a. Hiệu trưởng là người đại diện theo
pháp luật và là chủ tài khoản của trường
ĐHTT, trừ trường hợp quy chế tổ chức và
hoạt động có quy định khác. Như vậy, nếu
quy chế tổ chức và hoạt động của trường
ĐHTT không quy định khác thì đương
nhiên Hiệu trưởng người đại diện theo
pháp luật và là chủ tài khoản. Ngoài Hiệu
trưởng, Chủ tịch Hội đồng trường có thể là
người đại diện theo pháp luật và chủ tài
khoản của trường. Trước đây, tại khoản 4,
Điều 20, Luật Giáo dục đại học 2012 quy
định Chủ tịch Hội đồng quản trị là chủ tài
khoản của trường. Sự thay đổi của Luật
Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật
Giáo dục đại học không loại bỏ việc Chủ
tịch Hội đồng trường là người đại diện
pháp luật và chủ tài khoản của trường mà
chỉ đưa ra thêm sự lựa chọn cho trường
ĐHTT. Nhà đầu tư có quyền lựa chọn Hiệu
trưởng hoặc Chủ tịch Hội đồng trường là
người đại diện pháp luật và chủ tài khoản
của trường. Trường hợp lựa chọn Chủ tịch
Hội đồng trường là người đại diện pháp
luật và chủ tài khoản của trường thì phải
quy định rõ trong quy chế tổ chức và hoạt
động.
b. Hiệu trưởng tổ chức thực hiện hoạt
động chuyên môn, học thuật, tổ chức, nhân
sự, tài chính, tài sản, hợp tác trong nước,
quốc tế, hoạt động khác theo quy định của
pháp luật, quy chế tổ chức và hoạt động
của trường ĐHTT và quyết định của Hội
đồng trường. Có thể nhận thấy rằng, Hiệu
trưởng là người điều hành trực trực tiếp
mọi hoạt động nhà trường, nhất là công tác
liên quan đến chuyên môn, học thuật. Đây
là nguyên nhân chủ yếu pháp luật bắt buộc
Hiệu trưởng phải là tiến sĩ và có uy tín
khoa học. Bên cạnh đó, Hiệu trưởng có
thẩm quyền quan trọng trong việc xây
dựng đội ngũ nhân sự của trường thông
qua việc tuyển dụng, điều chuyển, chấm
dứt hợp đồng lao động. Về tổ chức, Hiệu
trưởng có quyền hạn quyết định thành lập,
giải thể, chia, tách các đơn vị theo nghị
quyết của Hội đồng trường.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 24/01/2022 | Lượt xem: 230 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quy định pháp luật về hiệu trưởng trường Đại học tư thục, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08 - 2020
119
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HIỆU TRƯỞNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TƯ THỤC
Nguyễn Phước Quý Quang1* và Nguyễn Xuân Tài2
1Trường Đại học Tây Đô, 2Trường Đại học Công nghệ Miền Đông
(Email: nguyenphuocquyquang@gmail.com)
Ngày nhận: 15/03/2020
Ngày phản biện: 02/4/2020
Ngày duyệt đăng: 15/4/2020
TÓM TẮT
Hiệu trưởng trường đại học tư thục (ĐHTT) là người chịu trách nhiệm quản lý, điều hành
các hoạt động của cơ sở giáo dục đại học theo quy định của pháp luật, quy chế tổ chức và
hoạt động của cơ sở giáo dục đại học. Luật Giáo dục 2019 không có quy định riêng về Hiệu
trưởng trường đại học mà dẫn chiếu đến quy định của Luật Giáo dục đại học1. So với Luật
Giáo dục đại học 2012, Luật Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Giáo dục đại học đã có
nhiều quy định mới về Hiệu trưởng trường đại học tư thục. Trong nội dung bài viết này, tác
giả trình bày về tiêu chuẩn, quyền hạn và trách nhiệm của Hiệu trưởng liên quan đến công
tác quản trị trường ĐHTT theo bố cục phân tích quy định pháp luật, thực tiễn áp dụng, bất
cập và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật.
Từ khóa: ĐHTT, Hiệu trưởng, Luật Giáo dục đại học
Trích dẫn: Nguyễn Phước Quý Quang và Nguyễn Xuân Tài, 2020. Quy định pháp luật về
Hiệu trưởng trường đại học tư thục. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển
kinh tế Trường Đại học Tây Đô. 08: 119-126.
*TS. Nguyễn Phước Quý Quang – Phó Chủ tịch HĐQT, Trường Đại học Tây Đô
1 Khoản 4, Điều 56, Luật Giáo dục 2019
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08 - 2020
120
1. TIÊU CHUẨN HIỆU TRƯỞNG
Hiệu trưởng trường ĐHTT do Hội
đồng trường quyết định bổ nhiệm. Đây là
quy định mới so với Luật Giáo dục đại
học 2012 và Điều lệ trường đại học 2014.
Quy định trước đây, Hiệu trưởng do ủy
ban nhân dân cấp tỉnh nơi trường đóng trụ
sở chính ra quyết định công nhận.
Nhiệm kỳ hoặc thời hạn bổ nhiệm của
Hiệu trưởng do Hội đồng trường quyết
định trong phạm vi nhiệm kỳ của hội
đồng trường. Đây cũng là điểm mới của
Luật Sửa đổi, bổ sung một số Điều của
Luật Giáo dục đại học. Trước đây, nhiệm
kỳ Hiệu trưởng là năm năm. Kể từ khi
Luật Sửa đổi, bổ sung một số Điều của
Luật Giáo dục đại học có hiệu lực thi
hành, Hiệu trưởng có thể được bổ nhiệm
theo nhiệm kỳ hoặc có thời hạn trong
phạm vi nhiệm kỳ của Hội đồng trường.
Khoản 4, Điều 17, Luật Sửa đổi, bổ sung
một số Điều của Luật Giáo dục đại học
không quy định rõ nhiệm kỳ của Hội
đồng trường nhưng có dẫn chiếu đến
khoản 4 và khoản 5 Điều 16 của Luật Sửa
đổi, bổ sung một số Điều của Luật Giáo
dục đại học. Theo đó, nhiệm kỳ của Hội
đồng trường là năm năm. Như vậy,
nhiệm kỳ hoặc thời hạn bổ nhiệm Hiệu
trưởng không quá năm năm.
Tiêu chuẩn Hiệu trưởng trường ĐHTT
được quy định tại khoản 2, Điều 20, Luật
Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật
Giáo dục đại học. Tiêu chuẩn Hiệu trưởng
có một số điểm đáng lưu ý như sau:
Về điều kiện định tính, Hiệu trưởng
phải có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt.
Đây là tiêu chuẩn mang tính định tính vì
phẩm chất chính trị, đạo đức không thể
hiện thông qua số liệu, bằng cấp. Phẩm
chất chính trị, đạo đức có thể xác định
bằng việc không có các hành vi vi phạm
về chính trị, vi phạm đạo đức.
Về trình độ và kinh nghiệm quản lý,
Hiệu trưởng phải có trình độ tiến sĩ, có uy
tín khoa học và kinh nghiệm quản lý giáo
dục đại học. Tiêu chuẩn có trình độ tiến
sĩ dễ dàng xác định thông qua bằng cấp.
Tuy nhiên, tiêu chuẩn uy tín khoa học và
kinh nghiệm quản lý giáo dục đại học
không dễ để xác định cụ thể. Tiêu chí nào
để xác định một người có uy tín khoa học
không được xác định rõ. Thời gian quản
lý giáo dục đại học được xác định là có
kinh nghiệm quản lý giáo dục đại học
cũng không được làm rõ.
Về độ tuổi và sức khỏe, Hiệu trưởng
phải có đủ sức khỏe để thực hiện nhiệm
vụ và nằm trong độ tuổi xác định. Tiêu
chuẩn về sức khỏe có thể xác định thông
qua thủ giấy khám sức khỏe của cơ sở y
tế có thẩm quyền. Về độ tuổi, Luật Sửa
đổi, bổ sung một số Điều của Luật Giáo
dục đại học không quy định cụ thể mà
trao quyền cho trường ĐHTT quy định
trong quy chế tổ chức và hoạt động. Đối
với trường đại học công lập, Hiệu trưởng
phải trong độ tuổi lao động theo quy định
pháp luật. Đối với trường ĐHTT, độ tuổi
Hiệu trưởng được quy định cụ thể tại
Điều lệ trường đại học 2014. Theo đó,
Hiệu trưởng có độ tuổi không quá 75 đối
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08 - 2020
121
với nam và không quá 70 đối với nữ2. Tuy
nhiên, Luật Sửa đổi, bổ sung một số Điều
của Luật Giáo dục đại học lại không quy
định độ tuổi cụ thể. Việc không giới hạn
độ tuổi đối với Hiệu trưởng tạo điều kiện
để trường ĐHTT tự quyết bằng việc quy
định cụ thể trong quy chế tổ chức và hoạt
động. Tuy nhiên, việc tự quyết nêu trên
có thể dẫn đến trường ĐHTT quy định độ
tuổi quá cao nhằm tận dụng tối đa nguồn
nhân lực chất lượng cao đã nghi hưu từ
các cơ sở công lập.
Cán bộ cơ hữu, một trong những tiêu
chuẩn quan trọng để xem xét khi bổ nhiệm
Hiệu trưởng là Hiệu trưởng có bắt buộc
phải là cán bộ cơ hữu của trường không3.
Trước đây, theo quy định tại khoản 1, Điều
11, Điều lệ trường đại học 2014, Hiệu
trưởng bắt buộc phải là giảng viên cơ hữu
hoặc cán bộ quản lý cơ hữu của nhà
trường. Tuy nhiên, Luật Sửa đổi, bổ sung
một số Điều của Luật Giáo dục đại học và
Nghị định số 99/2019/NĐ-CP ngày 30
tháng 12 năm 2019 của Chính phủ Quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
Điều của Luật Giáo dục đại học không quy
định Hiệu trưởng bắt buộc phải là giảng
viên cơ hữu hoặc cán bộ quản lý cơ hữu
của nhà trường. Về nguyên tắc, luật không
quy định thì đồng nghĩa với việc không bắt
buộc Hiệu trưởng phải là cán bộ cơ hữu
của trường. Đây cũng là một điểm khác
biệt giữa Hiệu trưởng trường ĐHTT và
trường đại học công lập. Hiệu trưởng
2 Điểm a, khoản 3, Điều 25, Điều lệ trường
đại học 2014
3 Khái niệm cán bộ quản lý cơ hữu quy định
tại điểm b, khoản 1, Điều 2 Điều lệ trường đại
trường đại học công lập bắt buộc phải là
cán bộ cơ hữu, trường hợp không phải là
cán bộ cơ hữu thì sau khi bổ nhiệm Hiệu
trưởng thì Hiệu trưởng phải trở thành cán
bộ cơ hữu của trường. Việc pháp luật
không bắt buộc Hiệu trưởng phải là cán bộ
cơ hữu của trường xuất phát từ việc Hiệu
trưởng có thể làm theo nhiệm kỳ hoặc
không. Trước đây, Hiệu trưởng có nhiệm
kỳ năm năm. Với thời gian thực hiện
nhiệm vụ Hiệu trưởng dài như trên, Hiệu
trưởng phải là cán bộ cơ hữu với thời gian
hợp đồng làm việc tương ứng hoặc dài
hơn. Hiện tại, Hiệu trưởng có thể được bổ
nhiệm với thời gian ngắn hơn 36 tháng,
mốc thời gian hợp đồng để xác định cán bộ
quản lý cơ hữu. Do đó, không bắt buộc
Hiệu trưởng phải là cán bộ quản lý cơ hữu.
Với quy định pháp luật nêu trên, có
nhiều vấn đề pháp lý đặt ra như sau:
(i) Cùng với việc ký quyết định bổ
nhiệm Hiệu trưởng, có nhất thiết phải ký
hợp đồng lao động xác định thời hạn với
Hiệu trưởng hay không. Nghĩa là, Hiệu
trưởng có bắt buộc phải là người lao động
của trường không. Vấn đề nêu trên pháp
luật giáo dục đại học hiện hành không quy
định rõ. Theo quan điểm của nhóm tác giả,
mặc dù pháp luật giáo dục đại học không
quy định rõ nhưng Hiệu trưởng bắt buộc
phải là người lao động của trường đại học
tư thục. Bởi lẽ, nếu chỉ dựa trên quyết định
bổ nhiệm Hiệu trưởng thì rất khó để xác
định các quyền và nghĩa vụ cụ thể của Hiệu
học 2014; Điểm e, khoản 1, Điều 10 Luật Sửa
đổi, bổ sung một số Điều của Luật Giáo dục
đại học
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08 - 2020
122
trưởng, ví dụ như chế độ làm việc, lương,
thưởng, Mặc dù quyết định bổ nhiệm có
thể dẫn chiếu đến Quy chế tổ chức và hoạt
động, Quy chế tài chính của trường để xác
định quyền và nghĩa vụ của Hiệu trưởng
cùng các vấn đề khác có liên quan nhưng
rất ít trường quy định cụ thể các vấn đề nêu
trên trong các quy chế của nhà trường.
Đồng thời, các quy chế của nhà trường
cũng thường xuyên thay đổi theo thời gian.
Trong khi đó, vấn đề sẽ trở nên dễ dàng và
rõ ràng hơn khi có một hợp đồng lao động
được xác lập giữa trường đại học tư thục
và Hiệu trưởng. Ngoài ra, xét đến pháp luật
lao động, quan hệ giữa Hiệu trưởng và
trường ĐHTT là quan hệ lao động, trong
đó Hiệu trưởng là người lao động được
thuê và trả lương trong quá trình làm việc
tại trường4. Mà đã là quan hệ lao động thì
bắt buộc phải ký hợp đồng lao động.
(ii) Hiệu trưởng có thể bị bãi nhiệm,
miễn nhiệm trước khi hết nhiệm kỳ theo
quyết định bổ nhiệm. Vấn đề đặt ra là
trường hợp Hiệu trưởng bị bãi nhiệm,
miễn nhiệm trước thời hạn của hợp đồng
lao động thì xử lý như thế nào. Ví dụ,
cùng với việc bổ nhiệm Hiệu trưởng với
thời hạn hai năm, trường ĐHTT ký hợp
đồng lao động có thời hạn hai năm với
Hiệu trưởng. Tuy nhiên sau một năm làm
việc, Hội đồng trường miễn nhiệm Hiệu
trưởng, trước 01 năm so với hợp đồng lao
động. Như vậy, về mặt thực tế Hiệu
trưởng bị miễn nhiệm nên không còn
quyền và nghĩa vụ của Hiệu trưởng. Tuy
nhiên, hợp đồng lao động vẫn còn hiệu
4 Về quan hệ lao động xem them tại khoản
6, Điều 3, Bộ Luật Lao động 2012
lực. Theo quy định của Bộ Luật lao động
2012, quyết định miễn nhiệm Hiệu
trưởng không phải là căn cứ để trường
ĐHTT đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động với Hiệu trưởng. Do đó, nếu
trường ĐHTT không tiếp tục thực hiện
các nội dung của hợp đồng lao động (như
trả lương và các chế độ khác) thì đồng
nghĩa với việc trường ĐHTT đã vi phạm
hợp đồng lao động. Lúc này, Hiệu trưởng
có quyền khởi kiện trường ĐHTT để yêu
cầu trường ĐHTT thực hiện đúng hợp
đồng lao động và bồi thường thiệt hại nếu
có. Từ đó có thể thấy rằng, việc trường
ĐHTT bổ nhiệm một người không phải là
cán bộ quản lý cơ hữu/ giảng viên cơ hữu
làm Hiệu trưởng cũng tiềm tàng nhiều rủi
ro về mặt pháp lý.
Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật
về tiêu chuẩn Hiệu trưởng trường ĐHTT
được thể hiện như sau:
Thứ nhất, nhiều Hiệu trưởng trường
ĐHTT từng là Hiệu trưởng hoặc cán bộ
quản lý của trường đại học công lập. Dễ
nhận thấy rằng, trường ĐHTT lựa chọn
người từng là cán bộ quản lý của trường
đại học công lập để giữ chức danh Hiệu
trưởng trước hết là do đáp ứng đủ tiêu
chuẩn về học vị tiến sĩ và kinh nghiệm
quản lý đại học. Hơn nữa, những người
từng là cán bộ quản lý của trường đại học
công lập còn đáp ứng về uy tín khoa học
khi còn làm việc trong trường đại học
công lập. Thực tế cho thấy rằng, để có
một người đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn
Hiệu trưởng theo quy định mà chưa từng
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08 - 2020
123
công tác tại trường đại học công lập là
một điều hết sức khó khăn. Mặc dù nước
ta có nhiều tiến sĩ, nhưng một tiến sĩ vừa
có uy tín khoa học vừa có kinh nghiệm
quản lý đại học thì rất hiếm. Đặc biệt, các
trường ĐHTT còn khá non trẻ trong
nghiên cứu khoa học và quản lý trường
đại học, vì thế các tiến sĩ vừa có kinh
nghiệm quản lý vừa có uy tín khoa học
chủ yếu đang hoặc đã từng làm việc tại
trường đại học công lập. Đồng thời, việc
chọn người từng là cán bộ quản lý của
trường đại học công lập để giữ chức danh
Hiệu trưởng trường ĐHTT giúp tận dụng
được nguồn nhân lực chất lượng cao từ
trường đại học công lập, nhất là cán bộ
quản lý đến tuổi nghỉ hưu.
Thứ hai, có một số trường hợp, trường
ĐHTT không có Hiệu trưởng mà có
“Quyền Hiệu trưởng” hoặc “Hiệu trưởng
tạm quyền”. Xét các trường hợp trên thực
tế, lý do không có Hiệu trưởng là vì không
đủ tiêu chuẩn để công nhận Hiệu trưởng.
Vấn đề đặt ra là việc công nhận Quyền
Hiệu trưởng hoặc Hiệu trưởng tạm quyền
có đúng với quy định pháp luật hay không.
Căn cứ quy định pháp luật hiện hành và
văn bản pháp luật có hiệu lực tại thời điểm
công nhận Quyền Hiệu trưởng, không có
quy định nào liên quan đến Quyền Hiệu
trưởng và Hiệu trưởng tạm quyền. Như
vậy, không có cơ sở pháp lý để công nhận
hoặc bổ nhiệm Quyền Hiệu trưởng/Hiệu
trưởng tạm quyền. Điều đáng lưu ý là thủ
tục công nhận Quyền Hiệu trưởng được
thực hiện bởi cơ quan quản lý cao nhất ở
địa phương là Ủy ban nhân dân cấp Tỉnh.
Từ đó có thể thấy rằng, việc giám sát của
cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục vẫn
còn nhiều thiếu sót.
Trên cơ sở quy định pháp luật và thực
tiễn áp dụng pháp luật về tiêu chuẩn Hiệu
trưởng trường ĐHTT, pháp luật về tiêu
chuẩn này có một số điểm bất cập như sau:
a. Tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị,
đạo đức tốt không được xác định cụ thể
bằng những tiêu chí. Chưa có cơ sở cho
việc xác định là có phẩm chất chính trị, đạo
đức tốt? Chưa có văn bản cụ thể hóa. .
b. Tiêu chuẩn về kinh nghiệm quản lý
đại học và uy tín khoa học cũng không
được xác định rõ ràng. Căn cứ vào tiêu chí
nào để xác định có uy tín khoa học, có kinh
nghiệm quản lý đại học. Uy tín khoa học
phải được xác định rõ bằng các thông số
về nghiên cứu khoa học, sách, bài báo, Hội
thảo,... Kinh nghiệm quản lý đại học phải
được xác định bằng số năm tối thiểu cụ thể.
Tuy nhiên, Luật Sửa đổi, bổ sung một số
Điều của Luật Giáo dục đại học không
quy định cụ thể các vấn đề nêu trên.
c. Tiêu chí về độ tuổi cũng không được
xác định rõ ràng. Luật không quy định độ
tuổi giữ chức vụ Hiệu trưởng. Mặc dù Điều
lệ trường đại học 2014 có giới hạn độ tuổi,
tuy nhiên, Điều lệ trường đại học 2014
hướng dẫn Điều 20 của Luật Giáo dục đại
học 2012 đã được sửa đổi bằng văn bản
quy phạm pháp luật khác. Theo nguyên tắc
hiệu lực pháp luật của văn bản pháp luật,
văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực
thì văn bản quy phạm pháp luật quy định
chi tiết thi hành, văn bản đó cũng đồng thời
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08 - 2020
124
hết hiệu lực5. Do đó, hướng dẫn của Điều
lệ trường đại học 2014 không còn giá trị
pháp lý để áp dụng.
Từ những phân tích nêu trên, để hoàn
thiện quy định pháp luật về tiêu chuẩn của
Hiệu trưởng của trường ĐHTT, nhóm tác
giả kiến nghị cần có những quy định cụ thể
các tiêu chí để xác định từng tiêu chuẩn của
Hiệu trưởng trong văn bản hướng dẫn chi
tiết Luật Sửa đổi, bổ sung một số Điều
của Luật Giáo dục đại học. Các tiêu chí
này phải được thể hiện bằng các con số cụ
thể về thời gian quản lý đại học và chức
danh cụ thể từng đảm nhiệm, các loại văn
bản cụ thể, giới hạn độ tuổi.
2. NHIỆM VỤ VÀ QUYỀN HẠN
CỦA HIỆU TRƯỞNG
Nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu
trưởng được quy định tại Điều 20 Luật
Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật
Giáo dục đại học. Nhiệm vụ và quyền hạn
của Hiệu trưởng có một số nội dung quan
trọng liên quan đến công tác quản trị
trường ĐHTT như sau:
a. Hiệu trưởng là người đại diện theo
pháp luật và là chủ tài khoản của trường
ĐHTT, trừ trường hợp quy chế tổ chức và
hoạt động có quy định khác. Như vậy, nếu
quy chế tổ chức và hoạt động của trường
ĐHTT không quy định khác thì đương
nhiên Hiệu trưởng người đại diện theo
pháp luật và là chủ tài khoản. Ngoài Hiệu
trưởng, Chủ tịch Hội đồng trường có thể là
người đại diện theo pháp luật và chủ tài
khoản của trường. Trước đây, tại khoản 4,
5 Khoản 4, Điều 154, Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật
Điều 20, Luật Giáo dục đại học 2012 quy
định Chủ tịch Hội đồng quản trị là chủ tài
khoản của trường. Sự thay đổi của Luật
Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật
Giáo dục đại học không loại bỏ việc Chủ
tịch Hội đồng trường là người đại diện
pháp luật và chủ tài khoản của trường mà
chỉ đưa ra thêm sự lựa chọn cho trường
ĐHTT. Nhà đầu tư có quyền lựa chọn Hiệu
trưởng hoặc Chủ tịch Hội đồng trường là
người đại diện pháp luật và chủ tài khoản
của trường. Trường hợp lựa chọn Chủ tịch
Hội đồng trường là người đại diện pháp
luật và chủ tài khoản của trường thì phải
quy định rõ trong quy chế tổ chức và hoạt
động.
b. Hiệu trưởng tổ chức thực hiện hoạt
động chuyên môn, học thuật, tổ chức, nhân
sự, tài chính, tài sản, hợp tác trong nước,
quốc tế, hoạt động khác theo quy định của
pháp luật, quy chế tổ chức và hoạt động
của trường ĐHTT và quyết định của Hội
đồng trường. Có thể nhận thấy rằng, Hiệu
trưởng là người điều hành trực trực tiếp
mọi hoạt động nhà trường, nhất là công tác
liên quan đến chuyên môn, học thuật. Đây
là nguyên nhân chủ yếu pháp luật bắt buộc
Hiệu trưởng phải là tiến sĩ và có uy tín
khoa học. Bên cạnh đó, Hiệu trưởng có
thẩm quyền quan trọng trong việc xây
dựng đội ngũ nhân sự của trường thông
qua việc tuyển dụng, điều chuyển, chấm
dứt hợp đồng lao động. Về tổ chức, Hiệu
trưởng có quyền hạn quyết định thành lập,
giải thể, chia, tách các đơn vị theo nghị
quyết của Hội đồng trường.
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08 - 2020
125
c. Hiệu trưởng đề xuất Hội đồng trường
xem xét bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm
chức danh quản lý thuộc thẩm quyền của
Hội đồng trường; thực hiện
bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm chức
danh quản lý khác theo quy chế tổ chức và
hoạt động của trường. Đối với các chức
danh quản lý thuộc thẩm quyền của Hội
đồng trường, Hiệu trưởng có quyền đề
xuất để Hội đồng trường xem xét bổ
nhiệm. Tuy nhiên, chức danh quản lý nào
thuộc thẩm quyền của Hội đồng trường thì
pháp luật không quy định rõ. Như vậy,
muốn biết chức danh quản lý nào thuộc
thẩm quyền bổ nhiệm của Hiệu trưởng,
chức danh quản lý nào thuộc thẩm quyền
bổ nhiệm của Hội đồng trường bổ nhiệm
thì phải căn cứ vào quy chế tổ chức và hoạt
động của trường.
d. Hiệu trưởng có trách nhiệm báo cáo
với Hội đồng trường các vấn đề liên quan
đến hoạt động của trường. Hội đồng
trường là cơ quan quản lý trực tiệp bổ
nhiệm Hiệu trưởng. Hiệu trưởng thực hiện
các nghị quyết của Hội đồng trường. Do
đó, Hiệu trưởng có trách nhiệm báo cáo
với Hội đồng trường.
Thực tiễn áp dụng pháp luật về trách
nhiệm và quyền hạn của Hiệu trưởng
trường ĐHTT được thể hiện qua một số
nội dung như sau:
a. Rất ít trường hợp Hiệu trưởng là
người đại diện theo pháp luật và chủ tài
khoản của trường. Các trường hợp Hiệu
trưởng là người đại diện theo pháp luật và
chủ tài khoản của trường là các trường hợp
Chủ tịch Hội đồng trường đồng thời là
Hiệu trưởng. Từ đó có thể thấy rằng, quy
định Hiệu trưởng là người đại diện theo
pháp luật và chủ tài khoản của trường là
không khả thi. Bởi lẽ, nhà đầu tư sẽ không
trao quyền hạn rất quan trọng liên quan
đến việc nhân danh nhà trường và tài chính
của nhà trường cho người không phải là
nhà đầu tư.
b. Về quyền hạn bổ nhiệm chức danh
quản lý của Hiệu trưởng bị hạn chế. Mặc
dù pháp luật trao quyền cho Hiệu trưởng
nhưng quyền đó được cụ thể như thế nào
thì phải được quy định rõ ràng trong quy
chế tổ chức và hoạt động. Điều này dẫn
đến hệ quả vai trò của Hiệu trưởng trong
việc tổ chức trường ĐHTT bị hạn chế hơn
nhiều so với Hiệu trưởng trường đại học
công lập. Bởi lẽ quy chế tổ chức và hoạt
động do Hội đồng trường thông qua nên
Hội đồng trường sẽ quy định theo hướng
tăng quyền lực của Hội đồng trường trong
công tác tổ chức – nhân sự. Quy chế tổ
chức và hoạt động của một số trường quy
định cụ thể thẩm quyền bổ nhiệm lãnh đạo
từ cấp phó Bộ môn trở lên thuộc thẩm
quyền của Hội đồng trường. Điều này
đồng nghĩa với việc tất cả các chức danh
quản lý đều thuộc thẩm quyền bổ nhiệm
của Hội đồng trường. Vai trò của Hiệu
trưởng thể hiện thông qua việc đề xuất bổ
nhiệm các chức danh quản lý.
Như vậy, trên thực tế, Hiệu trưởng thực
hiện chức năng nhiệm vụ chủ yếu trong
chuyên môn, học thuật và bị hạn chế trong
công tác tổ chức – nhân sự. Đây là một
điểm bất cập của pháp luật về trách nhiệm
và quyền hạn của Hiệu trưởng. Với vai trò
tổ chức thực hiện hoạt động quan trọng về
chuyên môn, học thuật, tổ chức, nhân sự,
tài chính, tài sản, hợp tác trong nước, quốc
tế,..., Hiệu trưởng phải có quyền hạn nhất
định trong công tác lựa chọn đội ngũ cán
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 08 - 2020
126
bộ quản lý để hỗ trợ tốt nhất cho Hiệu
trưởng. Do đó, tác giả kiến nghị cần bổ
sung quy định Hiệu trưởng được bổ nhiệm,
miễn nhiệm đối với một số chức danh quản
lý cụ thể. Quyền hạn của Hiệu trưởng đến
đâu được quy định trong quy chế tổ chức
và hoạt động nhưng luật phải quy định rõ
các chức danh tối thiểu thuộc thẩm quyền
Hiệu trưởng bổ nhiệm, miễn nhiệm. Điều
này vừa trao quyền tự chủ cho trường
ĐHTT vừa đảm bảo quyền hạn nhất định
của Hiệu trưởng trong công tác tổ chức
trường ĐHTT.
3. KẾT LUẬN
Pháp luật hiện hành đã có nhiều sự thay
đổi tích cực trong việc quy định về Hiệu
trưởng trường ĐHTT. Tuy nhiên, quy định
pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về
Hiệu trưởng trường ĐHTT vẫn còn nhiều
bất cập cần khắc phục. Đặc biệt, vai trò của
Hiệu trưởng đối với công tác quản trị
trường ĐHTT vẫn còn nhiều hạn chế. Để
hoàn thiện quy định pháp luật về Hiệu
trưởng trường ĐHTT, pháp luật cần quy
định cụ thể các tiêu chuẩn của Hiệu trưởng
và quy định rõ các chức danh tối thiểu
thuộc thẩm quyền Hiệu trưởng bổ nhiệm,
miễn nhiệm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Luật Lao động 2012
2. Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật
3. Luật Giáo dục 2019
4. Luật Giáo dục đại học 2012
5. Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Giáo dục đại học
6. Điều lệ trường đại học 2014
7. Nghị định số 99/2019/NĐ-CP ngày
30 tháng 12 năm 2019 của Chính phủ Quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
Điều của Luật Giáo dục đại học.
LEGAL REGULATIONS ON THE RECTORS
OF PRIVATE UNIVERSITIES
Nguyen Phuoc Quy Quang1 and Nguyen Xuan Tai2
1Tay Do University, 2Mien Dong University
(Email: nguyenphuocquyquang@gmail.com)
ABSTRACT
According to the Higher Education Law, the rector of a private university is the person who
responses for management and administration activities of the university. The 2019
Education Law did not mention about the president of university but refered to regulation of
the Higher Education Law. Compared with the Law on Higher Education 2012, the present
Law has been amended and supplemented several regulations on the rector of private
universities. In this paper, the authors presented the criteria, powers and responsibilities of
the rector of private universities according to the present law and in practice performence.
Besides, the limitations of the Higher Education Law were analyzed and suggested to be
improved.
Keywords: Education Law, private university, rector
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quy_dinh_phap_luat_ve_hieu_truong_truong_dai_hoc_tu_thuc.pdf