủ 14 tuổi trở lên,
nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS
về tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt
nghiêm trọng về 28 tội danh quy định tại
khoản 2 Điều 12. Sửa đổi này phù hợp với
quan điểm nhất quán của Nhà nước ta được
thể hiện trong BLHS năm 1985 và năm 1999
là chỉ xem xét TNHS đối với người từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm
trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng; đồng thời cũng phù hợp với Công ước
của LHQ về Quyền trẻ em mà Việt Nam là
thành viên.
Đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên,
BLHS năm 2015 quy định người này phải
chịu TNHS về mọi tội phạm, trừ những tội
phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Như
vậy, theo quy định của BLHS năm 2015, sẽ
có những tội phạm mà người từ đủ 16 tuổi
trở lên không phải chịu TNHS. Cụ thể, các
điều 145, 146, 147 BLHS năm 2015 quy
định cụ thể 3 tội, theo đó, chủ thể phải là
người đủ 18 tuổi chứ không phải đủ 16
tuổi: Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi
quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13
tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145); tội dâm ô
đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146); tội sử
dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu
dâm (Điều 147).
Như vậy, có thể nhận thấy rằng, so với
BLHS năm 1999, độ tuổi chịu TNHS của trẻ
em trong BLHS năm 2015 không nhiều thay
đổi. Tuy nhiên, BLHS năm 2015 đã điều
chỉnh phạm vi chịu TNHS của trẻ em cho
phù hợp với pháp luật quốc tế.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 252 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quan niệm về tuổi chịu trách nhiệm hình sự của trẻ em, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Bài viết phân tích quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của
trẻ em trong pháp luật hình sự các nước, từ đó so sánh dưới góc độ
lập pháp với các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành.
QUAN N I ỆM VỀ
Hà Lệ Thủy*
Nguyễn Thị Lan Anh*
Abstract:
This article provides analysis of the provisions on the age of the
childern's criminal liability in the criminal law of a number of
countries, and also comparison from the legislative point of view with
the provisions of the current Vietnamese criminal law.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: trách nhiệm hình sự, độ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự, pháp
luật hình sự nước ngoài, người chưa
thành niên, trẻ em.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 20/08/2017
Biên tập: 24/08/2017
Duyệt bài: 27/08/2017
Article Infomation:
Keywords: Penal liability, age of
criminal liability, foreign criminal
law, juvenile, children.
Article History:
Received: 20 Aug. 2017
Edited: 24 Aug. 2017
Appproved: 27 Aug. 2017
* ThS, Khoa Luật hình sự - Trường Đại học Luật Huế.
** Khoa Luật hình sự - Trường Đại học Luật Huế
TUỔI CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA TRẺ EM
1. Định nghĩa trẻ em, tuổi chịu trách
nhiệm hình sự của trẻ em
Cho đến nay, khi đề cập đến khái
niệm trẻ em vẫn có nhiều ý kiến và cách
gọi khác nhau, như người chưa thành niên,
trẻ vị thành niên, trẻ em. Trong các văn bản
pháp lý quốc tế và các chương trình của Liên
hiệp quốc (LHQ), tổ chức này sử dụng đồng
thời cả hai định nghĩa trẻ em và người chưa
thành niên. Điều 1 Công ước quốc tế về
Quyền trẻ em quy định: “Trẻ em có nghĩa là
người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp
áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành
niên sớm hơn”. Quy tắc Bắc Kinh được Đại
hội đồng LHQ thông qua ngày 29/11/1985
lại nêu: “Người chưa thành niên là trẻ em
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
48 Số 17(345) T9/2017
hay người ít tuổi tùy theo từng hệ thống
pháp luật có thể bị xét xử vì phạm pháp theo
một hình thức khác với việc xét xử người
lớn”. Quy tắc tối thiểu của LHQ về Bảo vệ
người chưa thành niên bị tước quyền tự do
thông qua ngày 14/12/1990 cũng quy định:
“Người chưa thành niên là người dưới 18
tuổi. Giới hạn tuổi dưới mức này cần phải
được pháp luật xác định và không được tước
quyền tự do của người chưa thành niên”.
Như vậy, có thể thấy rằng, khi đưa ra định
nghĩa về trẻ em hay người chưa thành niên,
pháp luật quốc tế không dựa vào đặc điểm
tâm - sinh lý hay sự phát triển thể chất, tinh
thần... mà trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua
việc xác định độ tuổi. Theo đó, trẻ em và
người chưa thành niên đều giới hạn là dưới
18 tuổi, đồng thời pháp luật quốc tế mở cho
các quốc gia khả năng, tuỳ điều kiện kinh tế
- xã hội, văn hoá, truyền thống của mình, có
thể quy định độ tuổi đó sớm hơn.
Ở Việt Nam, quy định về độ tuổi của
trẻ em thấp hơn so với Công ước. Điều 1
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
năm 2004 quy định: “Trẻ em quy định trong
Luật này là công dân Việt Nam dưới mười
sáu tuổi”. Luật Trẻ em năm 2016 thay thế
cho Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em năm 2004 cũng quy định: “Trẻ em là
người dưới 16 tuổi” (Điều 1). So sánh quy
định của hai văn bản luật này cho thấy, độ
tuổi của trẻ em là không thay đổi. Mặc dù,
trong quá trình soạn thảo Luật Trẻ em năm
2016, đã có nhiều ý kiến cho rằng nên quy
định nâng cao độ tuổi của trẻ em lên cho
phù hợp với quy định của Công ước LHQ
về Quyền trẻ em mà Việt Nam đã ký kết và
tham gia.
Pháp luật hình sự của mỗi nước quy
định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
1 Xem:
(TNHS) của trẻ em theo những tiêu chí
riêng. Tuy nhiên một điều rõ ràng là tuổi
chịu TNHS của trẻ em không nằm ngoài
phạm vi tuổi chịu TNHS. Tuổi chịu TNHS
là độ tuổi được luật hình sự quy định nhằm
xác định khi một người phát triển đến độ
tuổi đó mới có thể phải chịu TNHS hoặc
loại trách nhiệm, mức hình phạt về hành vi
phạm tội do mình gây ra. Khi bàn về khái
niệm tuổi chịu TNHS, trong các văn bản
pháp luật, những thuật ngữ liên quan đến
tuổi chịu TNHS được sử dụng khá phổ biến
nhưng không được định nghĩa hoặc không
có sự thống nhất trong cách gọi và cách hiểu.
Trong nhiều tài liệu, tuổi chịu TNHS có thể
được hiểu như tuổi tối thiểu của TNHS. Tuy
nhiên, việc sử dụng thuật ngữ tuổi tối thiểu
của TNHS đôi khi dẫn đến việc cần phải
phân biệt được các giới hạn tuổi khác nhau.
Chẳng hạn, ở những quốc gia tồn tại hai giới
hạn độ tuổi tối thiểu chịu TNHS, độ tuổi tối
thiểu trên và độ tuổi tối thiểu dưới thì tuổi
tối thiểu của TNHS phải được xác định theo
hai mức. Theo đó, người đạt được độ tuổi tối
thiểu dưới nhưng chưa đạt độ tuổi tối thiểu
trên nếu thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội bị coi là tội phạm thì phải chịu TNHS
về một số tội phạm cụ thể hoặc trong một
số trường hợp cụ thể. Người đạt độ tuổi tối
thiểu trên phải chịu TNHS trong mọi trường
hợp.
Tuổi tối thiểu của TNHS là độ tuổi
thấp nhất mà một người có thể phải chịu
TNHS khi họ có hành vi phạm tội. Những
người dưới độ tuổi này được coi là không có
năng lực TNHS và không bị xử lý theo thủ
tục tư pháp hình sự trong bất kỳ hoàn cảnh
nào1. Tuổi tối thiểu của TNHS đầy đủ là độ
tuổi thấp nhất mà người vi phạm pháp luật
hình sự bị xử lý theo hệ thống hình phạt và
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
49Số 17(345) T9/2017
thủ tục tố tụng dành cho người đã trưởng
thành. Những người ở độ tuổi này hoặc lớn
hơn không được xem xét giảm nhẹ hình phạt
hay xét xử theo thủ tục đặc biệt dành cho
những người được coi là chưa trưởng thành2.
Ngoài ra, thuật ngữ tuổi chịu TNHS
hay độ tuổi chịu TNHS, độ tuổi tối thiểu chịu
TNHS đôi khi được sử dụng như những từ
đồng nghĩa. Thậm chí trong một số tài liệu
còn sử dụng thuật ngữ ngưỡng của TNHS3.
Bằng việc xác định độ tuổi tối thiểu
chịu TNHS trong luật hình sự, các nước đã
mặc nhiên thừa nhận độ tuổi chịu TNHS của
trẻ em. Qua đó có thể hiểu, tuổi chịu TNHS
của trẻ em là độ tuổi mà trẻ em được coi
là đủ tuổi để thực hiện hành vi phạm tội và
phải chịu TNHS về hành vi của mình.
Công quốc quốc tế về Quyền trẻ em
yêu cầu mỗi quốc gia thành viên phải quy
định một độ tuổi tối thiểu mà trẻ em dưới
độ tuổi đó được coi là không có khả năng
vi phạm pháp luật hình sự4. Điều này có
nghĩa là mỗi quốc gia phải quy định độ tuổi
tối thiểu chịu TNHS. Điều 4 Quy tắc Bắc
Kinh cũng nhấn mạnh điểm bắt đầu của giới
hạn tuổi chịu TNHS không được quy định
ở mức quá thấp, phải chú ý tới tâm lý và
nhận thức của người chưa thành niên. Nghĩa
là việc xác định tuổi chịu TNHS phải đủ cao
để đảm bảo trẻ em đã nhận thức được tính
chất nguy hiểm trong hành vi phạm tội thì
mới có thể phải chịu TNHS. Nếu quy định
độ tuổi tối thiểu chịu TNHS quá thấp thì ý
nghĩa của việc quy định không còn và không
đảm bảo được quyền của người chưa thành
niên. Cũng theo Công ước quốc tế về Quyền
2 Xem: Phạm Thị Thanh Nga, Thực thi công ước quyền trẻ em ở Việt Nam: Tuổi chịu TNHS và chế tài đối với người
chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 18/2014, tr.14-25
3 Xem A quel âge est-on criminel? https://www.unicef.org/french/pon97/pon056a.htm
4 Xem Điều 40/3/a của Công ước quốc tế về Quyền trẻ em
5 Xem Phạm Văn Lợi (chủ biên), Nghiên cứu, so sánh pháp luật hình sự của một số nước Asean, NXB. Tư pháp, Hà Nội, 2010.
trẻ em, độ tuổi tối thiểu chịu TNHS thấp hơn
12 tuổi sẽ bị coi là không phù hợp với chuẩn
mực pháp lý quốc tế. Độ tuổi tối thiểu được
khuyến nghị trong Công ước là 14 tuổi.
Độ tuổi chịu TNHS của trẻ em được
xây dựng dựa trên sự phát triển về mặt thể
chất và tinh thần của con người; trình độ phát
triển về nhận thức xã hội; điều kiện kinh tế
- xã hội của từng quốc gia trong từng thời
kỳ. Tham khảo độ tuổi tối thiểu của trẻ em
phải chịu TNHS trong pháp luật hình sự của
các nước cho thấy, có sự khác nhau rõ rệt về
cách quy định mức tối thiểu về độ tuổi chịu
TNHS của trẻ em cũng như sự phân chia
nhóm tuổi chịu TNHS. Sự khác biệt trong
pháp luật của các quốc gia cũng phản ánh sự
thiếu đồng thuận trong cộng đồng quốc tế về
độ tuổi chịu TNHS.
2. Quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình
sự của trẻ em trong pháp luật hình sự một
số quốc gia
- Pháp luật hình sự của các nước
Asean:
Pháp luật Malayxia quy định về độ
tuổi chịu TNHS như sau: Theo Điều 82
BLHS, trẻ em chưa đủ 10 tuổi thì không có
năng lực TNHS, đối với trẻ em từ đủ 10 tuổi
đến chưa đủ 12 tuổi thực hiện hành vi bị coi
là tội phạm nhưng người này không đủ khả
năng để đánh giá tính chất và hậu quả của
hành vi mình thực hiện thì người này cũng
được coi là không có năng lực TNHS. Như
vậy, tuổi đủ năng lực TNHS theo pháp luật
hình sự Malayxia là từ đủ 12 tuổi đối với
mọi tội phạm hoặc từ đủ 10 tuổi trở lên đối
với một số tội phạm nhất định5.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
50 Số 17(345) T9/2017
Pháp luật Thái Lan quy định: Người
chưa qua 7 tuổi thì không phải chịu TNHS
(Điều 73). Ngoài ra, người đủ 7 tuổi nhưng
chưa đủ 14 tuổi khi phạm tội thì tòa án không
áp dụng hình phạt mà sẽ áp dụng chế độ giao
người này cho người hoặc tổ chức có trách
nhiệm thực hiện việc giáo dưỡng, chăm sóc
đặc biệt (Điều 74)6.
Pháp luật hình sự Philippines không
trực tiếp quy định về độ tuổi chịu TNHS.
Tuy nhiên, Điều 12 BLHS Philippines
quy định về các trường hợp được miễn trừ
TNHS đối với người thực hiện hành vi gây
thiệt hại cho xã hội như sau: “Người dưới 9
tuổi; người từ đủ 9 tuổi nhưng chưa đủ 15
tuổi trừ khi người này thực hiện hành vi mà
biết rõ về hành vi đó. Trường hợp này, người
này sẽ bị xử lý theo các quy định trong điều
80 của Bộ luật này.
Khi người chưa thành niên này được
tuyên là không phải chịu TNHS, tòa án phải
giao người đó cho gia đình giáo dục và chăm
sóc để gia đình thực hiện việc giám sát và
giáo dục người này. Trường hợp nếu không
thể giao cho gia đình giáo dục và chăm sóc
thì người này sẽ bị thực hiện theo các quy
định tại Điều 80 Bộ luật này”7.
Như vậy, theo quy định của pháp luật
hình sự Philippines, người dưới 9 tuổi được
coi là không có năng lực TNHS, người từ 9
tuổi trở lên đến dưới 15 tuổi phải chịu TNHS
trong một số trường hợp.
Quy định về độ tuổi chịu TNHS của
5 quốc gia Asean trên đây cho thấy, độ tuổi
chịu TNHS của trẻ em trong pháp luật của
6 Xem Phạm Văn Lợi (chủ biên), Nghiên cứu, so sánh pháp luật hình sự của một số nước Asean, Sđd.
7 Xem Phạm Văn Lợi (chủ biên), Nghiên cứu, so sánh pháp luật hình sự của một số nước Asean, Sđd.
8 Xem Phạm Văn Lợi (chủ biên), Nghiên cứu, so sánh pháp luật hình sự của một số nước Asean, Sđd.
9 Xem Luật hình sự sửa đổi của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, nguồn
gal/2015-08/30/c_1116414724.htm
10 Xem Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Bộ luật hình sự Cộng hòa liên bang Đức, bản dịch, NXB Công an nhân dân,
Hà Nội.
các quốc gia này khá thấp. Độ tuổi tối thiểu
phải chịu TNHS của Singapore là từ 7 tuổi
trở lên, của Malayxia là từ 10 tuổi trở lên,
của Philippines là từ 9 tuổi trở lên, của Thái
Lan là từ 7 tuổi trở lên. Pháp luật hình sự
Indonexia mặc dù không quy định rõ độ tuổi
chịu TNHS nhưng có quy định người dưới
15 tuổi mà phạm tội thì cách xử lý sẽ khác
với người từ đủ 15 tuổi trở lên phạm tội8.
- Điều 17 BLHS Trung Quốc quy định
về độ tuổi chịu TNHS như sau: “Người đủ 16
tuổi phạm tội phải chịu TNHS. Người đủ 14
tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS
về tội giết người hoặc cố ý gây thương tích
dẫn đến thương tích nặng hoặc chết người,
hiếp dâm, cướp giật, mua bán chất ma túy,
đốt nhà, đặt bom, đầu độc. Người đủ 14 tuổi
chưa đủ 18 tuổi được hưởng hình phạt giảm
nhẹ hoặc giảm khung hình phạt”. Như vậy,
ở Trung Quốc, tuổi chịu TNHS của trẻ em
đồng thời là độ tuổi tối thiểu chịu TNHS là
từ 14 tuổi. Bên cạnh đó, pháp luật hình sự
cũng quy định đối với người dưới 18 tuổi chỉ
phải chịu TNHS về một số tội phạm, người
từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi tuy phải chịu
TNHS về mọi tội phạm nhưng được hưởng
hình phạt nhẹ hơn hoặc khung hình phạt nhẹ
hơn9.
- BLHS Đức không quy định về độ
tuổi chịu TNHS mà chỉ quy định độ tuổi
không có năng lực TNHS hay còn gọi là
không có năng lực lỗi. Tuy nhiên, theo quy
định của Điều 19 BLHS, “Người không có
năng lực lỗi là người mà khi thực hiện hành
vi chưa đủ 14 tuổi”10. Như vậy, độ tuổi chịu
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
51Số 17(345) T9/2017
TNHS của trẻ em theo BLHS Đức được hiểu
là từ 14 tuổi trở lên đến dưới 18 tuổi.
- BLHS Liên bang Nga quy định về
độ tuổi chịu TNHS như sau: “1. Người đủ
16 tuổi vào thời điểm phạm tội phải chịu
TNHS. 2. Người đủ 14 tuổi vào thời điểm
phạm tội phải chịu TNHS về các tội:”11.
- BLHS Canada quy định tại mục
13 của Phần I - Quy định chung như sau:
“Không người nào bị kết án về một tội liên
quan đến hành động hoặc không hành động
từ phía mình khi người đó chưa đủ 12 tuổi”12.
Với quy định này, độ tuổi chịu TNHS của trẻ
em ở Canada là từ 12 tuổi trở lên.
- BLHS Thụy Sĩ lại phân loại độ tuổi
chịu TNHS của trẻ em, thanh thiếu niên và
người lớn trẻ tuổi theo 3 nhóm tuổi: từ 7 tuổi
đến dưới 15 tuổi, từ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi
và từ 18 tuổi đến dưới 21 tuổi. Trong đó,
ngưỡng 7 tuổi tương ứng với ngưỡng tuổi
nhập học, ngưỡng 15 tuổi là độ tuổi tối thiểu
cần thiết có việc làm, dưới 7 tuổi được coi
không có năng lực TNHS13.
Qua nghiên cứu luật hình sự các nước
trên, có thể rút ra nhận xét sau:
Thứ nhất, hầu hết các nước đều quy
định độ tuổi chịu TNHS của trẻ em; đồng
thời độ tuổi chịu TNHS của trẻ em cũng
chính là độ tuổi tối thiểu phải chịu TNHS.
Thứ hai, các nước đều lựa chọn một
độ tuổi thích hợp để áp dụng tùy thuộc vào
hoàn cảnh, tính chất, vị trí địa lý, đặc điểm,
tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, phong
tục, tập quán, văn hóa mà đưa ra các tiêu
chuẩn khác nhau.
11 Xem Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Bộ luật hình sự Liên bang Nga, bản dịch, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
12 Xem Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Bộ luật hình sự Canada, bản dịch, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
13 La responsabilité pénale des mineurs, nguồn https://www.senat.fr/lc/lc52/lc52_mono.html
14 Vũ Hải Việt, Hà Minh Thảo, Nên quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự sớm hơn, Tạp chí Luật sư Việt Nam, số
11/2015, tr 14
Thứ ba, có sự khác nhau về cách quy
định độ tuổi chịu TNHS của trẻ em cũng như
sự phân chia nhóm tuổi chịu TNHS trong
luật hình sự của mỗi nước. Tuy nhiên, đa số
các nước đều lựa chọn độ tuổi chịu TNHS
của trẻ em trong khuôn khổ mà LHQ cho
phép (không cao hơn 18 tuổi).
Thứ tư, đồng thời với việc quy định
độ tuổi tối thiểu phải chịu TNHS, pháp luật
các nước cũng quy định trẻ em chỉ phải chịu
TNHS về một số tội phạm cụ thể hoặc chịu
mức hình phạt, khung hình phạt giảm nhẹ
hơn so với người thành niên phạm tội.
3. Quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam
năm 2015 về tuổi chịu trách nhiệm hình
sự của trẻ em
Trước khi BLHS năm 2015 chính
thức có hiệu lực pháp luật, có nhiều quan
điểm khác nhau khi đề cập đến độ tuổi chịu
TNHS. Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng,
cần quy định độ tuổi chịu TNHS sớm hơn14.
Quan điểm này cho rằng, việc quy định tuổi
chịu TNHS sớm hơn không vi phạm pháp
luật quốc tế cũng như không làm giảm đi
tính chất nhân đạo của pháp luật hình sự Việt
Nam. Do điều kiện sống của trẻ em ngày
càng tốt hơn, sự phát triển về thể chất, năng
lực nhận thức, năng lực hành vi của trẻ em
vượt bậc hơn so với các thế hệ trước đây.
Trẻ em được tham gia các quan hệ xã hội từ
rất sớm, có cơ hội tiếp cận các dịch vụ công
nghệ nên ngày càng có kinh nghiệm sống,
phán xét, xử lý tình huống nhanh nhạy hơn.
Cũng chính vì vậy các hành vi phạm tội do
trẻ em gây ra ngày càng nghiêm trọng hơn.
Đặc biệt là sự trẻ hóa về độ tuổi phạm tội
của trẻ em trong thời gian qua đã gióng lên
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
52 Số 17(345) T9/2017
hồi chuông báo động, cảnh báo tình trạng trẻ
vị thành niên phạm tội ở nước ta. Do đó, cần
quy định độ tuổi chịu TNHS là từ đủ 12 tuổi.
Quan điểm khác cho rằng, vẫn giữ
nguyên độ tuổi chịu THNS của trẻ em như
quy định hiện nay15. Quy định về độ tuổi
chịu TNHS tại nước ta đã hợp lý và không
nên giảm độ tuổi chịu TNHS. Trẻ em phạm
tội thường là những người có hoàn cảnh khó
khăn, có tuổi thơ phức tạp, giáo dục không
đầy đủ dẫn đến nhận thức lệch lạc. Vì vậy,
thay vì dán nhãn tội phạm cho những đứa
trẻ, gia đình và xã hội trước hết cần phải
giải quyết từ “cái gốc”, tức là từ những
nguyên nhân gây nên những hành vi phạm
tội ở người vị thành niên, để từ đó công tác
phòng chống tội phạm được hiệu quả, đồng
thời góp phần ngăn chặn tình trạng tái phạm
của người phạm tội vị thành niên.
Đồng nhất với quan điểm trên, khi
bàn về tuổi tối thiểu chịu TNHS có quan
điểm đã cho rằng quy định tuổi chịu TNHS
không chỉ đơn thuần căn cứ vào năng lực
nhận thức của con người mà còn phải căn cứ
vào chính sách của Nhà nước trong việc bảo
vệ và giáo dục trẻ em, chính sách hình sự
của Nhà nước. Quy định độ tuổi chịu TNHS
không nên chỉ nhấn mạnh yêu cầu là điều
kiện để chủ thể có năng lực TNHS hay là
biểu hiện của chính sách hình sự mà phải
kết hợp cả hai. Do đó, để đảm bảo tính ổn
định tương đối của luật hình sự, trong điều
kiện các phương tiện đấu tranh phòng chống
người chưa thành niên vi phạm và phạm tội
ngày càng đa dạng chứ không nhất thiết chỉ
bằng phương tiện duy nhất là pháp luật hình
sự, nên giữ nguyên tuổi tối thiểu phải chịu
15 Xem bài viết Bàn về độ tuổi chịu TNHS Việt Nam và trên thế giới, ngày 15/2/12017 trên trang web
org/tin-tuc/luat-su-to-tung-164/ban-ve-do-tuoi-chiu-trach-nhiem-hinh-su-viet-nam-va-tren-the-gioi
16 Xem Phạm Văn Báu, Tuổi chịu TNHS trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 10/2014, tr. 6,7
17 Xem Phạm Thị Thanh Nga, Thực thi Công ước về Quyền trẻ em ở Việt Nam: Tuổi chịu TNHS và chế tài đối với người
chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 18/2014, tr.20
TNHS là 14 tuổi như quy định của luật hình
sự hiện nay16.
Khác với các quan điểm trên, quan
điểm này cho rằng dù không phải chịu
TNHS, nhưng trẻ em từ đủ 12 tuổi đến dưới
14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng thì có thể bị đưa
vào trường giáo dưỡng. Biện pháp này mặc
dù là biện pháp xử lý vi phạm hành chính,
nhưng có nội dung là loại biện pháp cưỡng
chế và có tính chất hạn chế tự do do vi phạm
hình sự. Do đó, nếu mở rộng phạm vi nghiên
cứu thì có thể nói rằng, độ tuổi thấp nhất
mà một người có thể phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật khi họ vi phạm pháp luật
hình sự ở Việt Nam là 12 tuổi17.
Tuổi chịu TNHS là một vấn đề không
thể thiếu trong pháp luật hình sự của mỗi
quốc gia, thể hiện quan điểm của Nhà nước
về cách thức xử lý người phạm tội, vừa đảm
bảo trật tự an toàn cho xã hội nhưng phải
vừa đạt được mục đích bảo vệ quyền con
người, đặc biệt là quyền của người chưa
thành niên, quyền của trẻ em kể cả khi họ
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Từ
quy định về độ tuổi của trẻ em theo Luật Trẻ
em, Điều 12 BLHS năm 2015 đã quy định
về tuổi chịu TNHS của trẻ em như sau:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải
chịu TNHS về mọi tội phạm, trừ những tội
phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng
chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về tội
giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội
hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi,
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
53Số 17(345) T9/2017
tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới
16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất nghiêm
trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy
định tại một trong các điều sau đây: ”
Khoản 3, Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của BLHS số 100/2015/QH1318
cũng giữ nguyên độ tuổi chịu TNHS của trẻ
em và chỉ thay đổi về phạm vi chịu TNHS
của trẻ em:
3. Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều
12 như sau:
“2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm
trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy
định tại một trong các Điều 123, 134, 141,
142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171,
173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266,
286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ
luật này”.
Khoản 2 Điều 12 đã liệt kê cụ thể
những tội danh mà người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 phải chịu TNHS nhằm đảm bảo tính
minh bạch, nhân đạo trong xử lý đối với đối
tượng này theo tinh thần của Hiếp pháp năm
2013 và Công ước của LHQ về Quyền trẻ
em. Theo đó, người từ đủ 14 tuổi trở lên,
nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS
về tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt
nghiêm trọng về 28 tội danh quy định tại
khoản 2 Điều 12. Sửa đổi này phù hợp với
quan điểm nhất quán của Nhà nước ta được
thể hiện trong BLHS năm 1985 và năm 1999
là chỉ xem xét TNHS đối với người từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm
trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng; đồng thời cũng phù hợp với Công ước
của LHQ về Quyền trẻ em mà Việt Nam là
thành viên.
18 Luật số 12/2017/QH14 của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 100/2015/QH13.
Đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên,
BLHS năm 2015 quy định người này phải
chịu TNHS về mọi tội phạm, trừ những tội
phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Như
vậy, theo quy định của BLHS năm 2015, sẽ
có những tội phạm mà người từ đủ 16 tuổi
trở lên không phải chịu TNHS. Cụ thể, các
điều 145, 146, 147 BLHS năm 2015 quy
định cụ thể 3 tội, theo đó, chủ thể phải là
người đủ 18 tuổi chứ không phải đủ 16
tuổi: Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi
quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13
tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145); tội dâm ô
đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146); tội sử
dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu
dâm (Điều 147).
Như vậy, có thể nhận thấy rằng, so với
BLHS năm 1999, độ tuổi chịu TNHS của trẻ
em trong BLHS năm 2015 không nhiều thay
đổi. Tuy nhiên, BLHS năm 2015 đã điều
chỉnh phạm vi chịu TNHS của trẻ em cho
phù hợp với pháp luật quốc tế.
Kết luận
Vấn đề tuổi chịu TNHS của trẻ em nói
riêng và người chưa thành niên nói chung
hiện đang là vấn đề tranh luận rộng rãi trên
thế giới. Giới hạn tối thiểu về độ tuổi chịu
TNHS của trẻ em là một điều cần thiết trong
một phần công lý của sự trừng phạt. Vì trẻ
em không phải là “người lớn thu nhỏ”, nên
trẻ em không thể chịu TNHS về những gì họ
đã gây ra như đối với người thành niên hay
thậm chí là chịu TNHS giảm nhẹ. Quy định
về các biện pháp chịu TNHS đối với trẻ em
phải hướng tới mục đích giáo dục là chủ yếu
và trong một chừng mực nhất định phải luôn
đảm bảo lợi ích tốt nhất của trẻ em
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
54 Số 17(345) T9/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quan_niem_ve_tuoi_chiu_trach_nhiem_hinh_su_cua_tre_em.pdf