Thứ tư, quy định của Điều 222 BLLĐ
năm 2012 về việc xử lý cuộc đình công không
đúng trình tự, thủ tục là chưa rõ ràng, chưa
hợp lý. Điều này thể hiện ở chỗ: i) Chưa quy
định rõ thủ tục thực hiện như thế nào để Chủ
tịch UBND cấp tỉnh có thể ra được quyết
định tuyên bố cuộc đình công vi phạm trình
tự, thủ tục; ii) Liệu có mất quá nhiều thời
gian để thực hiện việc này hay không; iii)
Liệu có cần thiết đến mức việc xử lý cuộc
đình công không đúng trình tự, thủ tục phải
do Chủ tịch UBND cấp tỉnh thực hiện hay
không? Xử lý trách nhiệm của Công đoàn và
người lao động tham gia đình công vi phạm
trình tự, thủ tục mà gây thiệt hại cho người
sử dụng lao động như thế nào?
Theo chúng tôi, nên giao việc này cho
Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã
hội thực hiện, đồng thời quy định rõ trình
tự, thủ tục thực hiện và bổ sung quy định
xử lý trách nhiệm của Công đoàn và người
lao động tham gia đình công vi phạm trình
tự, thủ tục mà gây thiệt hại cho người sử
dụng lao động. Việc giao cho Sở Lao động -
Thương binh và Xã hội thực hiện là phù hợp
vì đây là cơ quan chuyên môn của UBND
cấp tỉnh, trực tiếp theo dõi, quản lý nhà
nước về lao động trên địa bàn tỉnh, có thể
thực hiện một cách nhanh chóng nhất, tránh
kéo dài việc đình công vi phạm trình tự, thủ
tục luật định, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp
pháp của các bên và lợi ích chung của Nhà
nước, xã hội. Quy định cụ thể trình tự, thủ
tục tiến hành đảm bảo cho việc tổ chức thực
hiện bài bản, nhanh chóng và tránh tùy tiện.
Quy định việc xử lý trách nhiệm của Công
đoàn và người lao động tham gia đình công
vi phạm trình tự, thủ tục gây thiệt hại cho
người sử dụng lao động đảm bảo bình đẳng,
công bằng về quyền và nghĩa vụ của người
lao động và người sử dụng lao động, đồng
thời răn đe và hạn chế các cuộc đình công vi
phạm pháp luật.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 338 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quy định hiện hành về quyền đình công của người lao động và các khuyến nghị hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Bài viết phân tích các quy định hiện hành về quyền đình công của
người lao động và đưa ra một số khuyến nghị sửa đổi, hoàn thiện các
quy định này trong Bộ luật Lao động (BLLĐ).
QUY ÑÒNH HIEÄN HAØNH VEÀ QUYEÀN ÑÌNH COÂNG CUÛA
NGÖÔØI LAO ÑOÄNG VAØ CAÙC KHUYEÁN NGHÒ HOAØN THIEÄN
Lê Thị Hoài Thu*
Abstract:
This article provides analysis of the existing regulations on the rights to
strike of employees and provides recommendations for improvements
in the coming time.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: đình công, công đoàn,
người lao động, người sử dụng lao
động, Bộ luật Lao động.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 28/04/2017
Biên tập: 31/05/2017
Duyệt bài: 13/06/2017
Article Infomation:
Keywords:
Strike, Union, Employee, Employer,
Labor Code.
Article History:
Received: 28 Apr. 2017
Edited: 31 May 2017
Appproved: 13 Jun 2017
* PGS,TS, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
1. Những ưu điểm
Thứ nhất, các quy định về quyền đình
công của người lao động trong BLLĐ năm
2012 khá đầy đủ.
Các quy định về đình công hiện nay
bao gồm: khái niệm và nguồn gốc của đình
công (Điều 209); thời điểm người lao động
có quyền tiến hành đình công (khoản 3 Điều
206); chủ thể tổ chức và lãnh đạo đình công
(Điều 210); trình tự, thủ tục đình công (từ
Điều 211 đến Điều 213); quyền của các bên
trước và trong quá trình đình công (Điều
214); những trường hợp đình công bất hợp
pháp (Điều 215); tiền lương và các quyền
lợi hợp pháp khác của người lao động trong
thời gian đình công (Điều 218); hành vi bị
cấm trước, trong và sau khi đình công (Điều
219); các trường hợp không được đình công
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
22 Số 13(341) T7/2017
(Điều 220); việc hoãn đình công, ngừng
đình công (Điều 221); xử lý cuộc đình công
không đúng trình tự, thủ tục (Điều 222);
việc đóng cửa tạm thời nơi làm việc (Điều
216 và Điều 217).
Thứ hai, lần đầu tiên BLLĐ quy định
khái niệm đình công.
Khoản 1 Điều 209 BLLĐ năm 2012
quy định: “Đình công là sự ngừng việc tạm
thời, tự nguyện và có tổ chức của tập thể
lao động nhằm đạt được yêu cầu trong quá
trình giải quyết tranh chấp lao động”. Điểm
thành công của quy định này là chỉ ra được
bản chất của đình công (sự ngừng việc tạm
thời), tính chất của đình công (tự nguyện
và có tính tổ chức), chủ thể của quyền đình
công (tập thể lao động) và mục đích sử dụng
quyền đình công của tập thể lao động (nhằm
đạt được yêu cầu trong quá trình giải quyết
tranh chấp lao động). Việc quy định khái
niệm đình công như trên có tác dụng lớn
trong việc nhận diện đình công, thống nhất
cách nhìn nhận về đình công và có thể phân
biệt được đình công với một số hiện tượng
khác có thể xảy ra trong quá trình lao động
như bỏ việc, làm việc cầm chừng, làm việc
chiếu lệ, ngừng việc tập thể, phản ứng tập
thể
Thứ ba, chủ thể tổ chức và lãnh đạo
đình công đã được quy định theo hướng mở,
phù hợp với thực tế hoạt động đại diện của
người lao động ở Việt Nam.
Trước đây, chỉ Ban chấp hành công
đoàn cơ sở mới có quyền tổ chức, lãnh đạo
đình công. Nếu cuộc đình công không do
Ban chấp hành công đoàn cơ sở tổ chức và
lãnh đạo thì sẽ bị coi là bất hợp pháp. Quy
định này vô tình đã “tước đi” quyền đình
công hoặc cơ hội đình công hợp pháp của
phần lớn người lao động làm việc tại các
doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân.
Bởi vì, thực tế số lượng các doanh nghiệp
thuộc khu vực này có tổ chức công đoàn
cơ sở là rất thấp, người lao động muốn sử
dụng quyền đình công của mình cũng không
có người có thẩm quyền đứng ra tổ chức
và lãnh đạo. Nhìn từ phương pháp tiếp cận
trên quyền thì quy định này là bất hợp lý và
không đảm bảo công bằng, bình đẳng cho
người lao động. Vì vậy, BLLĐ năm 2012 đã
quy định theo hướng mở. Cụ thể, theo quy
định tại Điều 210 BLLĐ năm 2012, tại các
doanh nghiệp có tổ chức công đoàn cơ sở thì
đình công do Ban chấp hành công đoàn cơ
sở tổ chức và lãnh đạo, tại các doanh nghiệp
chưa thành lập tổ chức công đoàn cơ sở thì
đình công do Ban chấp hành công đoàn cấp
trên trực tiếp của công đoàn cơ sở tổ chức
và lãnh đạo nếu người lao động có yêu cầu.
Quy định này thực sự tạo cơ hội lớn cho
người lao động tại các doanh nghiệp chưa
thành lập tổ chức công đoàn cơ sở khi họ
muốn sử dụng quyền đình công của mình.
Thứ tư, BLLĐ năm 2012 đã tách các
quy định về trình tự, thủ tục đình công ra
khỏi các trường hợp đình công bị coi là bất
hợp pháp. Nói cách khác, theo quy định của
BLLĐ năm 2012, cuộc đình công vi phạm
các quy định của pháp luật về trình tự, thủ
tục tiến hành đình công không bị coi là bất
hợp pháp như quy định của BLLĐ năm 1994
(sửa đổi, bổ sung năm 2002 và năm 2006).
Nhìn từ góc độ bảo vệ người lao động
nói chung, bảo vệ quyền đình công của
người lao động nói riêng thì đây được coi
là thành công của BLLĐ năm 2012, vì quy
định này làm tăng cơ hội đình công hợp
pháp cho người lao động, từ đó góp phần
vào “thắng lợi” trong cuộc đấu tranh giành
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
23Số 13(341) T7/2017
quyền lợi của người lao động1. Đồng bộ với
quy định này, Điều 222 BLLĐ quy định về
cách thức giải quyết cuộc đình công xảy ra
có vi phạm quy định của pháp luật về trình
tự, thủ tục đình công.
Thứ năm, lần đầu tiên BLLĐ quy định
cụ thể về trình tự, thủ tục đình công.
Theo Điều 211 BLLĐ năm 2012, trình
tự đình công gồm ba bước (ba giai đoạn):
lấy ý kiến tập thể lao động về đình công,
ra quyết định đình công và tiến hành đình
công. Tiếp đó, BLLĐ cũng có quy định cụ
thể về thủ tục lấy ý kiến của tập thể lao động
về đình công (Điều 212) và thủ tục ra quyết
định đình công và thông báo thời điểm bắt
đầu đình công (Điều 213).
Thứ sáu, quy định cụ thể cách giải
quyết tiền lương và các quyền lợi hợp pháp
khác cho người lao động trong thời gian
đình công.
Theo quy định của Điều 218 BLLĐ
năm 2012, người lao động không tham gia
đình công nhưng phải ngừng việc vì lý do
đình công thì được trả lương ngừng việc
theo mức do hai bên thỏa thuận và được
hưởng các quyền lợi khác theo quy định của
pháp luật về lao động; người lao động tham
gia đình công không được trả lương và các
quyền lợi khác theo quy định của pháp luật,
trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác.
Quy định này có sự phân biệt cần thiết về
quyền lợi giữa người lao động tham gia đình
công và người lao động không tham gia đình
công, đảm bảo mối quan hệ hài hòa về lợi
ích giữa người lao động và người sử dụng
lao động.
Thứ bảy, lần đầu tiên BLLĐ quy định
về đóng cửa tạm thời nơi làm việc. Theo
đó, Điều 216 BLLĐ năm 2012 quy định về
thông báo quyết định đóng cửa tạm thời nơi
làm việc, Điều 217 quy định về các trường
hợp cấm đóng cửa tạm thời nơi làm việc.
Nếu chỉ nhìn từ quyền lợi của người
lao động tham gia đình công thì có thể cho
rằng, quy định về quyền tạm thời đóng cửa
nơi làm việc của người sử dụng lao động
sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao
động. Tuy nhiên, cần nhận thức rằng, không
thể vì đảm bảo quyền lợi của người lao động
mà bỏ qua quyền lợi hợp pháp của người
sử dụng lao động. Việc cho phép người sử
dụng lao động đóng cửa tạm thời nơi làm
việc là cần thiết, tránh những tổn thất mà
cuộc đình công có thể gây ra. Việc đóng cửa
tạm thời nơi làm việc cũng có tác dụng trong
việc tránh sự quá khích của người lao động,
dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật, đồng
thời bảo vệ chỗ làm việc cho người lao động
sau đình công. Hơn nữa, cùng với quy định
quyền đóng cửa tạm thời nơi làm việc của
người sử dụng lao động, BLLĐ cũng quy
định các trường hợp cấm đóng cửa tạm thời
nơi làm việc để tránh ảnh hưởng tới việc làm
và thu nhập của người lao động (bao gồm
các trường hợp: trước 12 giờ so với thời
điểm bắt đầu đình công ghi trong quyết định
đình công; sau khi tập thể lao động ngừng
đình công).
1 Từ trước đến nay, trong các báo cáo chính thức và thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng cho thấy, hầu như
tất cả các cuộc đình công đã diễn ra tại Việt Nam đều vi phạm về trình tự, thủ tục. Nếu giữ nguyên quy định về đình
công bất hợp pháp như trước đây thì các cuộc đình công này đều bị coi là đình công bất hợp pháp, cả người lãnh đạo
đình công và người tham gia đình công đều có thể phải gánh chịu các hậu quả pháp lý nhất định do đình công bất hợp
pháp gây ra.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
24 Số 13(341) T7/2017
2. Một số tồn tại, hạn chế và khuyến nghị
hoàn thiện
Bên cạnh những thành công cơ bản
nêu trên, các quy định của BLLĐ năm 2012
về quyền đình công của người lao động
cũng còn một số tồn tại, hạn chế cần tiếp tục
trao đổi, nghiên cứu và hoàn thiện trong thời
gian tới.
Thứ nhất, người lao động không được
đình công khi có tranh chấp lao động tập thể
về quyền.
Một trong những trường hợp đình
công bị coi là bất hợp pháp được quy định
tại Điều 215 BLLĐ năm 2012 là “Cuộc đình
công không phát sinh từ tranh chấp lao động
tập thể về lợi ích”. Điều này có nghĩa là Nhà
nước không cho phép người lao động được
đình công khi có tranh chấp lao động tập
thể về quyền(1). Quy định này được luận giải
rằng, tranh chấp lao động tập thể về quyền là
tranh chấp gắn với vi phạm của một trong hai
bên hoặc cả hai bên (vi phạm thỏa ước tập
thể, nội quy, quy chế, pháp luật). Vì vậy,
khi có tranh chấp lao động tập thể về quyền,
nếu không giải quyết được bằng hòa giải tại
cơ sở, bằng thủ tục giải quyết của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân (UBND) cấp huyện, thì các
bên có quyền khởi kiện ra tòa án nhân dân;
tòa án nhân dân căn cứ vào pháp luật, án lệ,
tập quán phân xử đúng, sai của từng bên
và quyết định giải quyết nội dung vụ tranh
chấp sẽ hiệu quả hơn, tránh được các vấn đề
phát sinh ảnh hưởng đến quyền lợi của các
bên và Nhà nước so với việc cho phép người
lao động đình công.
Về mặt lý thuyết, có thể chấp nhận
quan điểm nêu trên. Tuy nhiên, thực tế
diễn biến của quan hệ lao động ở nước ta
cho thấy, quy định này không có tính khả
thi. Thực tế tranh chấp lao động tập thể về
quyền và tranh chấp lao động tập thể hỗn
hợp (có yêu cầu giải quyết về quyền, có yêu
cầu giải quyết về lợi ích) xảy ra khá nhiều,
dường như không xảy ra tranh chấp lao động
tập thể thuần túy về lợi ích theo như quy
định của BLLĐ. Trong khi đó, nhìn chung,
cơ chế giải quyết tranh chấp lao động tập
thể về quyền không phát huy hiệu quả trên
thực tế. Nguyên nhân của hiện tượng này là
do BLLĐ chưa bao hàm quy định về cơ chế
giải quyết tranh chấp lao động tập thể hỗn
hợp. Vì vậy, trên thực tế, các cuộc đình công
phát sinh từ tranh chấp lao động tập thể về
quyền và tranh chấp lao động tập thể hỗn
hợp vẫn liên tiếp xảy ra với số lượng lớn
và tính chất khá phức tạp, gây ra nhiều hệ
lụy cho các bên liên quan và cho nền kinh tế
xã hội. Trước thực trạng đó, nếu không quy
định theo hướng cho phép đình công phát
sinh từ tranh chấp lao động tập thể về quyền,
không có khuôn khổ pháp lý để định hướng,
kiểm soát các cuộc đình công này thì vấn đề
có thể trở nên phức tạp hơn. Chúng tôi cho
rằng, lần sửa đổi, bổ sung BLLĐ này cần
tổng kết chính xác hơn tình hình đình công
trong những năm vừa qua, phân tích chính
xác nguyên nhân của đình công, nhu cầu của
người lao động và dự báo xu hướng của tình
hình đình công trong thời gian tới, kết hợp
với việc nghiên cứu lại lý luận về đình công
để đưa vào BLLĐ sửa đổi, bổ sung các quy
định mang tính khả thi cao hơn, theo hướng
cho phép đình công phát sinh từ tranh chấp
lao động tập thể nói chung. Quy định theo
hướng này vừa phù hợp với thực tiễn, vừa
đảm bảo thực hiện đúng cam kết quốc tế của
Việt Nam.
(1) Tranh chấp lao động tập thể về quyền là tranh chấp giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động phát sinh từ việc
giải thích và thực hiện khác nhau quy định của pháp luật về lao động, thoả ước lao động tập thể, nội quy lao động, quy
chế và thoả thuận hợp pháp khác (khoản 8 Điều 3 BLLĐ năm 2012).
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
25Số 13(341) T7/2017
Thứ hai, quy định về thời điểm người
lao động có quyền đình công của BLLĐ
năm 2012 vẫn bị coi là muộn, làm mất “cơ
hội vàng” khi người lao động muốn sử dụng
quyền đình công. Cùng với nó, thủ tục chuẩn
bị đình công theo quy định hiện nay còn
rườm rà, kéo dài đến mức không cần thiết.
Theo quy định tại các Điều 201, Điều
204, Điều 206, Điều 211, Điều 212, Điều
213 và Điều 215 BLLĐ năm 2012, nếu thực
hiện đúng thì thời gian nhanh nhất kể từ khi
tranh chấp lao động tập thể về lợi ích phát
sinh đến thời điểm người lao động có quyền
ngừng việc đình công là khoảng 01 tháng2.
Thời gian “làm nguội” như vậy là quá dài
so với mức cần thiết, “thời cơ” giành thắng
lợi của người lao động có thể cũng bị mất
đi Thêm vào đó, quy trình giải quyết tranh
chấp lao động tập thể về lợi ích phải qua hai
giai đoạn hòa giải (do hòa giải viên lao động
tiến hành và do Hội đồng trọng tài lao động
tiến hành) càng làm giảm cơ hội của người
lao động thực hiện quyền đình công.
Từ những phân tích trên đây, chúng tôi
cho rằng, cần sửa đổi, bổ sung BLLĐ về hai
vấn đề có liên quan sau đây:
Một là, quy định lại quy trình giải
quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích
và quy định lại thời điểm người lao động có
quyền tiến hành các thủ tục đình công theo
một trong hai phương án: Phương án 1, bỏ
thủ tục hòa giải tại Hội đồng trọng tài lao
động (nếu không thay đổi quy định về cơ
chế trọng tài lao động so với quy định hiện
nay) và cho phép người lao động tiến hành
các thủ tục đình công sau khi kết thúc thủ
tục hòa giải tại cơ sở; Phương án 2, quy định
lại cơ chế trọng tài lao động và các bên tranh
chấp có quyền lựa chọn hoặc là hòa giải tại
cơ sở hoặc là thủ tục trọng tài lao động và
cho phép người lao động được thực hiện
các thủ tục đình công sau một giai đoạn giải
quyết tranh chấp đó.
Đối với đình công phát sinh từ tranh
chấp lao động tập thể về quyền, cần sửa đổi
cơ chế giải quyết loại tranh chấp này theo
hướng bỏ thủ tục giải quyết do Chủ tịch
UBND cấp huyện thực hiện (vì không đúng
tính chất của vụ việc dân sự và không hiệu
quả) và cho phép người lao động tiến hành
các thủ tục đình công sau khi kết thúc thủ
tục hòa giải tại cơ sở.
Hai là, sửa đổi quy định về trình tự
đình công theo hướng đơn giản hơn, rút
ngắn thời gian hơn để đảm bảo thời cơ đình
công và khả năng giành thắng lợi cho người
lao động khi người lao động chấp hành đúng
các quy định của pháp luật. Việc tổ chức lấy
ý kiến về đình công không cần thông báo
trước cho người sử dụng lao động, việc gửi
quyết định (hoặc thông báo) đình công chỉ
cần thực hiện trước 01 ngày so với thời điểm
bắt đầu ngừng việc đình công.
Thứ ba, quy định về các trường hợp
không được đình công chưa thực sự hợp lý,
làm hạn chế quyền đình công của người lao
động.
Theo quy định của Điều 220 BLLĐ
năm 2012, người lao động không được đình
công ở đơn vị sử dụng lao động hoạt động
thiết yếu cho nền kinh tế quốc dân mà việc
đình công có thể đe dọa đến an ninh, quốc
phòng, sức khỏe, trật tự công cộng theo danh
mục do Chính phủ quy định.
Theo chúng tôi, việc không cho phép
người lao động đình công ở đơn vị sử dụng
lao động hoạt động thiết yếu cho nền kinh
2 05 ngày làm việc thực hiện thủ tục hòa giải tại cơ sở + 07 ngày làm việc thực hiện thủ tục hòa giải tại Hội đồng trọng
tài lao động + 03 ngày (hoặc 05 ngày) kể từ ngày kết thúc hòa giải tại Hội đồng trọng tài lao động + 01 ngày thông báo
cho người sử dụng lao động việc lấy ý kiến về đình công + 01 ngày hoặc một số ngày tổ chức việc lấy ý kiến về đình
công + 05 ngày làm việc để gửi quyết định đình công.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
26 Số 13(341) T7/2017
tế quốc dân mà việc đình công có thể đe
dọa đến an ninh, quốc phòng, sức khỏe, trật
tự công cộng, trên cơ sở đó Chính phủ quy
định danh mục các doanh nghiệp người lao
động không được đình công là chưa minh
bạch và hợp lý. Bởi lẽ, nếu đình công xảy
ra tại các doanh nghiệp hoạt động thiết yếu
cho nền kinh tế quốc dân nhưng không đe
dọa đến an ninh, quốc phòng, sức khỏe, trật
tự công cộng thì sẽ không có cơ sở thuyết
phục để cấm người lao động đình công. Nếu
quy định ngay từ đầu danh mục các doanh
nghiệp không được đình công có thể sẽ
mang tính chủ quan và ảnh hưởng đến quyền
của người lao động. Vì vậy, chỉ nên quy định
theo hướng, cuộc đình công sẽ bị hoãn hoặc
ngừng khi có căn cứ cho rằng cuộc đình
công này đe dọa đến an ninh, quốc phòng,
sức khỏe, trật tự công cộng.
Trên cơ sở đó, chúng tôi đề nghị bỏ
Điều 220 BLLĐ năm 2012, đồng thời sửa
đổi, bổ sung Điều 221 BLLĐ năm 2012
(Quyết định hoãn, ngừng đình công) cho
phù hợp hơn theo hướng như sau:
“Điều 221. Quyết định hoãn, ngừng
đình công
Khi xét thấy cuộc đình công đe dọa
đến an ninh, quốc phòng, sức khỏe, trật tự,
lợi ích công cộng hoặc có nguy cơ gây thiệt
hại nghiêm trọng cho nền kinh tế quốc dân,
Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định hoãn
hoặc ngừng đình công và giao cho cơ quan
nhà nước, tổ chức có thẩm quyền giải quyết.
Chính phủ quy định về việc hoãn hoặc
ngừng đình công và giải quyết quyền lợi của
tập thể lao động”.
Thứ tư, quy định của Điều 222 BLLĐ
năm 2012 về việc xử lý cuộc đình công không
đúng trình tự, thủ tục là chưa rõ ràng, chưa
hợp lý. Điều này thể hiện ở chỗ: i) Chưa quy
định rõ thủ tục thực hiện như thế nào để Chủ
tịch UBND cấp tỉnh có thể ra được quyết
định tuyên bố cuộc đình công vi phạm trình
tự, thủ tục; ii) Liệu có mất quá nhiều thời
gian để thực hiện việc này hay không; iii)
Liệu có cần thiết đến mức việc xử lý cuộc
đình công không đúng trình tự, thủ tục phải
do Chủ tịch UBND cấp tỉnh thực hiện hay
không? Xử lý trách nhiệm của Công đoàn và
người lao động tham gia đình công vi phạm
trình tự, thủ tục mà gây thiệt hại cho người
sử dụng lao động như thế nào?
Theo chúng tôi, nên giao việc này cho
Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã
hội thực hiện, đồng thời quy định rõ trình
tự, thủ tục thực hiện và bổ sung quy định
xử lý trách nhiệm của Công đoàn và người
lao động tham gia đình công vi phạm trình
tự, thủ tục mà gây thiệt hại cho người sử
dụng lao động. Việc giao cho Sở Lao động -
Thương binh và Xã hội thực hiện là phù hợp
vì đây là cơ quan chuyên môn của UBND
cấp tỉnh, trực tiếp theo dõi, quản lý nhà
nước về lao động trên địa bàn tỉnh, có thể
thực hiện một cách nhanh chóng nhất, tránh
kéo dài việc đình công vi phạm trình tự, thủ
tục luật định, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp
pháp của các bên và lợi ích chung của Nhà
nước, xã hội. Quy định cụ thể trình tự, thủ
tục tiến hành đảm bảo cho việc tổ chức thực
hiện bài bản, nhanh chóng và tránh tùy tiện.
Quy định việc xử lý trách nhiệm của Công
đoàn và người lao động tham gia đình công
vi phạm trình tự, thủ tục gây thiệt hại cho
người sử dụng lao động đảm bảo bình đẳng,
công bằng về quyền và nghĩa vụ của người
lao động và người sử dụng lao động, đồng
thời răn đe và hạn chế các cuộc đình công vi
phạm pháp luật.
Thứ năm, việc không quy định cụ thể
về điều kiện được phép đóng cửa tạm thời
tại nơi làm việc, không quy định về việc giải
quyết quyền lợi cho người lao động trong
thời gian đóng cửa tạm thời nơi làm việc sẽ
gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao
động. Vì vậy, chúng tôi đề nghị bổ sung các
quy định này vào BLLĐ
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
27Số 13(341) T7/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quy_dinh_hien_hanh_ve_quyen_dinh_cong_cua_nguoi_lao_dong_va.pdf