Theo đó, các giải pháp nhằm tăng cường
năng lực quản trị cần bắt đầu từ nâng cao
năng lực thể chế, tăng cường giá trị sử dụng
bền vững tài nguyên thiên nhiên trong phát
triển kinh tế và đảm bảo các vấn đề xã hội,
ưu tiên các chính sách nhằm giảm mức độ
tác động ô nhiễm, suy kiệt đối với các nguồn
tài nguyên thiên nhiên; nâng cao khả năng
quản lý rủi ro, tăng cường an ninh các nguồn
tài nguyên thiên nhiên. Quản trị toàn diện
tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam cũng cần
được tiến hành liên tục, trên quy mô lớn,
theo lộ trình hợp lý, tổng thể với hệ thống dữ
liệu, thông tin quốc gia đầy đủ, minh bạch,
làm cơ sở cho việc xây dựng và hoạch định
chính sách quản lý liên quan.
Đặc biệt, cần tập trung và có cơ chế thật
sự mạnh mẽ cho việc đáp ứng các tiêu chí
toàn diện của công tác này thay vì chỉ tập
trung vào các khía cạnh của quyền lực nhà
nước, khía cạnh kinh tế trong việc cho phép
hay không cho phép khai thác tài nguyên
thiên nhiên. Cùng với thể chế, năng lực con
người, khả năng tài chính, sự tham gia của
các tổ chức dân sự là yêu cầu để thực hiện
những chính sách quan trọng. Minh bạch
thông tin, tăng cường năng lực giám sát, tính
chịu trách nhiệm của Nhà nước trong quá
trình quản trị tài nguyên thiên nhiên cần phải
được triển khai một cách cấp bách. Cùng với
đó, phải tạo lập được một cơ chế hữu hiệu
để có thể khơi dậy tinh thần, hiện thực hóa
trách nhiệm của cộng đồng, các tổ chức xã
hội, từng người dân trong trong việc bảo vệ,
tái tạo tài nguyên thiên nhiên. Phát triển bền
vững môi trường, quản trị bền vững tài
nguyên thiên nhiên, suy cho cùng sẽ chỉ trở
thành hiện thực khi cả Nhà nước và người
dân thấy được rõ ràng cái được và cái mất
của chính mình ở trong đó
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 221 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quản trị bền vững tài nguyên thiên nhiên - Nền tảng của quản trị nhà nước hiện đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3Số 5(405) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
QUẢN TRỊ BỀN VỮNG TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
- NỀN TẢNG CỦA QUẢN TRỊ NHÀ NƯỚC HIỆN ĐẠI
Phạm Thị Duyên Thảo*
Phan Thị Lan Phương**
*,** TS. Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Quản trị bền vững, tài nguyên
thiên nhiên, chỉ số quản trị, quản trị nhà
nước hiện đại.
Lịch sử bài viết:
Ngày nhận bài : 11/01/2020
Biên tập : 02/02/2020
Duyệt bài : 06/02/2020
Article Infomation:
Keywords: Sustainable management;
natural resources; governance indicators;
modern state governance
Article History:
Received : 11 Jan. 2020
Edited : 02 Feb. 2020
Approved : 06 Feb. 2020
Tóm tắt:
Bài viết trình bày về quản trị bền vững tài nguyên thiên nhiên,
trong đó tập trung làm rõ các vấn đề: Quản trị tài nguyên
thiên nhiên trong tương quan với quản trị nhà nước hiện đại;
các nguyên tắc quản trị bền vững tài nguyên thiên nhiên; các
chỉ số quản trị tài nguyên thiên nhiên; quản trị bền vững tài
nguyên thiên nhiên ở Việt Nam.
Abstract:
This article provides discussion on sustainable management
of the natural resources, which is focused on the clarifications
of the issues: Natural resource management in relation to
modern state governance; principles of sustainable management
of natural resources; governance indicators of natural
resources; and sustainable management of natural resources
in Vietnam.
Quản trị bền vững tài nguyên thiênnhiên là yêu cầu tất yếu, cũng làthước đo cho năng lực quản trị quốc
gia. “Môi trường, tài nguyên thiên nhiên bền
vững chỉ có thể đạt được trong bối cảnh công
bằng, hiệu quả và minh bạch quản trị quốc
gia phù hợp với quy định của pháp luật”1.
Quản trị bền vững tài nguyên thiên
nhiên là một tiến trình bao gồm việc xác lập
mục tiêu, hoạch định chính sách, xác định
tính chất, mức độ, hiệu quả, tổ chức thực
hiện, kiểm tra việc khai thác, bảo vệ và tái
tạo các tài nguyên như đất, nước, khoáng
sản, động vật, thực vật, để quá trình đó
1 UN. Environmental Law Commission of the International Union for the Conservation of Nature (2013),
Compliance and Enforcement (INECE), Washington DC: United Nations Publications, p.2.
Số 5(405) - T3/20204 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
không chỉ đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện
tại mà còn không gây ảnh hưởng đến thế hệ
tương lai trong việc thỏa mãn nhu cầu của
chính họ.
Quản trị bền vững tài nguyên thiên
nhiên cũng đề cập đến quy trình xác định
quyền lực, trách nhiệm về tài nguyên, cách
thức ra quyết định và cơ chế để các nhóm
dân cư, thành phần xã hội tham gia và hưởng
lợi từ quá trình quản trị tài nguyên thiên
nhiên.
Quản trị bền vững tài nguyên thiên
nhiên có mối quan hệ mật thiết với quản lý
tài nguyên thiên nhiên. Quản lý mang chức
năng chấp hành, thực hiện, thúc đẩy và kiểm
soát các quyết định, kế hoạch, chính sách
được hoạch định trong quá trình quản trị.
Quản lý là việc thông qua các phương hướng
chiến lược cụ thể, các biện pháp quy hoạch,
các chế tài phù hợp nhằm khai thác, sử dụng
và tái tạo tài nguyên thiên nhiên một cách
hợp lý, đúng đắn, hạn chế tối đa mức độ ô
nhiễm tới môi trường để mang lại sự phát
triển bền vững cho quốc gia. Cả hai hoạt
động này đều cần đến vai trò, trách nhiệm
chủ đạo của Nhà nước.
1. Quản trị tài nguyên thiên nhiên trong
tương quan với quản trị nhà nước hiện
đại
Quản trị bền vững tài nguyên thiên
nhiên là nền tảng của quản trị nhà nước hiện
đại. Bởi thông qua đó, nhà nước thể hiện
được sự minh bạch và yêu cầu trách nhiệm
đến tất cả các bên liên quan; xây dựng niềm
tin, sự chủ động trong khuôn khổ pháp lý,
đưa sự tham gia đóng góp của các bên liên
quan một cách bài bản, phù hợp mục tiêu
phát triển; góp phần cải thiện hình ảnh và
tăng uy tín quốc gia, thương hiệu một cách
bền vững; nhằm đạt được sự công nhận từ
quốc tế, khu vực và đồng thời nắm bắt, kiểm
soát được hiệu suất vận hành của các chủ thể
có hoạt động liên quan đến tài nguyên thiên
nhiên. Quản trị bền vững tài nguyên thiên
nhiên cần thiết cho một thế giới công bằng,
hài hòa hóa.
2. Nguyên tắc quản trị bền vững tài
nguyên thiên nhiên
Ở cấp độ quốc tế, chưa thực sự có những
nguyên tắc chuyên biệt cho quản trị bền
vững tài nguyên thiên nhiên, mà được đề cập
lồng ghép trong các văn kiện liên quan đến
phát triển bền vững. Một trong số đó có thể
kể đến Tuyên bố Rio về môi trường và phát
triển, Chương trình nghị sự 21 của Hội nghị
Liên Hợp quốc về môi trường và phát triển
tổ chức tại Rio de Janneiro năm 1992. Đã có
27 nguyên tắc chung và các yêu cầu mang
tính định hướng liên quan đến bảo tồn và
quản lý các nguồn tài nguyên được đề cập
trong các văn kiện đó như: ra quyết định về
sự phát triển bền vững, bảo vệ khí quyển,
quản lý lâu bền đất, bảo vệ rừng, đấu tranh
đối với sa mạc hóa và hạn hán, bảo vệ và
quản lý đại dương, nước ngọt, phát triển bền
vững nông nghiệp, nông thôn, bảo vệ sự đa
dạng sinh học, sử dụng an toàn các hóa chất
độc và quản lý các chất thải nguy hại... Với
mỗi loại tài nguyên thiên nhiên, Chương
trình Nghị sự 21 đều có những hướng dẫn,
yêu cầu cụ thể cho Chính phủ các nước. Tựu
trung lại, có thể tóm lược thành các nguyên
tắc liên quan đến quản trị bền vững tài
nguyên thiên nhiên như sau:
- Nguyên tắc chủ quyền quốc gia trong
khai thác và kiểm soát, quản trị tài nguyên
thiên nhiên không gây tác hại đến môi
trường ngoài phạm vi quyền hạn quốc gia;
- Nguyên tắc quản trị môi trường là bộ
phận cấu thành, không thể tách rời của quá
trình quản trị phát triển bền vững;
- Nguyên tắc tạo cơ chế tham gia của
dân chúng, cộng đồng địa phương trong
quản trị tài nguyên thiên nhiên;
- Nguyên tắc trách nhiệm của quốc gia
trong hợp tác, cung cấp, minh bạch thông
tin, ban hành luật pháp, hoạch định chính
sách, xây dựng công cụ đánh giá, giám sát
liên quan đến khai thác, sử dụng, bảo vệ, tái
tạo tài nguyên thiên nhiên;
- Nguyên tắc phân quyền, ủy quyền,
minh bạch và trách nhiệm giải trình trong
quản trị bền vững tài nguyên thiên nhiên;
- Nguyên tắc chính phủ phải chịu trách
nhiệm, chủ động hoạch định, đẩy mạnh các
biện pháp chuyên biệt, tương thích với việc
khai thác, sử dụng, bảo tồn từng loại tài
nguyên thiên nhiên theo hướng bền vững;
- Nguyên tắc xây dựng và thực hiện hữu
hiệu cơ chế người gây ô nhiễm, người sử
dụng phải trả tiền...
Có thể thấy, Chương trình nghị sự 21
xác nhận rằng, phát triển bền vững nói
chung, quản trị bền vững tài nguyên thiên
nhiên nói riêng trước hết là trách nhiệm của
các chính phủ. Các chính phủ phải có chiến
lược, chính sách, kế hoạch mang tính quốc
gia trên cơ sở hợp tác quốc tế và sự tham gia
rộng rãi của dân chúng.
Các nguyên tắc quản trị bền vững tài
nguyên còn được đề cập trong Hiến chương
Trái đất, một tuyên ngôn dựa trên những
nguyên tắc cơ bản để xây dựng một xã hội
toàn cầu bền vững và hòa bình của thế kỷ
XXI. Nội dung chính của Hiến chương là
quan tâm tới sự chuyển đổi sang những
phương thức sống, sự phát triển nhân loại
bền vững và sự toàn vẹn của hệ sinh thái.
Hiến chương trái đất tập trung đề cập
đến các nguyên tắc đảm bảo hệ sinh thái toàn
diện, các nguyên tắc của Hiến chương nhấn
mạnh nhiều hơn đến tính chất, nội dung
mang tính chuyên môn của các quyết định
quản trị môi trường, tài nguyên thiên nhiên:
- Bảo vệ và phục hồi sự toàn vẹn của các
hệ sinh thái Trái đất, với sự lưu tâm đặc biệt
đến đa dạng sinh học và các quá trình tự
nhiên đảm bảo duy trì sự sống;
- Hạn chế các tổn hại là cách tốt nhất để
bảo vệ môi trường, và khi kiến thức bị hạn
chế, hãy sử dụng phương pháp tiếp cận cảnh
giác;
- Áp dụng các tiến trình sản xuất, tiêu
dùng, và tái sản xuất để bảo vệ năng lực tái
sinh của Trái đất và sự tồn tại của cộng đồng;
- Tăng cường nghiên cứu sự bền vững
sinh thái và khuyến khích việc trao đổi cởi
mở và áp dụng rộng rãi kiến thức đã thu
nhận được.
Một văn kiện mang tính nền tảng quan
trọng cho thiết lập các định hướng trong
quản trị bền vững tài nguyên thiên nhiên
cũng phải kể đến là Hiến chương Tài nguyên
thiên nhiên. Đây là văn kiện do một nhóm
độc lập gồm các chuyên gia nghiên cứu về
khai thác tài nguyên bền vững, đứng đầu là
Paul Collier, Giám đốc Trung tâm Nghiên
cứu Kinh tế châu Phi của Trường Đại học
Oxford được khởi thảo, hiện được quản lý
bởi một hội đồng giám sát, đứng đầu là
Ernesto Zedillo, cựu tổng thống Mexico.
Hiến chương tài nguyên thiên nhiên đưa ra
một bộ 12 nguyên tắc cho các chính phủ về
làm thế nào để khai thác tốt nhất các cơ hội
tạo ra bởi các nguồn tài nguyên thiên nhiên
để phát triển. Đây cũng chính là cách thức
mà các quốc gia thành công đã sử dụng.
Hiến chương vẫn được hoàn thiện từng năm.
Hiến chương Tài nguyên thiên nhiên
cung cấp hướng dẫn cụ thể cho chính phủ
các quốc gia trong quá trình tự chủ và chịu
trách nhiệm trong việc sử dụng tài nguyên
thiên nhiên của quốc gia mình cho sự phát
triển kinh tế và đảm bảo lợi ích cho tất cả
người dân. Các nguyên tắc gồm:
- Khai thác và sử dụng tài nguyên thiên
nhiên cần được lập kế hoạch để đảm bảo lợi
ích tối đa cho công dân của mỗi quốc gia sở
hữu tài nguyên;
5Số 5(405) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
- Tài nguyên được khai thác là tài sản
chung của mỗi quốc gia và các quyết định
khai thác cần được công khai, minh bạch
đồng thời chịu sự giám sát của cộng đồng;
- Cạnh tranh là một cơ chế quan trọng
để đảm bảo giá trị và tính toàn vẹn của tài
nguyên thiên nhiên;
- Cơ chế tài chính đối với tài nguyên
thiên nhiên cần phải đủ mạnh và phù hợp
ngay cả khi hoàn cảnh thay đổi đồng thời
phải đảm bảo cho quốc gia sở hữu tài
nguyên có được đầy đủ giá trị lợi ích trong
tình hình mới;
- Các doanh nghiệp nhà nước trong khai
thác tài nguyên cũng cần phải có những hoạt
động cạnh tranh thương mại, cần tránh thực
hiện đơn thuần các chức năng điều tiết hoặc
các hoạt động tương tự khác;
- Các dự án khai thác tài nguyên có thể
sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường
và xã hội. Các tác động này cần được giải
quyết và giảm nhẹ ở tất cả các giai đoạn
trong chu kỳ dự án;
- Nguồn thu từ tài nguyên phải được sử
dụng phần lớn để thúc đẩy sự tăng trưởng
kinh tế bền vững thông qua sự cho phép và
duy trì đầu tư trong nước ở mức độ cao;
- Sử dụng hiệu quả nguồn thu từ tài
nguyên thiên nhiên cho chi tiêu nội địa phải
được tính toán rất cẩn thận, chú ý đến cả các
yếu tố bất ổn của nguồn thu;
- Sự giàu có về tài nguyên của một quốc
gia nên được Chính phủ nước đó coi trọng
như một cơ hội để đảm bảo và tăng cường
hiệu quả chi tiêu công;
- Chính sách của chính phủ nên tạo điều
kiện thu hút đầu tư từ khu vực tư nhân nhằm
đáp ứng các cơ hội mới cũng như sự thay đổi
trong cấu trúc kinh tế liên quan đến tài
nguyên thiên nhiên;
- Chính phủ nên yêu cầu các công ty
khai thác và các nguồn tín dụng quốc tế thực
hiện những mô hình hiệu quả nhất;
- Tất cả các công ty khai thác nên thực
hiện theo một mô hình hiệu quả nhất định
trong các khâu ký kết hợp đồng, vận hành và
chi trả.
Trong Hiến chương tài nguyên thiên
nhiên, mỗi nguyên tắc đều được trình bày
theo ba phần: nội dung sơ lược; giải thích
đầy đủ về những vấn đề mà các chính phủ sẽ
phải đối mặt và các giải pháp khuyến nghị;
và những thảo luận mang tính kỹ thuật liên
quan đến vấn đề đó.
Quản trị tài nguyên thiên nhiên diễn ra
trong các bối cảnh đa dạng, nhất là khi các
quốc gia đều chịu ảnh hưởng ít nhiều của
những truyền thống khai thác, sử dụng tài
nguyên thiên nhiên thiếu bền vững. Do đó,
quản trị bền vững tài nguyên thiên nhiên đặt
ra những nguyên tắc mới đối với quá trình
quản trị. Những nguyên tắc trên đây được
tiếp cận ở nhiều khía cạnh, theo những cách
thức khác nhau, tuy vậy chúng đều mang ý
nghĩa là nền tảng chỉ đạo việc thiết kế các
thể chế quản trị minh bạch, có trách nhiệm,
công bằng, thể hiện sự tích hợp, khả năng
thích ứng về chức năng, cấu trúc, tạo nền
tảng cho việc xây dựng các công cụ giám sát
và đánh giá quản trị.
3. Các khía cạnh quản trị bền vững tài
nguyên thiên nhiên
Giống như phát triển bền vững, quản trị
bền vững tài nguyên thiên nhiên không phải
là một vấn đề kỹ thuật, cũng không phải là
mục tiêu mà là một “tiêu chuẩn đối với quan
điểm hành động”. Mỗi quốc gia triển khai
hoạt động quản trị tài nguyên thiên nhiên
không hoàn toàn giống nhau. Tuy vậy, trong
thực tế, cũng có những mô hình, khung khổ
quản trị tài nguyên thiên nhiên có mức độ
ảnh hưởng và được tiến hành ở phạm vi
rộng.
Ở một số nước châu Âu, quá trình quản
trị bền vững tài nguyên thiên nhiên được
Số 5(405) - T3/20206 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
triển khai theo các khía cạnh hoạt động cơ
bản như:
Xây dựng thể chế và chiến lược bảo tồn
tài nguyên thiên nhiên
Các chính phủ, đối tác khác nhau sử
dụng công cụ để lập kế hoạch, đánh giá và
giám sát các khu vực tài nguyên được bảo
vệ. Những kiến thức chuyên môn, kinh
nghiệm, các khuyến nghị pháp lý, kỹ thuật
cùng quá trình đối thoại và phối hợp về các
chủ đề tài nguyên thiên nhiên, môi trường
được xây dựng và chỉ định, tạo nền tảng cho
việc triển khai các hoạt động cùng quá trình
quản trị.
Đánh giá tài nguyên thiên nhiên và dịch
vụ môi trường
Đánh giá tài nguyên thiên nhiên được
tiến hành ở các giai đoạn, trong mối tương
quan mật thiết với xây dựng và thực thi các
thể chế và chiến lược bảo tồn tài nguyên
thiên nhiên để tìm ra cách thức phù hợp
trong quản trị.
Quản trị địa phương về bảo tồn thiên
nhiên và các hành lang sinh thái
Hoạt động này nhằm xác định trách
nhiệm, sự phối hợp cũng như nâng cao năng
lực của xã hội dân sự và chính quyền địa
phương trong bảo tồn, quản lý tài nguyên
thiên nhiên.
Xác lập khuôn khổ quốc gia về giảm
phát thải do mất và suy thoái rừng cùng các
chiến lược thích ứng
Rừng là tài nguyên thiên nhiên có liên
hệ mật thiết với nhiều loại tài nguyên thiên
nhiên khác. Do vậy, xác lập khuôn khổ quốc
gia về giảm phát thải do mất và suy thái rừng
là một khía cạnh hoạt động mang tính nền
tảng, nhằm cung cấp, tư vấn cho các cơ quan
chính phủ và các tổ chức phi, liên chính phủ
việc phát triển khuôn khổ thống nhất, thể chế
và pháp lý về vấn đề này.
Ở một phạm vi rộng hơn, nhiều nước
trên thế giới đã tiếp cận quản trị bền vững tài
nguyên thiên nhiên theo Khung quản trị tài
nguyên thiên nhiên. Khung quản trị tài
nguyên thiên nhiên (NRGF) là một sáng kiến
của Hiệp hội Bảo tồn thiên nhiên thế giới
(IUCN) nhằm mục đích cung cấp một cách
tiếp cận mạnh mẽ và đáng tin cậy về các khía
cạnh để đánh giá và tăng cường quản trị tài
nguyên thiên nhiên ở nhiều cấp độ và trong
các bối cảnh khác nhau. Mục tiêu bao quát
của NRGF là: xây dựng các tiêu chuẩn và
hướng dẫn cho các nhà ra quyết định ở tất cả
các cấp để đưa ra các quyết định tốt hơn và
đúng hơn về việc sử dụng các nguồn tài
nguyên thiên nhiên và phân bổ các lợi ích tự
nhiên, theo các nguyên tắc quản trị tốt.
Khung quản trị tài nguyên nhiên hiện đề
cập đến các khía cạnh cơ bản sau:
Xây dựng các tiêu chuẩn, phương pháp,
công cụ để đánh giá và thúc đẩy việc cải tiến
quản trị tài nguyên thiên nhiên
Ở khía cạnh này, hệ thống các nguyên
tắc, khái niệm, phạm trù, các tiêu chuẩn, tiêu
chí đánh giá và khuôn khổ của quản trị tài
nguyên thiên nhiên được được đưa ra và làm
sáng tỏ, nhằm minh họa các thành tố chính
cấu thành Khung quản trị tài nguyên thiên
nhiên. Các hướng dẫn vận dụng Khung cũng
được xác lập để cung cấp phương thức tiến
hành đánh giá các khía cạnh liên quan đến
quản trị tài nguyên thiên nhiên.
Xây dựng một bộ kiến thức về quản trị
tài nguyên thiên nhiên
Ở cấp độ chung, khía cạnh này tập trung
vào hoạt động xác định và đánh giá những
vấn đề quản lý tài nguyên thiên nhiên trong
khu vực, các yếu tố quan trọng cản trở quản
trị hiệu quả, trao đổi kinh nghiệm và bài học,
xác định các chủ thể chính và các sáng kiến
tập trung vào quản lý tài nguyên thiên nhiên.
Ở cấp độ quốc gia, khía cạnh này yêu
cầu sự chủ động của quốc gia trong quá trình
7Số 5(405) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
xây dựng bộ kiến thức về quản trị tài nguyên
thiên nhiên của quốc gia mình trên cơ sở các
nguyên tắc quản trị chung, thực trạng tài
nguyên và năng lực quản trị.
Cải thiện hiệu quả quản trị tài nguyên
thiên nhiên theo hướng phục vụ, tăng cường
liên kết, chia sẻ kinh nghiệm và huy động sự
phối hợp hành động
Các bên liên quan mang tính chủ chốt
cần được tạo lập một cơ chế pháp lý công
bằng để có thể phối hợp hành động trong
quản trị tài nguyên thiên nhiên. Quản trị tài
nguyên thiên nhiên cũng cần được tiếp cận
trên nền tảng phục vụ con người một cách
bền vững ở tất cả các khâu khai thác, sản
xuất, tiêu dùng.
Thúc đẩy và hỗ trợ cải tiến hành động
quản trị tài nguyên thiên nhiên trong các
chương trình và dự án của IUCN
NRGF hỗ trợ phát triển và áp dụng các
công cụ và cách tiếp cận để đảm bảo tính
nhất quán cao hơn trong việc giải quyết các
thách thức về quản trị trong tất cả các dự án
của IUCN. Công việc này được xây dựng
dựa trên các tiêu chuẩn, công cụ, nguồn kiến
thức, và các nền tảng tương tác được phát
triển thông qua ba chiến lược trên, và cũng
sẽ bao gồm các hoạt động tiếp cận và đào tạo
chuyên sâu. Ở một cấp độ khác, và dựa trên
các kết quả của các hoạt động điều tra, đánh
giá và đánh giá khu vực, NRGF đang xác
định một loạt các cơ hội cho các dự án có tác
động cao đến việc cải thiện quản lý tài
nguyên thiên nhiên2.
4. Chỉ số quản trị tài nguyên thiên nhiên
Chỉ số quản trị tài nguyên thiên nhiên là
“con số biểu hiện sự biến động”, là những
tiêu chí dùng để xác định, đo lường, đánh giá
mức độ, xếp hạng hiệu quả của một quốc gia
hay một chủ thể nào đó trong quá trình quản
trị nguồn lực này. Các chỉ số cụ thể về quản
trị tài nguyên thiên nhiên mang tính chất mở,
chúng được nghiên cứu, bổ sung và phát
hành theo từng giai đoạn, dựa theo những
cách tiếp cận và tài liệu phân tích không
hoàn toàn giống nhau.
Giai đoạn hiện nay, các chỉ số cơ bản
hay được sử dụng trong các Báo cáo đánh
giá năng lực quản trị tài nguyên thiên nhiên
của quốc gia tập trung vào 4 tiêu chí, đó là:
hệ thống pháp luật; mức độ minh bạch thông
tin; năng lực kiểm tra, giám sát và môi
trường tổng thể.
Hệ thống pháp luật
Đây là chỉ số mang tính nền tảng; nó xác
lập căn cứ pháp lý cho hoạt động quản trị.
Hệ thống pháp luật được xem xét một cách
toàn diện, cả ở góc độ nội dung lẫn cơ chế
thực thi, điều chỉnh những vấn đề liên quan
đến quản trị tài nguyên thiên nhiên.
Mức độ minh bạch thông tin
Mức độ minh bạch thông tin nhằm bảo
đảm bản chất dân chủ của xã hội, là giải
pháp quan trọng khắc phục tham nhũng, thể
hiện quyền, cơ chế tiếp thu trí tuệ của người
dân trong việc tham gia quản trị nhà nước về
tài nguyên thiên nhiên.
Năng lực kiểm tra, giám sát
Chỉ số này được tính toán dựa trên cách
thức, hiệu quả của Nhà nước cũng như thực
tiễn cơ chế thực hiện quyền giám sát của
người dân trong quá trình quản trị khai thác,
sử dụng, tái tạo và bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên của Nhà nước.
Số 5(405) - T3/20208 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
2 https://www.iucn.org/commissions/commission-environmental-economic-and-social-policy/our-
work/knowledge-baskets/natural-resource-governance.
Môi trường tổng thể
Môi trường tổng thể là chỉ số mang tính
tổng quát, được đo đếm dựa trên tương quan
giữa chất lượng tài nguyên thiên nhiên có
được từ quá trình quản trị với các chỉ số khác
về môi trường. Chỉ số này cũng chính là kết
quả thực tế của các chỉ số nêu trên khi Nhà
nước thực hiện chức năng quản trị.
Trong quá trình quản trị tài nguyên thiên
nhiên, cũng đã có những bộ chỉ số về quản
lý tài nguyên thiên nhiên được nghiên cứu,
công bố. Điển hình có thể kể đến bộ chỉ số
quản lý tài nguyên thiên nhiên do Trung tâm
mạng Thông tin khoa học Quốc tế (CIESIN)
thuộc Đại học Columbia tổ chức nghiên cứu.
Bộ chỉ số này được đưa ra năm 2006 với 4
chỉ số được CIESIN tính toán dựa trên số
liệu từ các nguồn quốc tế, đó là:
Chỉ số về bảo vệ khu vực sinh thái
Chỉ số này được CIESIN xây dựng, với
nội dung đánh giá xem một quốc gia có bảo
vệ ít nhất 10% tổng số các sinh cảnh của nó
(ví dụ như sa mạc, rừng, đồng cỏ, thủy sinh
và lãnh nguyên). Chỉ số về bảo vệ khu vực
sinh thái được thiết kế để nắm bắt được tính
toàn diện của một cam kết của chính phủ
đối với bảo tồn môi trường sống và bảo vệ
đa dạng sinh học. Cơ sở của chỉ số này do
Quỹ Động vật hoang dã thế giới và Trung
tâm Giám sát thế giới của Chương trình
Môi trường Liên hợp quốc cung cấp dữ liệu
cơ bản.
Chỉ số về tiếp cận với vệ sinh cải tiến
Chỉ số này đo tỷ lệ phần trăm dân số
được tiếp cận với các cơ sở phân tách chất
thải của con người với động vật và côn trùng
tiếp xúc, được tính toán từ dữ liệu của Tổ
chức Y tế Thế giới và Quỹ Nhi đồng Liên
hợp quốc.
Chỉ số về tiếp cận với nước cải tiến
Chỉ số này đo tỷ lệ phần trăm dân số tiếp
cận ít nhất 20 lít nước mỗi người mỗi ngày
từ nguồn “cải thiện” (các kết nối hộ gia đình,
các ống tiêu chuẩn công cộng, lỗ khoan,
giếng đào được bảo vệ, suối được bảo vệ và
bộ sưu tập nước mưa) trong phạm vi 1 km
từ nơi ở của người dùng. Dữ liệu cho chỉ số
được tính toán từ dữ liệu của Tổ chức Y tế
Thế giới và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc.
Chỉ số về tỷ lệ tử vong ở trẻ em (1-4 tuổi)
Chỉ số này được tính bằng số liệu của
phòng Dân số thuộc Vụ Kinh tế và Xã hội
Liên hợp quốc, bản phát hành NRMI năm
2006-2008 đã sử dụng số người chết trên
1000 trẻ em từ 1 đến 4 tuổi (mx 1-4)). Năm
2009, nhờ sự chỉ đạo của Phòng Dân số, chỉ
số này đã được thay đổi để xác định khả
năng tử vong từ 1 đến 5 tuổi (4q1), có liên
quan mật thiết với mx (1-4). Vì các nguyên
nhân gây tử vong ở trẻ 1-4 tuổi bị ảnh hưởng
mạnh mẽ bởi các nguyên nhân môi trường,
nên chỉ số này được coi là một chỉ dẫn hữu
ích cho các điều kiện môi trường cơ bản3.
Chỉ số quản lý tài nguyên thiên nhiên có
vai trò quan trọng trong lựa chọn mô hình,
cũng như đánh giá mức độ hoạt động của
Nhà nước trong việc triển khai các chính
sách, kế hoạch, mục tiêu của Nhà nước về
quản trị tài nguyên thiên nhiên.
5. Quản trị bền vững tài nguyên thiên
nhiên ở Việt Nam
“Thực trạng phát triển ở nước ta cho đến
nay về thực chất vẫn còn là mang tính chất
“nâu”, nghĩa là sự phát triển mà trong đó
tăng trưởng, phát triển kinh tế dựa nhiều vào
9Số 5(405) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
3
khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và
môi trường vượt quá ngưỡng tự phục hồi của
tự nhiên, ngưỡng tiếp nhận chất thải của môi
trường, gây tổn hại, ô nhiễm, suy thoái môi
trường. Bên cạnh những thuận lợi, cơ hội thì
sự chuyển (tuy là dần) sang xanh và bền
vững đang đứng trước nhiều vấn đề, thách
thức... Sự tăng trưởng kinh tế nước ta thời
gian qua đã và đang được đánh giá là ấn
tượng, chắc chắn chưa thể coi là hướng vào
bền vững khi tính đủ những hao hụt, tổn thất
về tài nguyên môi trường. Đã có ý kiến rằng,
mức tăng trưởng ấy có được là do “chuyển
lỗ vào tài nguyên và môi trường”4.
Nhiều ý kiến cho rằng, năng lực quản trị
tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam, nhất là
quản trị tài nguyên khoáng sản còn nhiều bất
cập. Tại Hội nghị toàn cầu về “sáng kiến
minh bạch hóa ngành công nghiệp khai
khoáng” lần thứ 6 tại Sydney (Australia),
trong Báo cáo đánh giá chỉ số quản trị tài
nguyên, Việt Nam có chỉ số thấp nhất, xếp ở
vị trí thứ 43, đứng cuối cùng trong nhóm 3 -
nhóm các quốc gia yếu kém về năng lực
quản trị. Các tiêu chí được đưa ra trong đánh
giá gồm: chất lượng và hiệu quả của hệ
thống pháp luật; mức độ minh bạch thông
tin; năng lực kiểm tra, giám sát và môi
trường tổng thể.
Quản trị tài nguyên ở Việt Nam đang có
những hạn chế nhất định, trong đó có sự suy
giảm của hoạt động giám sát, điều phối và
thực thi chính sách. Một trong những nguyên
nhân là sự thiếu vắng năng lực đo lường các
yếu tố cần giám sát; sự phối hợp thiếu hiệu
quả, trách nhiệm giữa các cấp ngành, địa
phương có liên quan.
Theo đó, các giải pháp nhằm tăng cường
năng lực quản trị cần bắt đầu từ nâng cao
năng lực thể chế, tăng cường giá trị sử dụng
bền vững tài nguyên thiên nhiên trong phát
triển kinh tế và đảm bảo các vấn đề xã hội,
ưu tiên các chính sách nhằm giảm mức độ
tác động ô nhiễm, suy kiệt đối với các nguồn
tài nguyên thiên nhiên; nâng cao khả năng
quản lý rủi ro, tăng cường an ninh các nguồn
tài nguyên thiên nhiên... Quản trị toàn diện
tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam cũng cần
được tiến hành liên tục, trên quy mô lớn,
theo lộ trình hợp lý, tổng thể với hệ thống dữ
liệu, thông tin quốc gia đầy đủ, minh bạch,
làm cơ sở cho việc xây dựng và hoạch định
chính sách quản lý liên quan.
Đặc biệt, cần tập trung và có cơ chế thật
sự mạnh mẽ cho việc đáp ứng các tiêu chí
toàn diện của công tác này thay vì chỉ tập
trung vào các khía cạnh của quyền lực nhà
nước, khía cạnh kinh tế trong việc cho phép
hay không cho phép khai thác tài nguyên
thiên nhiên. Cùng với thể chế, năng lực con
người, khả năng tài chính, sự tham gia của
các tổ chức dân sự là yêu cầu để thực hiện
những chính sách quan trọng. Minh bạch
thông tin, tăng cường năng lực giám sát, tính
chịu trách nhiệm của Nhà nước trong quá
trình quản trị tài nguyên thiên nhiên cần phải
được triển khai một cách cấp bách. Cùng với
đó, phải tạo lập được một cơ chế hữu hiệu
để có thể khơi dậy tinh thần, hiện thực hóa
trách nhiệm của cộng đồng, các tổ chức xã
hội, từng người dân trong trong việc bảo vệ,
tái tạo tài nguyên thiên nhiên. Phát triển bền
vững môi trường, quản trị bền vững tài
nguyên thiên nhiên, suy cho cùng sẽ chỉ trở
thành hiện thực khi cả Nhà nước và người
dân thấy được rõ ràng cái được và cái mất
của chính mình ở trong đó n
Số 5(405) - T3/202010 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
4 PGS. TS. Nguyễn Danh Sơn, Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam, Chuyên đề Tăng trưởng
xanh - Tạp chí Môi trường, 2014.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quan_tri_ben_vung_tai_nguyen_thien_nhien_nen_tang_cua_quan_t.pdf