Các cuộc giám sát chuyên đề, giám sát
cụ thể liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích
hợp pháp của người dân ngày càng được tăng
cường, như: giám sát việc thi hành Nghị quyết
388 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về bồi
thường thiệt hại cho người bị oan do người có
thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự
gây ra; giám sát công tác đền bù giải phóng
mặt bằng, tạo việc làm cho người dân có đất
bị thu hồi; giám sát việc thực hiện cổ phần hóa
trong các doanh nghiệp nhà nước và bán cổ
phiếu cho người lao động; giám sát việc thực
hiện chính sách pháp luật về phát triển sản
xuất nông nghiệp, nông thôn; giám sát việc
thực hiện các chương trình, mục tiêu quan
trọng quốc gia, xóa đói, giảm nghèo ở vùng
dân tộc ít người và miền núi; giám sát việc di
dân tái định cư tại công trình thủy điện Sơn
La; giám sát về giáo dục phổ thông, về trường
phổ thông dân tộc nội trú; giám sát việc thực
hiện Luật Bảo vệ môi trường ở các khu công
nghiệp, đô thị và bệnh viện lớn; tình trạng
ô nhiễm môi trường ở một số địa phương.
Ðặc biệt, trong năm 2008, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội đã tổ chức giám sát việc chấp hành
pháp luật khiếu nại, tố cáo trong ba năm 2005
- 2007. Qua giám sát, đã phát hiện một số vấn
đề còn bất cập làm hạn chế việc thực hiện
quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, phân
tích các nguyên nhân phát sinh khiếu nại, tố
cáo, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng công tác giải quyết khiếu nại,
tố cáo và kiến nghị của công dân, đồng thời
đề nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của
pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
Có thể thấy rằng, hoạt động giám sát của
Quốc hội đã góp phần quan trọng vào việc
bảo đảm sự hoạt động đúng đắn, có hiệu quả
của các cơ quan nhà nước, thúc đẩy việc thực
hiện các quy định của pháp luật liên quan đến
quyền con người; đồng thời chỉ ra những quy
định của pháp luật còn thiếu hoặc chưa phù
hợp, cần phải sửa đổi, bổ sung để bảo đảm
việc thực thi. Tuy nhiên, hoạt động giám sát
có lúc, có nơi còn hình thức, kết quả mới dừng
ở kiến nghị, kể cả nghị quyết về chất vấn tại
kỳ họp Quốc hội, việc thực hiện kiến nghị sau
giám sát chưa được đôn đốc một cách đầy đủ.
Các cơ quan của Quốc hội còn có những hạn
chế về thời gian và nguồn lực nên việc tổ chức
giám sát các vụ việc cụ thể theo khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị của công dân còn chưa được
nhiều.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 288 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quốc hội Việt Nam với việc bảo đảm và thực hiện quyền con người, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 24(161) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 5122009
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân; Nhà nước hoạt động là vì
con người, bảo đảm và thực hiện quyền con
người, ngay từ ngày đầu thành lập (năm 1945),
Nhà nước Việt Nam đã khẳng định những nội
dung cơ bản về quyền con người; và những
nội dung đó được thể hiện nhất quán và ngày
càng đầy đủ trong các bản Hiến pháp của Nhà
nước ta; từ Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đến
Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và
đặc biệt là Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp
năm 1992 khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người
về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội
được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân
và được quy định trong Hiến pháp và luật”;
“Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân;
công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối
với Nhà nước và xã hội”; “Mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật”1.
Là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân,
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc
hội Việt Nam luôn quán triệt sâu sắc các quan
điểm và tư tưởng cơ bản nêu trên trong toàn bộ
Quyền con người là một vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản, phản ánh trình độ phát triển của một xã hội,
được Ðảng và Nhà nước ta đặc biệt coi trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh kết hợp tư tưởng khoa học nhân văn của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin là triệt để giải phóng con người với đạo lý đầy lòng nhân ái của dân tộc Việt Nam “Thương
người như thể thương thân”, đã đề ra mục đích, lý tưởng của toàn Ðảng, toàn dân ta là phấn đấu để Tổ quốc
được độc lập, nhân dân được tự do, “đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Cương lĩnh
của Ðảng Cộng sản Việt Nam năm 1991 xác định, xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã
hội dân giàu, nước mạnh, con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ.
Trên thực tế, Ðảng ta luôn luôn đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi chính sách, coi con người vừa là
động lực, vừa là mục tiêu của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
với việc bảo đảm
và thực hiện quyền con người
QUỐC HỘI VIỆT NAM
(1) Xem: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các Ðiều 50, 51, 52.
NGUYễN PHú TRọNG
GS, TS. Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam.
6 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(161) 122009
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
hoạt động của mình, góp phần rất quan trọng
vào việc bảo đảm và thực hiện quyền con
người ở Việt Nam.
Trong hoạt động lập pháp và quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước:
Quốc hội đã thể chế hóa các nội dung về
quyền con người, quy định các cơ chế bảo đảm
thực hiện quyền con người, ban hành nhiều
văn bản luật, pháp lệnh, nghị quyết, tạo cơ sở
pháp lý để thực thi các quyền con người. Chỉ
tính từ giữa năm 1992 (là thời điểm Hiến pháp
năm 1992 có hiệu lực thi hành) đến hết năm
2008, Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc
hội đã ban hành 547 văn bản luật, pháp lệnh và
nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật. Các
văn bản này đã quy định một cách khá đầy đủ
và toàn diện về quyền con người trên tất cả các
lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội... cũng như về cơ chế bảo đảm thực hiện
các quyền đó. Cụ thể như sau:
- Trong lĩnh vực chính trị: Các quyền và
nghĩa vụ thể hiện tập trung ở việc công dân
được tham gia thực hiện quyền lực nhà nước,
bao gồm: quyền bầu cử và ứng cử vào Quốc
hội và Hội đồng nhân dân các cấp; quyền tham
gia quản lý nhà nước và xã hội. Ðiều 54 Hiến
pháp năm 1992 quy định: “Công dân, không
phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội,
tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề
nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở
lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt
tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc
hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của
pháp luật”2. Cụ thể hóa nội dung này của Hiến
pháp, Quốc hội đã ban hành các luật: Luật
Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997, được sửa
đổi, bổ sung một số điều vào năm 2002; Luật
Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 1994,
được sửa đổi vào năm 2003. Thực tế các cuộc
bầu cử đại biểu Quốc hội, bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân đã diễn ra một cách dân chủ
theo đúng quy định của pháp luật. Trong nhiều
văn bản luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc
hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
cụ thể các quyền của công dân tham gia trực
tiếp và gián tiếp vào công việc quản lý nhà
nước, như quyền được biết, được bàn, được
làm và được kiểm tra, giám sát. Riêng quyền
thực hiện dân chủ trực tiếp ở cơ sở, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã ban hành các nghị
quyết về quy chế dân chủ ở xã, phường, thị
trấn (năm 1998); quy chế dân chủ trong hoạt
động của doanh nghiệp nhà nước (năm 1998);
quy chế dân chủ trong hoạt động của các cơ
quan (năm 1998); pháp lệnh về việc thực hiện
dân chủ ở xã, phường (năm 2007). Ðây là một
(2) Xem Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chủ tịch Quốc hội đọc lời bế mạc kỳ họp - Ảnh: Đình Nam
Số 24(161) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 7122009
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
nét khá đặc sắc của Việt Nam trong việc phát
huy và thực hiện quyền dân chủ trực tiếp ở cơ
sở, được bạn bè quốc tế ghi nhận.
- Trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội:
Hiến pháp năm 1992 đã quy định công dân có
các quyền và nghĩa vụ học tập; quyền và nghĩa
vụ lao động; quyền được hưởng chế độ bảo vệ
sức khỏe; quyền về nhà ở; quyền sở hữu, tự do
kinh doanh,... Các quyền và nghĩa vụ này đều
đã được Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc
hội cụ thể hóa trong các luật và pháp lệnh. Như:
Luật Giáo dục năm 1998, được thay thế bằng
Luật giáo dục năm 2005; Luật Bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em năm 1991, được thay
thế bằng Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em năm 2004; Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân
(năm 1989); Bộ luật Lao động năm 1994, được
sửa đổi, bổ sung vào các năm 2002, 2006 và
2007; Luật Dạy nghề (năm 2006); Luật Người
lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng (năm 2006); Luật Phòng, chống
nhiễm vi-rút gây ra hội chứng suy giảm miễn
dịch ở người HIV/AIDS (năm 2006); Luật
Phòng, chống bệnh truyền nhiễm (năm 2007);
Luật Bình đẳng giới (năm 2006); Luật Nhà ở
(năm 2005); Luật Xây dựng (năm 2003); Pháp
lệnh về người tàn tật (năm 1998); Pháp lệnh
người cao tuổi (năm 2000),...
Trong các quyền nêu trên, quyền tự do
kinh doanh là quyền mới được quy định trong
Hiến pháp, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế
trong điều kiện mới, tạo tiền đề quan trọng cho
việc thực thi dân chủ và quyền con người. Ðể
cụ thể hóa vấn đề này, Quốc hội cũng đã ban
hành nhiều văn bản luật, như: Bộ luật Dân sự,
Bộ luật Lao động, Luật Ðầu tư, Luật Doanh
nghiệp, Luật Thương mại, Luật Hàng hải, Luật
Ðầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, Luật
Khuyến khích đầu tư trong nước,...
- Về các quyền liên quan đến phụ nữ và trẻ
em: Ðây là lĩnh vực xã hội rất quan tâm, đã
được quy định trong nhiều văn bản quy phạm
pháp luật, góp phần quan trọng vào những
thành tựu về bảo đảm và thúc đẩy các quyền
của phụ nữ và trẻ em. Các quy định cụ thể
trong Luật Bình đẳng giới cùng với các quyền
được chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bà mẹ, trẻ
em; các chính sách về bảo hộ lao động, bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chế độ thai sản,
chế độ đối với lao động nữ3,... đã tạo điều
kiện để phụ nữ từng bước thực hiện tốt vai
trò người công dân, người lao động, người
mẹ, người thầy đầu tiên của con người; đồng
thời, cũng góp phần phòng, chống các tệ nạn
xã hội, các hành vi bạo lực, xâm hại và xúc
phạm nhân phẩm phụ nữ, trẻ em.
Các quyền cơ bản của trẻ em như: quyền
được sống, được bảo vệ thân thể, nhân phẩm;
quyền được chăm sóc sức khỏe; quyền được
học tập, được phát triển; quyền được vui chơi,
giải trí; quyền được bày tỏ ý kiến, nguyện
vọng... đều được cụ thể hóa trong các quy định
của pháp luật4. Quốc hội đã phê chuẩn việc
Việt Nam tham gia Công ước Quốc tế về bảo
vệ trẻ em; thông qua Luật Bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em năm 1998, được sửa đổi,
bổ sung một số điều vào năm 2004. Nội dung
này cũng được quy định tại nhiều văn bản luật
khác. Trong điều kiện kinh tế đất nước còn
nhiều khó khăn, Ðảng và Nhà nước vẫn dành
nhiều ưu đãi cho trẻ em bằng việc miễn phí
khám, chữa bệnh cho trẻ em dưới 6 tuổi, chính
sách phổ cập giáo dục phổ thông cơ sở,... là
một cố gắng lớn.
- Về các quyền nhân thân: Quốc hội đã
quy định khá cụ thể trong nhiều văn bản pháp
luật, bao gồm: quyền tự do đi lại, tự do cư
trú5; quyền tự do ngôn luận6; quyền tự do tín
ngưỡng7; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở;
quyền được bảo đảm bí mật về thư tín, điện
thoại, điện tín8; quyền khiếu nại, tố cáo; quyền
bất khả xâm phạm về thân thể...
(3) Luật Bảo hiểm xã hội; Luật Phòng chống bạo lực gia đình; Luật Bảo hiểm y tế; Luật Dạy nghề; Luật Thanh niên.
(4) Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Luật Giáo dục.
(5) Bộ luật Dân sự; Pháp lệnh xuất nhập cảnh, cư trú của người nước ngoài ở Việt Nam; Luật Cư trú.
(6) Luật Báo chí năm 1990, sửa đổi năm 1999; Luật Xuất bản năm 2004, sửa đổi năm 2008.
(7) Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Luật Ðất đai; Bộ luật Hình sự.
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
8 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(161) 122009
Trong nhóm các quyền này, quyền bất khả
xâm phạm về thân thể là quyền tự do cá nhân
đặc biệt quan trọng, được Ðiều 71 của Hiến
pháp năm 1992 quy định: “Công dân có quyền
bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật
bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và
nhân phẩm. Không ai bị bắt, nếu không có
quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định
hoặc phê chuẩn của Viện Kiểm sát nhân dân,
trừ những trường hợp phạm tội quả tang. Việc
bắt hoặc giam giữ người phải đúng pháp luật.
Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục
hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công
dân”. Ðiều 72 của Hiến pháp còn quy định:
“Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình
phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã
có hiệu lực pháp luật”.
Ðể bảo đảm thực thi những quy định đó của
Hiến pháp, Quốc hội đã ban hành nhiều văn
bản pháp luật, gồm: Bộ luật Hình sự (1999);
Bộ luật Tố tụng hình sự (2003); Pháp lệnh Thi
hành án phạt tù năm 1999, được sửa đổi bổ sung
năm 2004; Luật Ðặc xá (năm 2007). Trong các
văn bản pháp luật này, ngoài việc quy định cụ
thể về quyền bất khả xâm phạm của công dân,
còn có những quy định thể hiện tính chất nhân
đạo của Ðảng và Nhà nước ta đối với người
phạm tội, như về việc đặc xá; về việc bảo đảm
quyền bào chữa, quyền khiếu nại, tố cáo của bị
can, bị cáo; về chế độ thăm nuôi, nhận quà và
đặc biệt là về chế độ ăn, mặc, ở, học tập, khám
chữa bệnh cho phạm nhân.
Nghị quyết số 388/NQ-UBTVQH11 ngày
17/3/2003 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về
bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người
có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình
sự gây ra đã quy định, công dân bị thiệt hại do
bị oan có quyền được bồi thường về vật chất
và phục hồi danh dự. Tuy trong quá trình thực
hiện còn một số vướng mắc cần phải sửa đổi,
nhưng nghị quyết này đã thể hiện quan điểm
nhất quán của Ðảng và Nhà nước ta trong việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
bảo đảm tính đúng đắn trong hoạt động của
cơ quan tiến hành tố tụng. Mới đây, Quốc hội
khóa XII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Bộ luật Hình sự theo hướng bỏ
bớt hình phạt tử hình đối với một số tội danh;
Luật Lý lịch tư pháp, Luật Trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước... là các luật liên quan
nhiều đến các quyền tự do dân chủ, tự do cá
nhân của công dân.
Quyền khiếu nại, tố cáo cũng là một trong
những quyền quan trọng của công dân, được
pháp luật bảo vệ. Ðiều 74 của Hiến pháp năm
1992 quy định: “Công dân có quyền khiếu nại,
quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội,
đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân
nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan
nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn
pháp luật quy định. Mọi hành vi xâm phạm
lợi ích của nhà nước, quyền lợi hợp pháp của
tập thể và của công dân phải được kịp thời xử
lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền
được bồi thường về vật chất và phục hồi danh
dự. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại,
tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để
vu khống làm hại người khác”.
Ðể cụ thể hóa các nội dung trên của Hiến
pháp, Quốc hội đã ban hành Luật Khiếu nại, tố
cáo năm 1998, được sửa đổi, bổ sung vào năm
2004 và năm 2005; đồng thời quy định trong
nhiều văn bản pháp luật khác như: Luật Ðất
đai, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng
dân sự, Luật về Luật sư, Luật Thuế tiêu thụ đặc
biệt... Ðiểm đáng chú ý là, Luật Khiếu nại, tố
cáo quy định: công dân, tổ chức khi thực hiện
quyền khiếu nại, có quyền lựa chọn việc khiếu
nại đến các cơ quan hành chính nhà nước có
thẩm quyền hoặc khởi kiện ra Tòa án bằng con
đường tố tụng tư pháp; trong quá trình khiếu
nại, tố cáo, công dân có quyền nhờ luật sư để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Về quyền tự do tín ngưỡng, Ðiều 70 Hiến
pháp năm 1992 quy định: “Công dân có quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không
(8) Bộ luật hình sự; Pháp lệnh Bưu chính - viễn thông.
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Số 24(161) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 9122009
theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình
đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các
tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ.
Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng,
tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo
để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà
nước”. Ðể thực hiện các quy định này, trước
đây chỉ có các văn bản của Chính phủ, nhưng
gần đây Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã nâng
lên thành một văn bản có giá trị pháp lý cao
hơn, đó là Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo.
- Về vấn đề xóa đói, giảm nghèo, cải thiện
đời sống nhân dân: Quốc hội đã cụ thể hóa
các quan điểm, tư tưởng của Ðảng về chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm
nghèo, nâng cao đời sống nhân dân, nhất là
tại các địa phương có nhiều khó khăn. Trong
các Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội hằng năm và năm năm
đã nêu rõ các mục tiêu phấn đấu và kế hoạch
chi ngân sách nhà nước, chỉ tiêu giảm nghèo,
tạo việc làm...; hoặc trong các Nghị quyết về
chương trình mục tiêu và dự án trọng điểm
quốc gia đã khẳng định các chủ trương đầu tư
lớn, các dự án lớn tại địa bàn có điều kiện tự
nhiên, kinh tế - xã hội khó khăn, như: Dự án
trồng mới 5 triệu ha rừng; dự án khí, điện, đạm
Bà Rịa - Vũng Tàu; dự án Nhà máy lọc dầu
Dung Quất; dự án đường Hồ Chí Minh; dự án
Thủy điện Sơn La... Các nghị quyết này của
Quốc hội đã phát huy hiệu lực, hiệu quả, góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xóa
đói, giảm nghèo, từng bước nâng cao đời sống
của nhân dân.
Ðiều cần nói thêm là, cùng với việc quy
định các quyền cơ bản của công dân, Quốc
hội còn đặc biệt coi trọng việc xây dựng và
hoàn thiện các cơ chế bảo vệ và bảo đảm việc
thực hiện các quyền đó. Hiến pháp năm 1992
được sửa đổi, bổ sung một số điều vào năm
2001, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức
Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án Nhân dân,
Luật Tổ chức Viện Kiểm sát Nhân dân, Luật
Hoạt động giám sát của Quốc hội,... đều đã thể
hiện rõ ý tưởng này, có nhiều điều quy định
về tổ chức bộ máy nhà nước, cơ chế vận hành,
trách nhiệm, quyền hạn,... bảo đảm thực hiện
các quyền cơ bản của công dân, làm cho nhà
nước thực sự là của dân, do dân và vì dân.
Tóm lại, tuy còn những quy định chưa đủ
cụ thể, chưa thật đồng bộ, tính khả thi chưa
cao, nhưng rõ ràng hệ thống pháp luật của Việt
Nam đã quy định khá đầy đủ và toàn diện về
quyền con người và cơ chế bảo đảm thực hiện
quyền con người. Trong đó có nhiều quy định
tương thích với các chuẩn mực và điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên, thậm chí
có một số quy định còn ưu việt hơn. Hầu hết
các luật, pháp lệnh khi quy định về các chính
sách của Nhà nước đều bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của người dân, bảo
đảm sự hài hòa giữa lợi ích của cá nhân với lợi
ích tập thể, lợi ích của Nhà nước và toàn xã
hội. Ðương nhiên, không phải cứ có pháp luật
là giải quyết được mọi vấn đề, nhưng đây là
điều kiện mang tính quyền lực nhà nước, là cơ
sở pháp lý quan trọng để thực hiện quyền con
người, quyền công dân ở Việt Nam.
Trong hoạt động giám sát việc thực thi pháp
luật:
Việc xây dựng và ban hành các văn bản
pháp luật là rất quan trọng, nhưng quan trọng
hơn là phải làm sao thực thi đúng pháp luật,
làm cho pháp luật đi vào cuộc sống, biến thành
hiện thực sinh động. Trong thời gian qua, Ðảng
và Nhà nước ta đã có nhiều biện pháp chỉ đạo
và tổ chức triển khai thực hiện có kết quả các
chính sách và pháp luật của Nhà nước trong
lĩnh vực bảo vệ và thực hiện quyền con người;
có nhiều việc rất thành công được dư luận
trong nước và quốc tế thừa nhận, đánh giá cao
(như vấn đề đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc người
có công, thương binh, gia đình liệt sĩ, công
tác xóa đói, giảm nghèo, thực hiện bình đẳng
giới, chăm sóc những người có hoàn cảnh khó
khăn, thực hiện các sinh hoạt văn hóa, lễ hội,
tín ngưỡng, tôn giáo,...). Ðó là những thực tế
không ai có thể xuyên tạc được.
Cùng với công tác tuyên truyền phổ biến,
giáo dục pháp luật, theo chức năng, nhiệm vụ
của mình, Quốc hội đã thường xuyên tiến hành
hoạt động giám sát việc thực thi pháp luật, coi
10 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(161) 122009
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
đây là một nhiệm vụ rất quan trọng bảo đảm
cho luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội
được thực hiện trong thực tế. Quốc hội thực
hiện quyền giám sát thông qua các hình thức:
xem xét báo cáo công tác của Chính phủ, Tòa
án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao; giám sát chuyên đề một số lĩnh vực;
giám sát cụ thể một số vụ việc quan trọng; tiến
hành chất vấn,...
Các cuộc giám sát chuyên đề, giám sát
cụ thể liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích
hợp pháp của người dân ngày càng được tăng
cường, như: giám sát việc thi hành Nghị quyết
388 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về bồi
thường thiệt hại cho người bị oan do người có
thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự
gây ra; giám sát công tác đền bù giải phóng
mặt bằng, tạo việc làm cho người dân có đất
bị thu hồi; giám sát việc thực hiện cổ phần hóa
trong các doanh nghiệp nhà nước và bán cổ
phiếu cho người lao động; giám sát việc thực
hiện chính sách pháp luật về phát triển sản
xuất nông nghiệp, nông thôn; giám sát việc
thực hiện các chương trình, mục tiêu quan
trọng quốc gia, xóa đói, giảm nghèo ở vùng
dân tộc ít người và miền núi; giám sát việc di
dân tái định cư tại công trình thủy điện Sơn
La; giám sát về giáo dục phổ thông, về trường
phổ thông dân tộc nội trú; giám sát việc thực
hiện Luật Bảo vệ môi trường ở các khu công
nghiệp, đô thị và bệnh viện lớn; tình trạng
ô nhiễm môi trường ở một số địa phương...
Ðặc biệt, trong năm 2008, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội đã tổ chức giám sát việc chấp hành
pháp luật khiếu nại, tố cáo trong ba năm 2005
- 2007. Qua giám sát, đã phát hiện một số vấn
đề còn bất cập làm hạn chế việc thực hiện
quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, phân
tích các nguyên nhân phát sinh khiếu nại, tố
cáo, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng công tác giải quyết khiếu nại,
tố cáo và kiến nghị của công dân, đồng thời
đề nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của
pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
Có thể thấy rằng, hoạt động giám sát của
Quốc hội đã góp phần quan trọng vào việc
bảo đảm sự hoạt động đúng đắn, có hiệu quả
của các cơ quan nhà nước, thúc đẩy việc thực
hiện các quy định của pháp luật liên quan đến
quyền con người; đồng thời chỉ ra những quy
định của pháp luật còn thiếu hoặc chưa phù
hợp, cần phải sửa đổi, bổ sung để bảo đảm
việc thực thi. Tuy nhiên, hoạt động giám sát
có lúc, có nơi còn hình thức, kết quả mới dừng
ở kiến nghị, kể cả nghị quyết về chất vấn tại
kỳ họp Quốc hội, việc thực hiện kiến nghị sau
giám sát chưa được đôn đốc một cách đầy đủ.
Các cơ quan của Quốc hội còn có những hạn
chế về thời gian và nguồn lực nên việc tổ chức
giám sát các vụ việc cụ thể theo khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị của công dân còn chưa được
nhiều.
Trong thời gian tới, để tiếp tục thực hiện tốt
đường lối, chủ trương của Ðảng về quyền con
người, chúng ta cần nhận thức sâu sắc hơn nữa
về vấn đề này để từ đó khẩn trương xây dựng,
bổ sung các cơ chế chính sách, hoàn thiện hệ
thống pháp luật, nhất là trong lĩnh vực giải
quyết khiếu nại, tố cáo và các kiến nghị của
công dân; trong các hoạt động tố tụng hình sự,
tố tụng dân sự,... Ban hành mới một số đạo luật
để cụ thể hóa đầy đủ hơn những quyền công
dân đã được Hiến pháp năm 1992 quy định;
đồng thời rà soát, bổ sung, sửa đổi những quy
định của pháp luật còn chưa phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội của nước ta. Ðẩy mạnh
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Tăng
cường lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra việc thực thi
pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân; khắc phục các tệ quan liêu, gây
phiền hà, sách nhiễu dân, vi phạm quyền công
dân. Thông qua các hoạt động đối ngoại (kể
cả đối ngoại nghị viện) và công tác thông tin,
tuyên truyền ra nước ngoài, làm cho kiều bào
ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế hiểu rõ, hiểu
đúng những việc làm của Ðảng, Nhà nước và
nhân dân ta trên lĩnh vực này. Ðồng thời kiên
quyết đấu tranh vạch trần những âm mưu đen
tối và bác bỏ những luận điệu xuyên tạc của
các thế lực thù địch muốn sử dụng con bài
“dân chủ”, “nhân quyền” để phá hoại, can
thiệp vào công việc nội bộ nước ta.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quoc_hoi_viet_nam_voi_viec_bao_dam_va_thuc_hien_quyen_con_ng.pdf