Thứ tư, cần bổ sung quy định đối với các
trường hợp người nước ngoài đến Việt Nam để
giảng dạy, chuyển giao kỹ thuật mới, phương
pháp mới trong khám chữa bệnh nhân đạo hoặc
hành nghề khám chữa bệnh nhân đạo trong
một khoảng thời gian ngắn sẽ được thừa nhận
chứng chỉ hành nghề mà người hành nghề đã
được nước xuất xứ cấp và rút ngắn các hồ sơ,
thủ tục đối với những đối tượng.
Thứ năm, cần quy định cụ thể trong nội
dung xác nhận về năng lực chuyên môn, đạo
đức nghề nghiệp của người hành nghề, là
điều kiện để cấp chứng chỉ hành nghề bao
gồm: (i) khả năng thực hiện các kỹ thuật
chuyên môn của người hành nghề (người
hướng dẫn hành nghề phải chịu trách nhiệm
về kết quả khám bệnh, chữa bệnh của người
đăng ký thực hành trong quá trình thực hành),
(ii) có đạo đức nghề nghiệp bao gồm việc
thực hiện nghĩa vụ theo Điều 36,37,38,39 của
Luật khám bệnh, chữa bệnh và việc thực hiện
Quy tắc ứng xử của Bộ y tế. Bên cạnh đó, cần
quy định cụ thể, mỗi người hướng dẫn thực
hành chỉ được hướng dẫn thực hành cho tối
đa 05 người thực hành tại cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh trong cùng một thời gian nhằm
đảm bảo chất lượng về chuyên môn cho
người thực hành.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 282 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quy định điều kiện hành nghề của người hành nghề khám chữa bệnh trong các cơ sở y tế tư nhân hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
32
QUY ĐỊNH ĐIỀU KIỆN HÀNH NGHỀ CỦA NGƯỜI HÀNH NGHỀ
KHÁM CHỮA BỆNH TRONG CÁC CƠ SỞ Y TẾ TƯ NHÂN HIỆN NAY
Đinh Thị Thanh Thủy1
1. Quy định về điều kiện hành nghề đối
với người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh
trong các cơ sở y tế tư nhân
1.1. Điều kiện về chủ thể
Để được tham gia vào quan hệ dịch vụ khám
chữa bệnh, với tư cách là bên cung cấp dịch vụ
khám chữa bệnh, cá nhân hành nghề cung ứng
dịch vụ khám chữa bệnh trước hết phải có năng
lực chủ thể phù hợp. Theo đó, năng lực pháp
luật của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và
chấm dứt khi người đó chết (khoản 3, Điều 16
Bộ luật dân sự 2015); và năng lực hành vi đầy
đủ của cá nhân được xác định là người từ đủ
mười tám tuổi trở lên (người thành niên) không
thuộc trường hợp quy định tại Điều 22, Điều 23,
Điều 24 Bộ luật dân sự 2015 (người mất năng
lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi và người hạn chế
năng lực hành vi dân sự).
Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 (có
hiệu lực từ ngày 01/01/2011) quy định người
hành nghề khám bệnh, chữa bệnh là “người đã
được cấp chứng chỉ hành nghề và thực hiện
khám bệnh, chữa bệnh (sau đây gọi chung là
người hành nghề)”2. Khái niệm người hành
nghề khám bệnh, chữa bệnh được áp dụng
trong các cơ sở y tế công lập và y tế tư nhân.
Trong đó, khám bệnh là “việc hỏi bệnh, khai
thác tiền sử bệnh, thăm khám thực thể, khi cần
thiết thì chỉ định làm xét nghiệm cận lâm sàng,
thăm dò chức năng để chẩn đoán và chỉ định
phương pháp điều trị phù hợp đã được công
nhận” và chữa bệnh là “việc sử dụng phương
pháp chuyên môn kỹ thuật đã được công nhận
và thuốc đã được phép lưu hành để cấp cứu,
điều trị, chăm sóc, phục hồi chức năng cho
người bệnh”3. Như vậy, người hành nghề khám
bệnh, chữa bệnh phải là người được (i) cấp
1 Giảng viên, Trường Đại học Thương mại
2 Khoản 6, Điều 2 Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009.
3 Khoản 1, khoản 2 Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009.
Tóm tắt tiếng Việt: Trong quan hệ khám chữa bệnh của các cơ sở y tế tư nhân, chủ thể cung
ứng trực tiếp các dịch vụ khám chữa bệnh (người hành nghề) tới người bệnh phải đáp ứng các
điều kiện chặt chẽ về hành nghề khám chữa bệnh trước khi được cấp chứng chỉ hành nghề. Bài
viết phân tích các quy định của pháp luật khám bệnh, chữa bệnh về các điều kiện hành nghề
của người khám chữa bệnh trong các cơ sở y tế tư nhân; đánh giá thực trạng thực hiện các quy
định về điều kiện hành nghề của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh và kiến nghị một số
giải pháp hoàn thiện.
Từ khoá: Chứng chỉ hành nghề; điều kiện hành nghề; cơ sở y tế tư nhân; người hành
nghề; đăng ký hành nghề; khám bệnh, chữa bệnh.
Nhận bài: 05/01/2017; Hoàn thành biên tập: 05/02/2017; Duyệt đăng: 30/02/2017
Tóm tắt tiếng Anh:
Abstract: In clinical relationship of private medical establishments, subject directly providing
medical services (workers) to the patient must meet strict conditions of medical practice before
getting Certificate of practicing health care. The article analyzes provisions of the law on giving
health examination and treatment regarding to conditions of the person practicing health care
in private health facilities; assesses status of implementation of the regulations on conditions for
professional practice of medical practitioners, and give some recommendations for finalization.
Keywords: Certificate of practicing health care; conditions of practicing health care; private
medical establishments; medical practitioners; register for practicing health care; health
examination and treatment.
Soá 2/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
33
chứng chỉ hành nghề ; (ii) thực hiện việc khám
bệnh, chữa bệnh cho người bệnh.
1.2. Điều kiện hành nghề của người hành
nghề khám bệnh, chữa bệnh
Người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh khi
đăng ký hành nghề khám bệnh, chữa bệnh, ngoài
các điều kiện về chủ thể thì cần tuân thủ những
nguyên tắc, điều kiện về hành nghề, bao gồm:
1.2.1. Các nguyên tắc đăng ký hành nghề
Thứ nhất, một người hành nghề chỉ được
đăng ký chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật
của một cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, không
được đồng thời làm người chịu trách nhiệm
chuyên môn kỹ thuật từ hai cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh trở lên.
Thứ hai, một người hành nghề chỉ được
đăng ký làm người phụ trách một khoa của một
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh (không được đồng
thời làm người phụ trách từ hai khoa trở lên
trong cùng một cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
hoặc đồng thời làm người phụ trách khoa của
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khác).
Thứ ba, người hành nghề chịu trách nhiệm
chuyên môn kỹ thuật của cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh có thể kiêm nhiệm phụ trách khoa
trong cùng một cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
nhưng chỉ được phụ trách một khoa và phải
phù hợp với văn bằng chuyên môn được đào
tạo của người đó.
Thứ tư, người hành nghề tại cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh được đăng ký làm người chịu
trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật của một cơ
sở khám bệnh, chữa bệnh ngoài giờ.
Thứ năm, người hành nghề tại cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh của Nhà nước không được
đăng ký làm người đứng đầu của bệnh viện tư
nhân hoặc cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được
thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp
và Luật Hợp tác xã, trừ trường hợp được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cử tham gia
quản lý, điều hành tại cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh có phần vốn của Nhà nước4.
Thứ sáu, người hành nghề đã đăng ký
làm người chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ
thuật của một cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
được đăng ký làm việc ngoài giờ tại cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh khác trên cùng địa bàn
tỉnh nhưng tổng thời gian làm ngoài giờ
không quá 200 giờ theo quy định của Bộ luật
lao động.
Thứ bảy, người hành nghề đã đăng ký hành
nghề tại một cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thì
không được đăng ký làm người chịu trách
nhiệm chuyên môn kỹ thuật của cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh trên địa bàn tỉnh khác với nơi
mình đang hành nghề để bảo đảm tính liên tục,
ổn định trong cung cấp dịch vụ khám bệnh,
chữa bệnh.
Thứ tám, người hành nghề đã đăng ký
hành nghề ở một cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
khi thực hiện việc khám bệnh, chữa bệnh theo
chế độ luân phiên cán bộ từ tuyến trên xuống
tuyến dưới, khám bệnh, chữa bệnh nhân đạo
hoặc thực hiện kỹ thuật chuyên môn (ví dụ: hội
chẩn, mổ phiên) theo hợp đồng giữa các cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh thì không phải đăng ký
hành nghề.
1.2.2. Người hành nghề cần tuân thủ các
quy định về nội dung và hình thức đăng ký
hành nghề bao gồm địa điểm, thời gian hành
nghề, vị trí chuyên môn nơi người hành nghề
đảm nhiệm; hình thức đăng ký hành nghề phải
được thực hiện bằng văn bản5.
Quy định tất cả nhân viên y tế, dù là y tế
công lập hay y tế tư nhân đều phải có chứng
chỉ hành nghề khi hành nghề bắt đầu được đề
cập trong Luật khám bệnh, chữa bệnh năm
2009. Quy định về người hành nghề xin cấp
chứng chỉ hành nghề trong khu vực y tế tư
nhân bao gồm: (i) Bác sĩ, y sĩ; (ii) Điều dưỡng
viên (iii) Hộ sinh viên (iv) Kỹ thuật viên (v)
Lương y; (vi) Người có bài thuốc gia truyền
hoặc có phương pháp chữa bệnh gia truyền6.
Quy định về chứng chỉ hành nghề khám
chữa bệnh là yêu cầu bắt buộc đối với người
4 Khoản 13, Điều 6 Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009
5 Điều 11 Thông tư số 41/2011/TT-BYT ngày 14/11/2011của Bộ Y tế về hướng dẫn cấp chứng chỉ hành nghề đối
với người hành nghề và cấp giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
6 Điều 17 Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
34
hành nghề được hầu hết các quốc gia quy định
khá chặt chẽ và Việt Nam cũng không ngoại
lệ. Khoản 4 Luật khám bệnh, chữa bệnh năm
2009 đã nêu rõ: Chứng chỉ hành nghề khám
bệnh, chữa bệnh là “văn bản do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cấp cho người có đủ điều
kiện hành nghề theo quy định của Luật này”.
Người đủ điều kiện hành nghề được chia
thành hai nhóm người: (i) người Việt Nam,
(ii) người nước ngoài, người Việt Nam định
cư ở nước ngoài. Theo đó, Luật khám bệnh,
chữa bệnh cũng quy định những điều kiện để
được cấp chứng chỉ hành nghề với những đối
tượng này.
Người hành nghề sẽ bị thu hồi hoặc đình
chỉ chứng chỉ hành nghề trong các trường hợp
(i) Chứng chỉ hành nghề được cấp không đúng
thẩm quyền; (ii) Chứng chỉ hành nghề có nội
dung trái pháp luật (iii) Người hành nghề
không hành nghề trong thời hạn 02 năm liên
tục (iv) Người hành nghề được xác định có sai
sót chuyên môn kỹ thuật gây hậu quả nghiêm
trọng đến sức khỏe, tính mạng người bệnh (v)
Người hành nghề không cập nhật kiến thức y
khoa liên tục trong thời gian 02 năm liên tiếp
(vi) Người hành nghề không đủ sức khỏe để
hành nghề (vii) Người hành nghề thuộc một
trong các đối tượng quy định tại khoản 4 Điều
18 của Luật khám bệnh, chữa bệnh7.
2. Thực trạng thực hiện các quy định về
điều kiện hành nghề đối với người hành
nghề khám bệnh, chữa bệnh trong các cơ sở
y tế tư nhân - Kiến nghị một số giải pháp
hoàn thiện
2.1. Thực trạng thực hiện các quy định
về điều kiện hành nghề đối với người hành
nghề khám bệnh, chữa bệnh trong các cơ sở
y tế tư nhân
Thông qua việc quy định các điều kiện
hành nghề đối với người hành nghề khám
bệnh, chữa bệnh trong các cơ sở y tế tư nhân
đã có những tác động tích cực và hiệu quả
trong việc quản lý, hội nhập và nâng cao chất
lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của nước
ta trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời, các
điều kiện chặt chẽ đối với người hành nghề đã
góp phần hiệu quả trong việc đảm bảo quyền
được chăm sóc, khám và chữa bệnh an toàn,
chất lượng của người bệnh. Hơn nữa, trong bối
cảnh Việt Nam đã ký một số cam kết thỏa
thuận cùng thừa nhận lẫn nhau giữa các nước
ASEAN về điều kiện người hành nghề là bác
sĩ, nha sĩ và điều dưỡng, việc thực hiện cấp
chứng chỉ hành nghề cho người hành nghề và
cấp giấy phép hoạt động cho cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh theo quy định của Luật khám bệnh,
chữa bệnh là một yếu tố quan trọng giúp Việt
Nam hội nhập với các nước trong khu vực và
trên thế giới.
Bên cạnh những kết quả đạt được nói trên,
trong giai đoạn hiện nay, nhiều quy định của
pháp luật liên quan đến điều kiện hoạt động
của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh,
trong đó có quy định về điều kiện hành nghề
đã bộc lộ nhiều bất cập, cụ thể:
2.1.1. Quy định về thời hạn và điều kiện
của chứng chỉ hành nghề:
Theo quy định của Luật khám bệnh, chữa
bệnh năm 2009, việc cấp chứng chỉ hành nghề
chỉ cấp một lần và có giá trị vĩnh viễn (Điều 25
Luật khám bệnh, chữa bệnh). Quy định này
được xem là tạo điều kiện thuận lợi cho việc
cấp và thu hồi chứng chỉ hành nghề với tư cách
là thủ tục hành chính nhưng lại không phù hợp
với yêu cầu hội nhập quốc tế, đó là yêu cầu
phải thừa nhận lẫn nhau về chứng chỉ hành
nghề khi hội nhập vào khu vực kinh tế chung.
Vì sự khác biệt trên, bác sĩ ở Việt Nam hiện
nay vẫn chưa được công nhận hành nghề khi
ra nước ngoài. Nhiều dự án ODA về y tế trong
khu vực ASEAN cũng bị cắt giảm. Quy định
này dẫn đến việc nhiều bác sĩ, y tá thường
khám và điều trị theo thói quen, kinh nghiệm
và những kiến thức cũ, trong khi các mô hình
bệnh, diễn biến bệnh hiện nay đã trở nên rất
phức tạp, làm người bệnh phải kéo dài thời
gian điều trị, gây tốn kém về tiền bạc và thời
gian, hoặc nguy hiểm về tính mạng cho người
bệnh. Đồng thời, chứng chỉ hành nghề “vô thời
hạn” khiến cho việc kiểm tra, giám sát các tiêu
7 Điều 29 Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009.
Soá 2/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
35
chuẩn, điều kiện hoạt động của các cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh tư nhân cũng như trình độ
chuyên môn của người hành nghề trong thực
tiễn của cơ quan quản lý Nhà nước gặp nhiều
khó khăn. Hiện nay, đa số các nước phát triển
đều quy định về gia hạn hoặc định kỳ cấp lại
chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh
của người hành nghề nhằm để đảm bảo người
hành nghề bên cạnh những kinh nghiệm, kiến
thức đã có vẫn phải liên tục học hỏi những
phương thức điều trị mới của y khoa trong
nước cũng như trên thế giới trong khám bệnh,
chữa bệnh. Tại Việt Nam, việc xét cấp chứng
chỉ hành nghề chỉ căn cứ vào hồ sơ mà không
tổ chức kiểm tra lý thuyết và thực hành sát
hạch tay nghề, không gắn với đào tạo liên tục
ảnh hưởng đến chất lượng nhân lực chuyên
môn về y tế và gây khó khăn cho việc đánh giá
năng lực của Bộ y tế khi tiến hành các thủ tục
cấp mới hoặc cấp lại, thu hồi chứng chỉ hành
nghề, do đó, thực chất việc cấp chứng chỉ
hành nghề vẫn chỉ mang tính hình thức. Bên
cạnh đó, quy định này chỉ đáp ứng yêu cầu đơn
giản hóa thủ tục, thuận lợi cho việc xét cấp
chứng chỉ hành nghề cho nhân viên y tế trong
thời gian ngắn nhưng không phù hợp với
những đòi hỏi khắt khe về chuyên môn của
ngành y và xu hướng chung của thế giới. Việt
Nam không có quy định về thi quốc gia để xem
xét cấp chứng chỉ hành nghề trong khi đa số
các nước đã thực hiện như một phương thức
bắt buộc để kiểm soát chất lượng hành nghề
của nhân viên y tế.
2.1.2. Quy định về văn bản xác nhận quá
trình thực hành của người hành nghề:
Hệ thống văn bản pháp quy về khám bệnh,
chữa bệnh đã bộc lộ nhiều vấn đề bất cập,
chưa phù hợp với thực tế như quy định về bắt
buộc người đăng ký hành nghề phải trải qua
thời gian thực hành lâm sàng nhất định tại các
cơ sở y tế nhưng không quy định cụ thể về nội
dung, yêu cầu năng lực đầu ra và cơ chế theo
dõi, đánh giá năng lực chuyên môn và kỹ năng
thực hành. Yêu cầu đối với văn bản xác nhận
quá trình thực hành của người hành nghề gồm
03 nội dung chính: (i) xác nhận về thời gian
thực hành; (ii) xác nhận năng lực chuyên môn;
(iii) xác nhận đạo đức nghề nghiệp. Tuy nhiên,
trên thực tế, việc xác nhận này còn định tính,
chưa có tiêu chí cụ thể như năng lực chuyên
môn được đánh giá qua những yếu tố nào;
chưa giới hạn số người hướng dẫn thực hành
cho người hành nghề nhằm đảm bảo chất
lượng và chuyên môn thực hành; nhiều cơ sở
thực hành coi việc xác nhận quá trình thực
hành chỉ là hình thức, chưa ràng buộc trách
nhiệm của người đứng đầu cơ sở y tế đối với
quá trình khám bệnh, chữa bệnh của người
đăng ký thực hành trong quá trình thực hành.
Bên cạnh đó, trước đây, theo Thông tư
41/2011/TT-BYT thì thời gian học định hướng
chuyên khoa và sau đại học đều tính vào thời
gian thực hành. Thông tư 41/2015/TT-BYT
sửa đổi bổ sung Thông tư 41/2011/TT-BYT
vẫn quy định thời gian học định hướng chuyên
khoa và sau đại học được tính là thời gian thực
hành nhưng quy định rõ là áp dụng với trường
hợp học bác sĩ nội trú, chuyên khoa cấp 1, 2.
Thời gian học thạc sĩ và tiến sĩ y khoa sẽ
không được tính là thời gian thực hành dù đó
cũng là hình thức đào tạo sau đại học. Mục
đích của các nhà lập pháp nhằm tách bạch hệ
thống đào tạo về y học lâm sàng và đào tạo
phục vụ nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, trên
thực tế, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về
cơ chế đào tạo đối với các đối tượng người
hành nghề và đối tượng nghiên cứu khoa học
trong y học.
2.1.3. Về khái niệm “chứng chỉ hành nghề”:
Việt Nam là một trong ít nước (Singapore,
Malaysia..) sử dụng cụm từ “chứng chỉ hành
nghề”, còn các nước phần lớn sử dụng cụm từ
“giấy phép hành nghề”. Thuật ngữ “chứng
chỉ” dễ gây hiểu lầm là loại giấy tờ này được
cấp một lần và không bị thu hồi. Hoặc quan
điểm cho rằng chứng chỉ hành nghề là văn bản
chứng nhận về trình độ chuyên môn đủ khả
năng hành nghề của người hành nghề8 (ở đây
8 Luật gia Vũ Xuân Tiến, Chứng chỉ hành nghề là gì?
218961.bld
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
36
là hành nghề khám bệnh, chữa bệnh). Rõ ràng,
với đặc thù của dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh
liên quan trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng
của con người, trình độ chuyên môn của người
hành nghề nếu không được liên tục đào tạo,
thực hành và học hỏi thì quan điểm cho rằng
cứ có chứng chỉ hành nghề là có đủ khả năng
chuyên môn khám bệnh, chữa bệnh thật sự
đáng lo ngại. Bên cạnh đó, Việt Nam hiện chỉ
cấp 1 loại chứng chỉ hành nghề cho người
hành nghề khám bệnh, chữa bệnh trong khi số
đông các nước đều cấp nhiều loại giấy phép
hành nghề nhằm đảm bảo vị thế pháp lý cho
nhiều hình thức hành nghề, nhiều nhóm tham
gia hành nghề trong thực tế, ví dụ giấy phép
hành nghề hạn chế (tiền hành nghề) cấp trong
thời gian thực tập cho đối tượng bác sĩ y khoa
(sau khi tốt nghiệp cử nhân y khoa và được
đào tạo tiếp để hành nghề khám bệnh, chữa
bệnh); giấy phép hành nghề cho bác sĩ đa khoa
sau khi thi đỗ kỳ thi quốc gia về chứng chỉ
hành nghề
Để khắc phục những hạn chế của việc cấp
chứng chỉ một lần, Luật khám bệnh, chữa
bệnh và Thông tư số 41/2011/TT-BYT đã quy
định nếu người hành nghề không cập nhật kiến
thức y khoa liên tục trong thời hạn 02 năm liên
tiếp hoặc không hành nghề trong 02 năm liên
tục thì sẽ thuộc các trường hợp phải thu hồi
chứng chỉ hành nghề. Tuy nhiên, trên thực tế
quy định này hầu như không có tính khả thi vì
cơ quan quản lý Nhà nước không dễ dàng
kiểm soát được hoạt động của những người
hành nghề khám bệnh, chữa bệnh với đủ các
chức danh như bác sĩ, điều dưỡng, kỹ thuật
viên trong khu vực y tế tư nhân. Hơn nữa
những cơ sở đủ điều kiện tiến hành đào tạo
liên tục cho cán bộ y tế theo Thông tư
22/2013/TT-BYT không nhiều, hiện chỉ giới
hạn trong khu vực y tế công, chính điều này
đã không tạo ra động lực cho người hành nghề
khám bệnh, chữa bệnh phấn đấu học tập nâng
cao trình độ chuyên môn.
2.2. Kiến nghị một số giải pháp nhằm
hoàn thiện quy định của pháp luật về điều
kiện hành nghề của người hành nghề khám
bệnh, chữa bệnh hiện nay
Thứ nhất, liên quan đến quy định về cấp
chứng chỉ hành nghề của người hành nghề
trong Luật khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 và
Thông tư 41/2011/TT-BYT ngày 14/11/2011
của Bộ Y tế về hướng dẫn cấp chứng chỉ hành
nghề đối với người hành nghề, cần sửa đổi theo
hướng chứng chỉ hành nghề sau khi được cấp
chỉ có thời hạn trong vòng 05 (năm) năm, cứ
định kỳ 05 năm sẽ thi hoặc sát hạch lại. Mục
đích nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, đạo
đức nghề nghiệp đối với người hành nghề, và
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tiếp tục hoàn thiện
bảo đảm an toàn cho người bệnh và tạo cơ sở
pháp lý cho các cơ quan quản lý Nhà nước
trong thanh kiểm tra chứng chỉ hành nghề và
giấy phép hoạt động. Thời hạn 05 năm cấp
phép lại là phù hợp với các lý do:
(i) Thời hạn 05 năm là đủ để các cơ sở y tế
thực hiện các giải pháp nhằm nâng cấp, cải tạo
cơ sở vật chất, trang thiết bị, nguồn nhân lực và
cải thiện cơ chế quản lý phù hợp với các tiêu
chí và điều kiện cấp phép hoạt động.
(ii) Khoảng thời gian 5 năm cũng là khoảng
thời gian mà cần có những thay đổi về các điều
kiện cấp phép cho phù hợp với sự tiến bộ về
khoa học kỹ thuật.
(iii) Khoảng thời gian này cũng phù hợp
với các chu kỳ về tài chính, quản lý, đầu tư của
Nhà nước.
Thứ hai, quy định của Luật khám bệnh,
chữa bệnh năm 2009 chưa đề cập đến việc
người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh được
bổ sung hoặc thay đổi phạm vi chuyên môn
của họ, vì vậy trong thời gian tới, khi sửa
luật, cần đưa quy định có thể bổ sung hoặc
thay đổi phạm vi hoạt động chuyên môn
trong chứng chỉ hành nghề, vì trong thực tế
khi yêu cầu người hành nghề khám bệnh,
chữa bệnh phải thường xuyên học tập để
nâng cao trình độ, nhu cầu tất yếu là họ có
thể mở rộng hay thay đổi chuyên môn khám
bệnh, chữa bệnh.
Thứ ba, liên quan đến quá trình thực hành
của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh
hiện nay. Quá trình thực hành là một trong
những điều kiện phải có để được cấp chứng chỉ
hành nghề. Trong đó, thời gian thực hành của
Soá 2/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
37
người hành nghề theo quy định hiện hành là (i)
18 tháng thực hành tại bệnh viện, việc nghiên
cứu có giường bệnh (sau đây gọi chung là bệnh
viện) đối với bác sỹ; (ii) 12 tháng thực hành tại
bệnh viện đối với y sỹ; (iii) 09 tháng thực hành
tại bệnh viện có khoa phụ sản hoặc tại nhà hộ
sinh đối với hộ sinh viên hoặc tại cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh đối với điều dưỡng viên, kỹ
thuật viên. Tuy nhiên, số lượng các thầy thuốc
có tuổi đời rất trẻ (tốt nghiệp đại học y và có
thời gian thực hành theo quy định và các điều
kiện để được cấp chứng chỉ hành nghề) nhưng
lại không đi đôi với chất lượng chuyên môn
trong khám bệnh, chữa bệnh, ảnh hưởng trực
tiếp đến sức khỏe, tính mạng người bênh đang
là vấn đề “cấp thiết” cần được nghiên cứu, sửa
đổi quy định của pháp luật.
Thứ tư, cần bổ sung quy định đối với các
trường hợp người nước ngoài đến Việt Nam để
giảng dạy, chuyển giao kỹ thuật mới, phương
pháp mới trong khám chữa bệnh nhân đạo hoặc
hành nghề khám chữa bệnh nhân đạo trong
một khoảng thời gian ngắn sẽ được thừa nhận
chứng chỉ hành nghề mà người hành nghề đã
được nước xuất xứ cấp và rút ngắn các hồ sơ,
thủ tục đối với những đối tượng.
Thứ năm, cần quy định cụ thể trong nội
dung xác nhận về năng lực chuyên môn, đạo
đức nghề nghiệp của người hành nghề, là
điều kiện để cấp chứng chỉ hành nghề bao
gồm: (i) khả năng thực hiện các kỹ thuật
chuyên môn của người hành nghề (người
hướng dẫn hành nghề phải chịu trách nhiệm
về kết quả khám bệnh, chữa bệnh của người
đăng ký thực hành trong quá trình thực hành),
(ii) có đạo đức nghề nghiệp bao gồm việc
thực hiện nghĩa vụ theo Điều 36,37,38,39 của
Luật khám bệnh, chữa bệnh và việc thực hiện
Quy tắc ứng xử của Bộ y tế. Bên cạnh đó, cần
quy định cụ thể, mỗi người hướng dẫn thực
hành chỉ được hướng dẫn thực hành cho tối
đa 05 người thực hành tại cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh trong cùng một thời gian nhằm
đảm bảo chất lượng về chuyên môn cho
người thực hành.
Thứ sáu, thực hiện kiểm tra sát hạch
chuyên môn là cơ sở để quản lý trình độ
chuyên môn về cả lý thuyết và thực hành trước
khi hành nghề cùng với việc chứng chỉ hành
nghề cho tất cả các đối tượng hành nghề. Điều
này sẽ đảm bảo được mặt bằng chất lượng
chuyên môn và an toàn trong khám chữa bệnh
giữa các vùng, miền, khu vực trên cả nước,
thúc đẩy nâng cao trình độ chuyên môn và là
một trong những yếu tố đảm bảo cho người
dân trên toàn quốc được hưởng dịch vụ y tế
chất lượng như nhau. Mặt khác, đối với quản
lý nhà nước, đây cũng là cơ sở để cho quản lý
chất lượng chuyên môn và an toàn điều trị tốt
hơn. Như vậy, với quy định này thì tất cả các
cá nhân muốn hành nghề khám bệnh, chữa
bệnh cả trong cơ sở y tế nhà nước và tư nhân
đều sẽ được bình đẳng trước pháp luật trong
vấn đề đảm bảo về trình độ chuyên môn và
thực hành khi hành nghề trên toàn quốc và
được quản lý hành nghề một cách chăt chẽ.
Việc thi sát hạch chuyên môn và cấp chứng chỉ
hành nghề đã được hầu hết các nước trên thế
giới áp dụng và là một xu thế tất yếu trong
việc quản lý hành nghề chuyên môn của các
cá nhân. Trong số các nước thuộc khu vực
ASEAN hiện chỉ còn 2 nước là Việt Nam và
Lào là chưa triển khai thực hiện các quy định
này. Việc đào tạo để lấy văn bằng chỉ thể hiện
trình độ đào tạo, không thể coi là điều kiện để
được cấp chứng chỉ hành nghề mà chỉ là một
trong các điều kiện để người hành nghề thi
chứng chỉ hành nghề. Đặc biệt, Cộng đồng
kinh tế ASEAN đã chính thức thành lập vào
ngày 31/12/2015, theo đó trong lĩnh vực y tế
có 03 ngành nghề được tự do di chuyển trong
khối theo Thỏa thuận khung công nhận lẫn
nhau, đó là nha sĩ, bác sĩ và điều dưỡng. Khi
đó, các chuyên gia y tế có trình độ cao của các
nước trong khu vực sẽ đến Việt Nam khám
chữa bệnh, người bệnh sẽ được các bác sĩ có
trình độ cao tại Việt Nam điều trị thay vì phải
ra nước ngoài điều trị với chi phí rất tốn kém
và mất thời gian, đất nước cũng không bị
“chảy máu ngoại tệ”. Ngược lại, các bác sĩ
Việt Nam khi ra nước ngoài khám chữa bệnh
cũng phải tuân thủ các quy định hành nghề của
nước sở tại. Do đó, để phù hợp với thông lệ
quốc tế, cần chỉnh sửa, bổ sung quy định về
thi chứng chỉ hành nghề trong Luật khám
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
38
bệnh, chữa bệnh theo hướng cần phải có kỳ thi
quốc gia để cấp chứng chỉ hành nghề./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ chính trị (2005), Nghị quyết số 46-
NQ/TW ngày 23/2/2005 về công tác bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong
tình hình mới, Hà Nội.
Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009.
Bộ Y tế (2011), Thông tư số 41/2011/TT-
BYT ngày 14/11/2011 của Bộ trưởng Bộ Y tế
hướng dẫn cấp chứng chỉ hành nghề đối với
người hành nghề và cấp giấy phép hoạt động
đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, Hà Nội.
Bộ Y tế (2015), Thông tư số 41/2015/TT-
BYT ngày 16/11/2015 về Sửa đổi, bổ sung một
số điều của Thông tư số 41/2011/TT-BYT ngày
14/11/2011 của Bộ trưởng Bộ Y tế hướng dẫn
cấp chứng chỉ hành nghề đối với người hành
nghề và cấp giấy phép hoạt động đối với cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh, Hà Nội.
Bộ Y tế (2015), Báo cáo số 63/BC-BYT
ngày 15/3/2015 về quản lý nhà nước đối với
việc cấp chứng chỉ hành nghề và giấy phép
hoạt động theo quy định của Luật khám bệnh,
chữa bệnh, Hà Nội.
Mai Danh, Bất cập chứng chỉ hành nghề
đối với cán bộ y tế, nguồn:
cap-chung-chi-hanh-nghe-doi-voi-can-bo-y-
te.aspx
4. Hình thức đơn yêu cầu
Đơn yêu cầu phải có các nội dung chính
theo Điều 362 BLTTDS năm 2015. Theo quy
định tại Điều 165 BLTTDS năm 2004 (sửa
đổi, bổ sung năm 2011) thì khi khởi kiện vụ án
dân sự, người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn
khởi kiện tài liệu, chứng cứ để chứng minh
cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và
hợp pháp. Xuất phát từ thực tiễn giải quyết vụ
án dân sự cho thấy, với cơ chế quản lý hành
chính và trình độ hiểu biết pháp luật của
đương sự hiện nay thì quy định này là rào cản
đối với quyền khởi kiện của đương sự. Do đó,
khoản 5 Điều 189 BLTTDS năm 2015 đã sửa
quy định này theo hướng, kèm theo đơn khởi
kiện người có thể chỉ phải nộp tài liệu, chứng
cứ hiện có để chứng minh quyền, lợi ích hợp
pháp của người khởi kiện bị xâm phạm8. Tuy
nhiên, khoản 5 Điều 362 BLTTDS năm 2015
quy định : “Kèm theo đơn yêu cầu, người yêu
cầu phải gửi tài liệu, chứng cứ để chứng
minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và
hợp pháp”. Như vậy, quy định này chưa thực
sự bảo đảm quyền bình đẳng của đương sự
trong việc dân sự và đương sự trong vụ án
dân sự nên Nghị quyết hướng dẫn thi hành
BLTTDS năm 2015 nên hướng dẫn khoản 5
Điều 362 BLTTDS năm 2015 như sau: “Kèm
theo đơn yêu cầu, người yêu cầu gửi cho Tòa
án tài liệu, chứng cứ hiện có để chứng minh
cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp
pháp”.
Trên đây là nghiên cứu của tác giả về thủ
tục yêu cầu, thụ lý việc dân sự và một số kiến
nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này nhằm
bảo đảm quyền con người, quyền công dân
của đương sự, rất mong nhận được ý kiến trao
đổi của quý bạn đọc./.
8 Kèm theo đơn khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị
xâm phạm. Trường hợp vì lý do khách quan mà người khởi kiện không thể nộp đầy đủ tài liệu, chứng cứ kèm theo
đơn khởi kiện thì họ phải nộp tài liệu, chứng cứ hiện có để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện
bị xâm phạm. Người khởi kiện bổ sung hoặc giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ khác theo yêu cầu của Tòa án trong
quá trình giải quyết vụ án.
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN CÔNG DÂN CỦA ĐƯƠNG SỰ
TRONG THỦ TỤC YÊU CẦU VÀ THỤ LÝ VIỆC DÂN SỰ
(Tiếp theo trang 31)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quy_dinh_dieu_kien_hanh_nghe_cua_nguoi_hanh_nghe_kham_chua_b.pdf