Trung thành thương hiệu
Aaker (1991) cho rằng lòng trung thành
thương hiệu như một sự gắn kết thêm mà người
tiêu dùng có đối với một thương hiệu [12].
Keller (2003) xác định lòng trung thành là “sự
cộng hưởng với thương hiệu”, tức là mức độ mà
khách hàng cảm thấy họ đồng bộ với thương
hiệu [14]. Khách hàng có mức độ trung thành
với thương hiệu cao sẽ tích cực tìm kiếm những
cách thức để tương tác với thương hiệu và chia
sẻ kinh nghiệm với những người khác.
Theo Aaker (1991), có hai cách tiếp cận
lòng trung thành của khách hàng đối với một
thương hiệu: dựa vào thái độ của người tiêu
dùng và dựa vào hành vi của người tiêu dùng
[12]. Cách tiếp cận thứ nhất nhấn mạnh ý định,
thái độ của người tiêu dùng trong việc tiêu dùng
sản phẩm. Rossiter và Percy (1987) cho rằng
lòng trung thành thương hiệu được thể hiện qua
thái độ thiện cảm của người tiêu dùng đối với
thương hiệu, họ sẽ sử dụng thương hiệu đó qua
thời gian [32]. Yoo và cộng sự (2000) cũng cho
rằng lòng trung thành thương hiệu thể hiện
khuynh hướng trung thành của khách hàng đối
với thương hiệu [13]. Còn cách tiếp cận thứ hai
xem xét lòng trung thành thương hiệu dựa vào
hành vi, thông qua hành động mua lặp lại, sử
dụng thương hiệu của một sản phẩm một cách
thường xuyên [33, 34]. Oliver (1997) cho rằng
lòng trung thành thương hiệu như một lời cam
kết của người tiêu dùng mua hoặc sử dụng
thương hiệu sản phẩm trong tương lai, mặc dù
ảnh hưởng bởi những tình huống và tác động
của thị trường có thể làm thay đổi hành vi bất
thường của họ [35]. Cốt lõi của tài sản thương
hiệu là lòng trung thành của khách hàng. Lòng
trung thành thương hiệu chính là thước đo sự gắn
bó của khách hàng. Mức độ trung thành càng cao
có nghĩa là số lượng khách hàng gắn bó của
thương hiệu doanh nghiệp càng nhiều và như vậy
tức là doanh nghiệp sẽ tăng được doanh số và tiết
kiệm được chi phí marketing [36].
Trong lĩnh vực giáo dục đại học, lòng trung
thành thương hiệu thể hiện qua mối quan hệ gắn
kết vững chắc của người học với nhà trường
nhằm cung cấp tài chính cho các hoạt động
trong tương lai của trường đại học (HenningThurau và cộng sự, 2001). Lòng trung thành
của người học nói lên ý định sẵn lòng học tập,
cảm thấy hài lòng khi lựa chọn nhà trường, tin
tưởng thương hiệu nhà trường, đồng thời sẵn
sàng giới thiệu nhà trường với những người mà
họ quen cũng như sẵn lòng đóng góp tài chính
cho nhà trường sau khi tốt nghiệp.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 289 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quản trị thương hiệu Đại học theo tiếp cận mô hình tài sản thương hiệu dựa vào khách hàng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 4 (2019) 94-105
94
Original Article
Customer Based Brand Equity
and University Brand Management
Tran Viet Dung*
Vietnam National University, Hanoi, Vietnam, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
Received 27 November 2019
Revised 18 December 2019; Accepted 18 December 2019
Abstract: As Vietnam integrated deeply into the world economy, higher institutions are on a rise
and faced with strong competition, university brand management has played an increasingly
important role. Following brand equity theories and customer based brand equity models, the
paper proposes an analytical framework which adopts Aeker’s four components (1991) including
brand awareness, brand associations, perceived quality and brand loyalty in order to enhance the
value of brand equity for higher institutions in Vietnam.
Keywords: Brand equity, university brand management, CBBE.
*
_______
* Corresponding author.
E-mail address: tranvietdung@vnu.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4284
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 4 (2019) 94-105
95
Quản trị thương hiệu đại học theo tiếp cận mô hình tài sản
thương hiệu dựa vào khách hàng
Trần Việt Dũng*
Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 27 tháng 11 năm 2019
Chỉnh sửa ngày 18 tháng 12 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 18 tháng 12 năm 2019
Tóm tắt: Trong bối cảnh Việt Nam bước vào giai đoạn hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới,
số lượng các trường đại học ngày càng tăng thì mức độ cạnh tranh ngày càng cao, do đó quản trị
thương hiệu đại học ngày càng đóng vai trò quan trọng. Dựa trên lý thuyết về tài sản thương hiệu
và các mô hình tài sản thương hiệu dựa vào khách hàng (customer based brand equity – CBBE),
bài viết đưa ra khung phân tích về quản trị thương hiệu theo tiếp cận mô hình CBBE, sử dụng bốn
thành phần chính trong mô hình do Aaker (1991) đề xuất, gồm nhận biết thương hiệu, liên tưởng
thương hiệu, chất lượng cảm nhận và trung thành thương hiệu, nhằm nâng cao thương hiệu của các
trường đại học tại Việt Nam.
Từ khóa: Tài sản thương hiệu, quản trị thương hiệu đại học, CBBE.
1. Giới thiệu *
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc xây dựng
và phát triển thương hiệu là một phần không thể
thiếu trong chiến lược hoạt động của bất kỳ tổ
chức nào, và giáo dục đại học tại Việt Nam
cũng không nằm ngoài xu thế đó. Nếu xác định
giáo dục đại học như một dịch vụ, thì nó phải
chịu nhiều áp lực cạnh tranh từ trong nước lẫn
nước ngoài. Theo báo cáo của Vụ Giáo dục Đại
học (2019), hệ thống giáo dục đại học Việt
Nam hiện tại có 237 trường đại học, học viện
(bao gồm 172 trường công lập, 60 trường tư
thục và dân lập, 5 trường có 100% vốn nước
ngoài), 37 viện nghiên cứu khoa học được giao
_______
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: tranvietdung@vnu.edu.vn
https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4284
nhiệm vụ đào tạo trình độ tiến sĩ, 31 trường cao
đẳng sư phạm và 2 trường trung cấp sư phạm.
Ngoài ra, hiện nay có gần 550 chương trình hợp
tác và liên kết đào tạo đang hoạt động giữa 85
cơ sở giáo dục Việt Nam với 258 cơ sở giáo
dục đại học nước ngoài thuộc 33 quốc gia và
vùng lãnh thổ [1]. Bối cảnh đó đã tạo ra áp lực
cạnh tranh gay gắt giữa các trường đại học
trong nước cả về chất lượng và số lượng sinh
viên đầu vào. Đặc biệt tại các trung tâm đô thị
chính như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh,
với mật độ tập trung cao của các trường đại
học, cao đẳng, mức độ cạnh tranh trong giáo
dục đại học còn cao hơn nhiều. Khi cạnh tranh
gia tăng, các cơ sở giáo dục cũng có những biểu
hiện hoạt động giống như doanh nghiệp, cũng
triển khai các hoạt động marketing, phát triển
thương hiệu [2, 3]. Thương hiệu giáo dục thông
qua quảng bá có thể được sử dụng để gửi một
T.V. Dung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 4 (2019) 94-105
96
tín hiệu mạnh mẽ đến sinh viên tiềm năng về
chất lượng và uy tín của tổ chức giáo dục đại
học. Do đó, việc xây dựng và quản trị thương
hiệu đại học chính là một trong những giải pháp
chiến lược quan trọng, giúp trường đại học có
thể thu hút nhiều đối tượng hữu quan - bao gồm
người học, giảng viên, đối tác, nhà tuyển dụng
và những người liên quan. Thương hiệu thể
hiện ở giá trị mà nhà trường đang sở hữu và
mong muốn được các đối tượng hữu quan biết
đến [4]. Một thương hiệu trường đại học gắn
liền với bản sắc riêng, uy tín và hình ảnh của
nhà trường sẽ tạo dấu ấn mạnh mẽ đối với
người học, đồng thời giúp nhận diện trường đại
học, phân biệt trường này với các trường khác
trong hoạt động đào tạo [5].
Đứng trước đòi hỏi phải tăng cường công
tác quản trị thương hiệu, việc xác định được
một mô hình quản trị tài sản thương hiệu nhằm
đo lường các giá trị là hết sức cần thiết. Trong
đó, mô hình quản trị theo tiếp cận CBBE được
coi là một trong những mô hình quan trọng đối
với giới học thuật lẫn kinh doanh [6]. Đối với
quản trị đại học, hiện nay chưa có nhiều nghiên
cứu xác định khung phân tích nhằm quản trị
thương hiệu nhà trường theo tiếp cận mô hình
CBBE. Do vậy, trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết
về tài sản thương hiệu và các mô hình CBBE,
bài viết đưa ra khung phân tích về quản trị
thương hiệu đại học theo tiếp cận mô hình
CBBE của Aaker (1991).
2. Cơ sở lý thuyết
2.1. Tài sản thương hiệu
Trong thập niên 1980, với sự bùng nổ của
các hoạt động sáp nhập và mua lại cũng như các
chiến lược nâng cao năng lực marketing, giá
mua nhiều doanh nghiệp cao hơn so với giá trị
sổ sách kế toán bởi người mua đã thực sự mua
các vị trí trong tâm thức của khách hàng tiềm
năng [7]. Thực tế giá mua đã bao gồm giá trị
thương hiệu. Do đó, các nhà nghiên cứu
marketing bắt đầu quan tâm tới cách tính toán
giá trị thương hiệu để định giá cho hoạt động
mua bán và sáp nhập, dẫn tới sự ra đời thuật
ngữ “tài sản thương hiệu” (brand equity). Mặc
dù tài sản thương hiệu được chính thức xác định
sau so với các dạng tài sản khác, tuy nhiên nó
lại là loại tài sản có giá trị và ý nghĩa đối với
mỗi tổ chức.
Tài sản thương hiệu là khái niệm rất rộng
và trừu tượng. Đến nay đã có nhiều quan điểm,
mục đích cũng như cách đánh giá tài sản
thương hiệu khác nhau, tuy nhiên nhìn chung,
tài sản thương hiệu được tiếp cận dựa trên hai
quan điểm chính là quan điểm tài chính và quan
điểm khách hàng. Theo quan điểm tài chính, tài
sản thương hiệu được xem là một tài sản riêng
biệt với mục tiêu ước lượng giá trị của thương
hiệu trong toàn bộ giá trị tài sản của doanh
nghiệp và nó có thể được sử dụng như một cơ
sở đánh giá hiệu quả nội bộ hoặc cho các kế
hoạch hợp nhất bên ngoài doanh nghiệp [8].
Tuy nhiên cách tiếp cận này không giúp nhiều
cho nhà quản trị trong việc tận dụng và phát
triển giá trị của thương hiệu [6, 9]. Còn theo
quan điểm khách hàng, tài sản thương hiệu còn
được gọi là tài sản thương hiệu dựa vào khách
hàng, lấy đánh giá của khách hàng làm trọng
tâm. Thông qua sự liên tưởng và nhận thức của
khách hàng dành cho từng thương hiệu cụ thể
sẽ làm tăng thêm giá trị cho sản phẩm [10].
Trong nghiên cứu marketing, cách tiếp cận tài
sản thương hiệu dựa vào khách hàng (CBBE)
được nhiều nhà nghiên cứu ủng hộ hơn bởi
“nếu một thương hiệu không có ý nghĩa với
khách hàng thì không một định nghĩa nào về tài
sản thương hiệu là thực sự có ý nghĩa” [11].
Suy cho cùng, nguồn gốc của tất cả mọi hoạt
động đều phải xuất phát từ khách hàng. Do vậy,
cách tiếp cận CBBE chính là tiền đề cho cách
tiếp cận tài sản thương hiệu theo quan điểm tài
chính. Theo đó, trong bài viết này, tài sản
thương hiệu được tiếp cận dựa trên quan điểm
khách hàng.
Một trong những định nghĩa phổ biến được
chấp nhận rộng rãi trong lý luận về tài sản
thương hiệu là định nghĩa của Aaker (1991).
Theo Aaker (1991), tài sản thương hiệu là một
tập hợp các tài sản và nghĩa vụ liên quan đến
tên và biểu tượng của thương hiệu, làm gia tăng
hay giảm đi giá trị mà một sản phẩm hoặc dịch
vụ mang lại cho một công ty và/hoặc khách
T.V. Dung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 4 (2019) 94-105
97
hàng của công ty [12]. Đây cũng là khái niệm
được nhiều nhà nghiên cứu sau này trích dẫn
nhiều [13].
Tương tự, Keller (1993) định nghĩa tài sản
thương hiệu là những hiệu ứng khác biệt của
kiến thức thương hiệu tác động đến phản ứng
của khách hàng đối với các hoạt động
marketing của thương hiệu đó [14]. Theo ông,
kiến thức thương hiệu của khách hàng gồm hai
thành phần chính là nhận biết thương hiệu và
hình ảnh thương hiệu, trong đó hình ảnh thương
hiệu chính là những cảm nhận về thương hiệu
của khách hàng được phản ánh bởi tập hợp các
thuộc tính đồng hành về thương hiệu trong trí
nhớ khách hàng. Định nghĩa trên cũng thống
nhất với Kotler và Keller (2006), giá trị thương
hiệu là giá trị tăng thêm cho sản phẩm dịch vụ
[15]. Giá trị này được phản ánh bởi cách mà
khách hàng nghĩ, cảm thấy và hành động đối
với thương hiệu, dẫn đến kết quả thể hiện bởi
giá, thị phần và khả năng sinh lợi mà thương
hiệu đem lại cho công ty [16].
Theo Lassar và cộng sự (1995), tài sản
thương hiệu bắt nguồn từ sự tín nhiệm mà
khách hàng đặt trong một thương hiệu hơn là
trong các đối thủ cạnh tranh của nó. Sự tín
nhiệm này chuyển thành lòng trung thành của
khách hàng và họ sẵn lòng trả giá cao cho
thương hiệu [17].
Kotler (1998) định nghĩa tài sản thương hiệu
là giá trị gia tăng thêm vào sản phẩm, dịch vụ. Giá
trị này thể hiện qua cách khách hàng suy nghĩ,
cảm nhận, hành động có tính chất tích cực đối với
thương hiệu và qua khả năng định giá cao, giành
thị phần và khả năng sinh lời mà thương hiệu có
thể mang lại cho doanh nghiệp [18].
Nhìn chung, các định nghĩa về tài sản
thương hiệu dựa vào khách hàng có những điểm
khác biệt, nhưng xét về một khía cạnh nào đó,
chúng đều có sự kế thừa nhất định từ Aaker
(1991). Hầu hết các định nghĩa về tài sản
thương hiệu đều tập trung vào suy nghĩ của
khách hàng. Cách tiếp cận này mang tính thực
tế hơn vì nó cung cấp thông tin cho một tầm
nhìn chiến lược về hành vi khách hàng, giúp
nhà quản lý có thể phát triển chiến lược thương
hiệu, đồng thời nó đánh giá cao sự phản ứng
của khách hàng đối với tên thương hiệu, nhấn
mạnh suy nghĩ của khách hàng như nhận thức,
chất lượng, cảm nhận, thái độ, sở thích, các thuộc
tính đồng hành và lòng trung thành [6]. Sự hiểu
biết, kiến thức thương hiệu của khách hàng đã liên
kết thương hiệu trong tâm trí khách hàng, tạo nên
nền tảng của giá trị thương hiệu [15].
2.2. Các mô hình tài sản thương hiệu theo cách
tiếp cận khách hàng
Aaker được coi là một trong những chuyên
gia thương hiệu đầu tiên đề cập tới khái niệm
này với mô hình tài sản thương hiệu dựa vào
khách hàng, được công bố trong một bài báo
xuất bản năm 1991. Aaker đã xây dựng một mô
hình tài sản tài sản thương hiệu với bốn yếu tố
cấu thành chính: (i) nhận biết thương hiệu; (ii)
liên tưởng thương hiệu; (iii) chất lượng cảm
nhận; (iv) trung thành thương hiệu. Ngoài ra
còn có các tài sản thương hiệu độc quyền khác
như bản quyền, bằng sáng chế Các yếu tố cấu
thành trong nghiên cứu của Aaker (1991) được
coi là hướng nghiên cứu chính về CBBE [6].
Mô hình CBBE của Aaker (1991) được xem là
một trong những mô hình đo lường tài sản
thương hiệu dựa vào khách hàng có tính khái
quát cao, đã được các nhà nghiên cứu tiến hành
kiểm chứng thực tiễn cho nhiều loại sản phẩm,
nhiều ngành khác nhau [13] (Hình 1).
Keller (2001) đã xây dựng mô hình CBBE
gồm 4 bước xây dựng giá trị tài sản thương hiệu
và 6 khối công việc phải làm, được mô tả dưới
dạng kim tự tháp, gồm: (i) Nhận diện thương
hiệu (khách hàng sẽ nhận biết và nhớ lại những
gì liên quan đến thương hiệu), (ii) Hình ảnh
thương hiệu (là các liên tưởng hiệu năng và
hình tượng); (iii) Phản ứng với thương hiệu
(những đánh giá, cảm xúc đối với thương hiệu
như sự ấm áp, vui vẻ, háo hức, an toàn, chấp
nhận xã hội và tự trọng); (iv) Quan hệ với
thương hiệu, hay còn gọi là cộng hưởng thương
hiệu, có nghĩa là sự trung thành về hành vi, sự
gắn bó về thái độ, ý thức cộng đồng và sự cam
kết hành động) [19]. Đích đến cuối cùng của
việc xây dựng hình ảnh đó là có được sự gắn
kết, liên hệ giữa khách hàng và sản phẩm. Như
vậy, đi từ đáy của kim tự tháp cho đến đỉnh là
quá trình tạo ra độ nhận biết thương hiệu cho
T.V. Dung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 4 (2019) 94-105
98
đến tạo ra sự trung thành - là giá trị cao nhất
một thương hiệu cần hướng tới. Theo Keller,
trung thành không chỉ là việc mua hàng liên tục
mà khách hàng còn phải cảm thấy gắn kết, gắn
bó hay luôn mong muốn thuộc về thế giới mà
thương hiệu đó tạo ra. Mô hình này cho thấy
sức mạnh của thương hiệu nằm ở những gì
khách hàng biết, cảm giác, nhìn thấy, nghe thấy
về thương hiệu, và là kết quả của quá trình trải
nghiệm qua thời gian. Ưu điểm lớn nhất của mô
hình là sự rõ ràng và dễ hiểu, có thể ứng dụng
tốt cho các thương hiệu nhỏ nhất. Tuy nhiên,
hạn chế của mô hình này là cần phải trải qua
nhiều bước trong quá trình xây dựng thương
hiệu (Hình 2).
Lassar và cộng sự (1995) đề xuất mô hình
giá trị tài sản thương hiệu gồm năm yếu tố cấu
thành: (i) năng lực thương hiệu; (ii) giá trị cảm
nhận; (iii) hình ảnh thương hiệu; (iv) lòng tin
thương hiệu; (v) gắn kết thương hiệu [17].
Nghiên cứu được tiến hành cho sản phẩm thức
ăn nhanh và được khảo sát trên thực khách tại
các nhà hàng thức ăn nhanh của bốn nước Bắc
Âu. Ưu điểm của mô hình này là dễ hiểu và dễ
vận dụng vào thực tế (Hình 3).
d
Hình 1. Mô hình CBBE của Aaker (1991).
Nguồn: Aaker (1991).
T.V. Dung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 4 (2019) 94-105
99
i
Hình 2. Mô hình CBBE của Keller.
Nguồn: Keller (2001).
Theo Netemeyer và cộng sự (2004), khung
mô hình CBBE của cả Aaker và Keller đều tập
trung vào các liên tưởng thương hiệu chính như
cảm nhận chất lượng, cảm nhận giá trị, tính độc
đáo, sự sẵn sàng tiêu dùng với mức giá cao hơn
[20]. Các tác giả đã tiến hành bốn nghiên cứu
trong ngành công nghiệp đồ ăn nhanh và cho
thấy nhận thức chất lượng thương hiệu, nhận
thức giá trị thương hiệu và tính độc đáo thương
hiệu (tức là khía cạnh cốt lõi) là có liên quan
với nhau.
u
Hình 3. Mô hình CBBE của Netemeyer và cộng sự.
Nguồn: Netemeyer và cộng sự (2004).
i
T.V. Dung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 4 (2019) 94-105
100
j
Tuy nhiên, Steven và cộng sự (2007) lại chỉ
ra rằng, trong mô hình CBBE chỉ có một trong
một số các biến được xác định là có ảnh hưởng
trực tiếp đến sự hình thành của ý định thương
hiệu [21]. Các tác giả đã đặt ra câu hỏi có hay
không mô hình sự hài lòng có thể phù hợp với
khái niệm về CBBE của Netemeyer và cộng sự
(2004). Do đó, Steven và cộng sự đã phát triển
một mô hình lý thuyết thứ hai dựa trên những
nghiên cứu của Netemeyer và cộng sự (Hình 4).
i
Hình 4. Mô hình CBBE của Steven và cộng sự.
Nguồn: Steven và cộng sự (2007).
3. Đề xuất mô hình quản trị thương hiệu đại
học theo tiếp cận CBBE
Trong bối cảnh Việt Nam bước vào giai
đoạn hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới,
số lượng các trường đại học ngày càng tăng thì
mức độ cạnh tranh ngày càng cao, do đó quản
trị thương hiệu đại học ngày càng đóng vai trò
quan trọng. Với phương châm hướng vào người
học, các cơ sở giáo dục đại học nên coi sinh
viên và những người liên quan là đối tượng
được cung cấp một loại dịch vụ đặc biệt là dịch
vụ đào tạo. Đào tạo được coi là một hình thức
dịch vụ, do đó sinh viên và những người liên
quan sử dụng dịch vụ đào tạo cũng được xem
như khách hàng. Vì vậy, việc quản trị thương
hiệu của các cơ sở giáo dục đại học sẽ giúp sinh
viên và những đối tượng liên quan có ý thức
nhận diện và tự khẳng định mình, không chỉ
dưới góc nhìn của một khách hàng mà còn như
một thành viên xây dựng thương hiệu
cộng đồng.
Hiện nay các nghiên cứu về mô hình tài sản
thương hiệu dựa vào khách hàng chủ yếu kế
thừa nghiên cứu của Aaker (1991). Đối với
quản trị thương hiệu và tài sản thương hiệu đại
học nói riêng, các nghiên cứu trên thế giới của
Ng và Forbes (2009) [22], Pinar và cộng sự
(2014) [23], hay các nghiên cứu trong nước của
Phạm Thị Minh Lý (2014) [24], Hoàng Anh
Viện (2017) [25], Võ Thị Thu Hà (2019) [26]
đã sử dụng bốn thành phần cấu thành tài sản
T.V. Dung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 4 (2019) 94-105
101
thương hiệu trong mô hình CBBE của Aaker
(1991) gồm: (i) nhận biết thương hiệu; (ii) liên
tưởng thương hiệu; (iii) trung thành thương
hiệu; (iv) chất lượng cảm nhận, để đo lường tài
sản thương hiệu các trường đại học theo cảm
nhận sinh viên (khách hàng). Trên cơ sở lý
thuyết và mô hình của Aaker (1991), cũng như
kế thừa các kết quả nghiên cứu trước, bài viết
này sẽ hệ thống hóa lý thuyết tài sản thương
hiệu, từ đó đề xuất khung mô hình quản trị
thương hiệu đại học theo tiếp cận CBBE với
bốn yếu tố chính (Hình 5). Trong đó, khung mô
hình quản trị thương hiệu đại học được dựa trên
lý thuyết của Aaker (1991) là bởi nó thể hiện sự
đánh giá đầy đủ của khách hàng đối với thương
hiệu và đặc biệt giúp khách hàng hiểu được
thương hiệu một cách dễ dàng. Để xây dựng
chiến lược quản trị thương hiệu thành công, các
trường đại học cần xác định những giá trị cốt
lõi mà nhà trường muốn hướng đến lâu dài và
bền vững.
j
Hình 5. Mô hình quản trị thương hiệu đại học theo tiếp cận CBBE.
Nguồn: Tác giả phát triển từ mô hình của Aaker.
Cụ thể, các yếu tố chính trong mô hình gồm:
3.1. Nhận biết thương hiệu
Theo Aaker (1991), nhận biết thương hiệu
là khả năng người tiêu dùng tiềm năng nhận
biết và nhớ lại một thương hiệu thuộc về một
chủng loại sản phẩm nào đó [12], nói cách
khác, nhận biết thương hiệu đòi hỏi người tiêu
dùng phải phân biệt chính xác thương hiệu nếu
đã được nhìn hoặc nghe trước đó. Keller (1993)
cũng cho rằng nhận biết thương hiệu là mức độ
phản ánh dấu hiệu thương hiệu trong bộ nhớ
của người tiêu dùng nhằm nhận diện thương
hiệu trong các điều kiện khác [14].
Aaker (1991) đã xác định một số cấp độ của
nhận biết thương hiệu, từ nhận ra thương hiệu,
gợi nhớ thương hiệu, thương hiệu đứng đầu tâm
trí, thương hiệu thống trị và cảm nhận thương
hiệu [12]. Nhận biết thương hiệu phản ánh sức
mạnh hiện hữu của thương hiệu trong tâm trí
người tiêu dùng. Nó cung cấp bốn giá trị sau:
Là cái neo của những liên kết thương hiệu; là
nguồn gốc của sự ưa thích thương hiệu; là tín
hiệu của thực chất và cam kết; là bước đầu của
quá trình ra quyết định mua.
Đối với trường đại học, sự nhận biết thương
hiệu đại học thể hiện ở khả năng người học có
thể nhận biết những đặc tính nổi bật, dễ nhận
biết khi nói đến nhà trường, chủ yếu là các đặc
điểm mô tả nhận biết bằng các giác quan thông
thường, như logo, tên hiệu, cổng trường, khuôn
viên nhà trường, đồng phục nhân viên, đồng
phục sinh viên... của nhà trường, nó giúp dễ
dàng phân biệt được trường đại học này với các
trường đại học khác. Tuy nhiên, sự nhận biết
này không chỉ thể hiện ở các cấp độ nhận ra
thương hiệu, gợi nhớ thương hiệu, mà còn là sự
ghi nhận thương hiệu đứng đầu tâm trí, cảm
nhận đó là một trường đại học có danh tiếng.
Quản trị thương hiệu
đại học
Nhận biết
thương hiệu
Liên tưởng
thương hiệu
Trung thành
thương hiệu
Chất lượng
cảm nhận
T.V. Dung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 4 (2019) 94-105
102
Sự nhận biết thương hiệu là yếu tố cấu
thành tác động mạnh mẽ, tiên quyết đến tài sản
thương hiệu trường đại học, vì vậy các nhà
quản trị cần tập trung đẩy mạnh hệ thống nhận
diện thương hiệu cho nhà trường. Hiện tại mặc
dù hầu hết các trường đã có ý thức xây dựng bộ
nhận diện thương hiệu, tuy nhiên cần xây dựng
nó thành một hệ thống rõ ràng nhằm giúp sinh
viên và phụ huynh dễ dàng nhận diện, tiếp cận
và cảm nhận được danh tiếng của nhà trường,
khiến họ cảm thấy tự hào khi được trở thành
sinh viên của nhà trường. Bởi khi hình ảnh
thương hiệu của nhà trường được xây dựng
thành công, được lặp lại trong một khoảng thời
gian dài thì nó sẽ trở thành danh tiếng.
3.2. Liên tưởng thương hiệu
Giá trị tiềm ẩn đằng sau cái tên của thương
hiệu chính là các thuộc tính riêng biệt được gắn
kết khi liên tưởng đến thương hiệu. Theo Aaker
(1991), liên tưởng thương hiệu là “bất cứ cái gì
trong trí nhớ của người tiêu dùng được gắn với
thương hiệu” [12]. Keller (1993) cho rằng liên
tưởng thương hiệu chứa đựng những thông tin
về thương hiệu xuất hiện trong trí nhớ của
người tiêu dùng và nó chứa đựng ý nghĩa của
thương hiệu đối với người tiêu dùng [14].
Liên tưởng thương hiệu gồm hai cấp độ.
Thứ nhất, liên tưởng thương hiệu có thể được
xem xét trong tất cả các hình thức và đặc tính
của sản phẩm hoặc những đặc tính riêng biệt
của bản thân sản phẩm [27], là cơ sở để đưa ra
quyết định mua, để tạo ra lòng trung thành với
thương hiệu, đồng thời tạo ra giá trị cho doanh
nghiệp và cho khách hàng của nó [28]. Aaker
(1991) đã liệt kê các giá trị của liên tưởng
thương hiệu mang lại, bao gồm: Hỗ trợ quá
trình thu thập, xử lý/truy xuất thông tin từ trí
nhớ; Tạo sự khác biệt giữa các thương hiệu;
Tạo nên lý do để người tiêu dùng mua sắm; Tạo
ra cảm giác/thái độ tích cực của người tiêu dùng
đối với thương hiệu; Tạo ra cơ sở cho sự mở
rộng thương hiệu [12]. Thứ hai, liên tưởng
thương hiệu giúp tạo ra giá trị cho các doanh
nghiệp, khách hàng cũng như làm tăng giá trị
thương hiệu bằng cách giúp khách hàng phân
biệt các thương hiệu khác nhau, tạo cảm giác và
thái độ tích cực trong trí nhớ người tiêu dùng và
cung cấp lý do để người tiêu dùng mua
chúng [29].
Đối với trường đại học, sự liên tưởng
thương hiệu được thể hiện ở việc, khi nhắc đến
trường đại học thì khách hàng liên tưởng tới
những thuộc tính riêng biệt của trường đại học
đó, là cơ sở để khách hàng lựa chọn nhà trường.
Trong trí nhớ của khách hàng, trường đại học
đó được liên tưởng tới một môi trường giáo dục
tốt, các chuyên ngành/chương trình học đa
dạng, có cơ sở vật chất đảm bảo tốt, đội ngũ
giảng viên dày dặn kinh nghiệm
3.3. Chất lượng cảm nhận
Dawar (1996) xác định chất lượng cảm
nhận là ý kiến hoặc đánh giá tổng quan của
khách hàng về sự vượt trội, tuyệt hảo của một
sản phẩm [30]. Aaker (1991) định nghĩa chất
lượng cảm nhận là sự cảm nhận của người tiêu
dùng về chất lượng hay tính ưu việt của một
thương hiệu sản phẩm. Về bản chất, chất lượng
cảm nhận không phải là chất lượng thực của sản
phẩm, mà chính là nhận thức của khách hàng về
chất lượng sản phẩm. Đó chính là những đánh
giá mang tính chủ quan và tương đối của khách
hàng đối với chất lượng sản phẩm. Theo Hoàng
Thị Phương Thảo và cộng sự (2009), chất lượng
cảm nhận chính là cảm nhận của người tiêu
dùng về khả năng một thương hiệu sản phẩm
đáp ứng sự mong đợi của họ [31]. Tuy nhiên,
chất lượng thực sự của thương hiệu mà doanh
nghiệp cung cấp và chất lượng cảm nhận
thường không trùng khớp nhau, bởi khách hàng
không phải là chuyên gia trong lĩnh vực. Do đó,
chất lượng mà khách hàng cảm nhận mới là yếu
tố mà khách hàng làm căn cứ để thực hiện hành
vi tiêu dùng [9].
Ngày nay nhiều công ty đã biến chất lượng
định hướng theo người tiêu dùng thành vũ khí
cạnh tranh chiến lược. Một thương hiệu được
người tiêu dùng cảm nhận có chất lượng cao thì
họ sẽ biểu hiện cảm xúc của mình đối với nó vì
họ thấy rằng thương hiệu đó có những đặc tính
làm họ thích thú, muốn sở hữu nó hơn các
thương hiệu khác [9]. Chất lượng cảm nhận của
một thương hiệu có thể giúp tạo ra giá trị bằng
T.V. Dung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 4 (2019) 94-105
103
cách cung cấp những lý do quan trọng để mua
sản phẩm, giúp khác biệt hóa vị trí của thương
hiệu, tạo ra sự hơn giá, thúc đẩy các thành viên
trong kênh phân phối hoạt động tốt, đồng thời
mở rộng giới thiệu các loại thương hiệu mới
[12, 13, 17, 9].
Đối với trường đại học, chất lượng cảm
nhận được thể hiện ở sự cảm nhận của người
học về chất lượng hay tính ưu việt của một
thương hiệu trường đại học, đó là những đánh
giá mang tính chủ quan và tương đối của người
học đối với chất lượng đội ngũ giảng viên, các
chương trình giảng dạy hay các hoạt động ngoại
khóa của nhà trường Chất lượng cảm nhận
của thương hiệu phải phản ánh được năng lực
của trường đại học để đáp ứng nhu cầu của sinh
viên, tạo ra sự tin tưởng vào khả năng cung cấp
trình độ học vấn cao hơn và giúp người học đưa
ra quyết định nhập học. Để nâng cao chất lượng
cảm nhận của sinh viên đối với nhà trường, nhà
quản trị đại học cần tạo ra lợi thế đặc trưng của
nhà trường, từ đó tạo ra danh tiếng nhà trường.
Khi sinh viên cảm nhận được rằng những lợi
ích của họ được nhà trường lên hàng đầu, họ sẽ
có cảm nhận tốt về nhà trường và cảm thấy hài
lòng, từ đó phát huy được tối đa năng lực, trí
sáng tạo trong học tập.
3.4. Trung thành thương hiệu
Aaker (1991) cho rằng lòng trung thành
thương hiệu như một sự gắn kết thêm mà người
tiêu dùng có đối với một thương hiệu [12].
Keller (2003) xác định lòng trung thành là “sự
cộng hưởng với thương hiệu”, tức là mức độ mà
khách hàng cảm thấy họ đồng bộ với thương
hiệu [14]. Khách hàng có mức độ trung thành
với thương hiệu cao sẽ tích cực tìm kiếm những
cách thức để tương tác với thương hiệu và chia
sẻ kinh nghiệm với những người khác.
Theo Aaker (1991), có hai cách tiếp cận
lòng trung thành của khách hàng đối với một
thương hiệu: dựa vào thái độ của người tiêu
dùng và dựa vào hành vi của người tiêu dùng
[12]. Cách tiếp cận thứ nhất nhấn mạnh ý định,
thái độ của người tiêu dùng trong việc tiêu dùng
sản phẩm. Rossiter và Percy (1987) cho rằng
lòng trung thành thương hiệu được thể hiện qua
thái độ thiện cảm của người tiêu dùng đối với
thương hiệu, họ sẽ sử dụng thương hiệu đó qua
thời gian [32]. Yoo và cộng sự (2000) cũng cho
rằng lòng trung thành thương hiệu thể hiện
khuynh hướng trung thành của khách hàng đối
với thương hiệu [13]. Còn cách tiếp cận thứ hai
xem xét lòng trung thành thương hiệu dựa vào
hành vi, thông qua hành động mua lặp lại, sử
dụng thương hiệu của một sản phẩm một cách
thường xuyên [33, 34]. Oliver (1997) cho rằng
lòng trung thành thương hiệu như một lời cam
kết của người tiêu dùng mua hoặc sử dụng
thương hiệu sản phẩm trong tương lai, mặc dù
ảnh hưởng bởi những tình huống và tác động
của thị trường có thể làm thay đổi hành vi bất
thường của họ [35]. Cốt lõi của tài sản thương
hiệu là lòng trung thành của khách hàng. Lòng
trung thành thương hiệu chính là thước đo sự gắn
bó của khách hàng. Mức độ trung thành càng cao
có nghĩa là số lượng khách hàng gắn bó của
thương hiệu doanh nghiệp càng nhiều và như vậy
tức là doanh nghiệp sẽ tăng được doanh số và tiết
kiệm được chi phí marketing [36].
Trong lĩnh vực giáo dục đại học, lòng trung
thành thương hiệu thể hiện qua mối quan hệ gắn
kết vững chắc của người học với nhà trường
nhằm cung cấp tài chính cho các hoạt động
trong tương lai của trường đại học (Henning-
Thurau và cộng sự, 2001). Lòng trung thành
của người học nói lên ý định sẵn lòng học tập,
cảm thấy hài lòng khi lựa chọn nhà trường, tin
tưởng thương hiệu nhà trường, đồng thời sẵn
sàng giới thiệu nhà trường với những người mà
họ quen cũng như sẵn lòng đóng góp tài chính
cho nhà trường sau khi tốt nghiệp.
4. Kết luận
Tài sản thương hiệu là một khái niệm quan
trọng của các tổ chức hiện đại và là chủ đề học
thuật nhận được nhiều sự quan tâm trong những
năm gần đây. Mặc dù có nhiều mô hình quản trị
tài sản thương hiệu, tuy nhiên mô hình của
Aaker (1991) được coi là một trong những mô
hình được áp dụng phổ biến bởi những ưu việt
của nó trong thực tế. Mô hình của Aaker không
chỉ được áp dụng đối với các sản phẩm, các
T.V. Dung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 4 (2019) 94-105
104
ngành kinh doanh, mà còn được khảo sát trong
lĩnh vực dịch vụ, giáo dục. Trên cơ sở trình bày
lý thuyết cơ bản về tài sản thương hiệu và các
mô hình CBBE, bài viết đã xây dựng khung
phân tích về quản trị thương hiệu đại học theo
tiếp cận mô hình CBBE của Aaker. Mô hình
này có thể giúp các trường đại học ở Việt Nam
có cơ sở lý thuyết để triển khai mô hình quản trị
thương hiệu đại học thành công nhằm nâng cao
hình ảnh, danh tiếng, tạo ra lòng trung thành
của khách hàng. Một khi đã có được một mô
hình quản trị phù hợp, các trường đại học có thể
duy trì vị trí trong nhóm dẫn đầu, tạo ra sự khác
biệt hóa chất lượng và hình ảnh, từ đó nâng cao
khả năng cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu
hóa của nền kinh tế và thị trường giáo dục, thu
hút ngày càng nhiều các tài năng và nguồn sinh
viên, mở rộng mạng lưới đối tác hợp tác trong
và ngoài nước, thỏa mãn tốt nhất cộng đồng
doanh nghiệp - những người cuối cùng sử dụng
dịch vụ đào tạo. Cũng từ đây, lợi thế cạnh tranh
của một trường đại học sẽ được vun đắp và
trường tồn.
Tuy nhiên, bài viết có điểm hạn chế là chưa
tiến hành điều tra khảo sát để kiểm định sự phù
hợp của mô hình nghiên cứu trong thực tế. Đây
cũng là hướng mà các nghiên cứu thực nghiệm
tiếp theo có thể thực hiện.
Tài liệu tham khảo
[1] VHEART, Higher Education Newsletter, August
2019,
/Lists/news/Attachments/4699/B%E1%BA%A3n
%20tin%20GD%C4%90H%20T8_2019%20(Fina
l).pdf, accessed on 15 November 2019.
(in Vietnamese).
[2] J. Hemsley-Brown, S. Goonawardana, “Brand
harmonization in the international higher
education market”, Journal of Business Research
60 (2007) 942-948.
[3] T.C. Melewar, A. Sibel, “The role of corporate
identity in the higher education sector: A case
study”, Corporate Communications 10 (2005)
41-57.
[4] K.M. Judson et al., “Building a university brand
from within: University administrators’
perspectives of internal branding”, Services
Marketing Quarterly 30 (2009) 54-68.
[5] Le Thu Trang, Nguyen Anh Tuan, Pham Le Thu
Nga, “How should public universities be branded
in Vietnam?”, published on 20/11/2015,
thuong-hieu-the-nao-cho-dai-hoc-cong-lap-viet-
nam-20151120090418693.chn, access to on
1/12/2019. (in Vietnamese).
[6] Kim, Kyung Hoon et al., “Brand equity in hospital
marketing”, Journal of Business Research 61
(2008) 75-82.
[7] Jean-Noël Kapferer, The New Strategic Brand
Management, Kogan Page; 4th edition, 2008.
[8] P. Feldwick, “What is brand equity anyway and
how do you measure it?”, Journal of the Market
Research Society 38 (1996) 85-104.
[9] Nguyen Dinh Tho and Nguyen Thi Mai Trang,
Marketing Studies: Application of Structure
Equation Modeling - SEM, 2
nd
edition, Ho Chi
Minh City, Lao dong Publishing House, Ha Noi,
2001. (in Vietnamese).
[10] L.C. Winters, Brand equity measures: some recent
advances, Marketing Research 3 (1991) 70-73.
[11] C.J. Cobb-Walgren, C. Beal, N. Donthu, Brand
equity, brand preferences, and purchase intent,
Journal of Advertising 24 (1995) 25-40.
[12] D.A. Aaker, Managing Brand Equity, Free Press,
New York, 1991.
[13] B. Yoo, N. Donthu, S. Lee, “An examination of
selected marketing mix elements and brand
equity”, Journal of the Academy of Marketing
Science 28 (2000) 195-211.
[14] K.L. Keller, “Conceptualizing, measuring and
managing customer-based brand equity”, Journal
of Marketing 57 (1993) 1-22.
[15] P. Kotler, K. Keller, Marketing Management, 12th
Edition, Prentice Hall, Upper Saddle River, 2006.
[16] Pham Thi Lan Huong, Brand Management,
University of Economics, Da Nang University, 2010.
[17] B. Lassar, A. Mittal, Sharma, “Measuring
Customer-based Brand Equity”, Journal of
Consumer Marketing 12 (1995) 11-20.
[18] P. Kotler, Marketing Managament, Praha: Grada
Publishing, 1998.
[19] K.L. Keller, “Building Customer-Based Brand
Equity: A Blueprint for Creating Strong Brands”,
Marketing Science Institute, Report Summary,
107 (2001) 1-31.
T.V. Dung / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 4 (2019) 94-105
105
[20] G. Richard, Netemeyer et al., “Developing and
validating measures of facets of customer-based
brand equity”, Journal of Business Research 57
(2004) 209-224.
[21] Steven Pike et al., “Consumer-based brand equity
for Australia as a long-haul tourism destination in
an emerging market”, International Marketing
Review 27 (2007) 434-449.
[22] C.L.Ng. Irene, Jeannie Forbes, “Education as
Service: The Understanding of University
Experience Through the Service Logic”, Journal of
Marketing for Higher Education 19 (2009) 1-26.
[23] Musa Pinar, Paul Trapp, “University brand equity:
An empirical investigation of its dimensions”,
International Journal of Educational Management,
28 (2014) 616-634.
[24] Pham Thi Minh Ly, “University Brand Equity
through Students’ Viewpoints – Studies
conducted in Ho Chi Minh City based
Universities”, Journal of Economics and
Development, Vol. 200 (2014) 79-87.
(in Vietnamese).
[25] Hoang Anh Vien, “Measuring Brand Equity of the
Universities in the Central Part of Vietnam”,
Journal of Educational Science, Vol 138,
Mar/2017, 186-189 (in Vietnamese).
[26] Vo Thi Thu Ha, “Student oriented Brand Equity:
A Case Study of Marketing Faculties in Hanoi-
based Universities”, Journal of Science and
Technology, Vol. 52 (2019) 111-116.
(in Vietnamese).
[27] A.C. Chen, “Using free association to examine the
relationship between the characteristics of brand
associations and brand equity”, Journal of Product
& Brand Management 10 (2001) 439-49.
[28] E. Atilgan, S. Akinci, S. Aksoy, E. Kaynak,
“Determinants of the brand equity: A verification
approach in the beverage industry in Turkey”,
Marketing Intelligence & Planning 23 (2005)
237-248.
[29] X. Tong, J.M. Hawley, “Measuring customer-
based brand equity: Empirical evidence from the
sportswear market in China”, Journal of Product
and Brand Managerment 18 (2009) 262-271.
[30] N. Dawar, “Extensions of broad brands: The role
of retrieval in evaluations of fit”, Journal of
Consumer Psychology 5 (1996) 189-207.
[31] Hoang Thi Phuong Thao, Hoang Trong & Chu
Nguyen Mong Ngoc, “Developing Brand Equity
Measurements in Service based Economies”,
Ministerial Project, University of Economics Ho
Chi Minh City, 2009. (in Vietnamese).
[32] J.R. Rossiter, L. Percy, Advertising and
Promotion Management, New York, McGraw
Hill, 1987.
[33] A. Chaudhuri, M.B. Holbrook, “The chain of
effects from brand trust and brand affect to brand
performance: The role of brand loyalty”, Journal
of Marketing 65 (2001) 81-93.
[34] S. Kabiraj, J. Shanmugan, “Development of a
conceptual framework for brand loyalty: A Euro
Mediterranean perspective”, Journal of Brand
Management 18 (2011) 285-299.
[35] R.L. Oliver, A Behavioral Perspective on the
Consumer, McGraw-Hiil, New York, NY, 1997.
[36] A. Chaudhuri, “Does brand loyalty mediate brand
equity outcomes?”, Journal of Marketing Theory
and Practice 99 (1999) 136-146.
E
e
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quan_tri_thuong_hieu_dai_hoc_theo_tiep_can_mo_hinh_tai_san_t.pdf