Thứ nhất, luật hóa tiêu chí xác định
chủ doanh nghiệp bỏ trốn để làm cơ sở giải
quyết cho giải thể các doanh nghiệp “mất
tích” trong nền kinh tế và bổ sung một số
trường hợp giải thể doanh nghiệp vào Luật
Doanh nghiệp năm 2014 cho phù hợp với
diễn biến thực tế của doanh nghiệp Việt
Nam. Đối với tiêu chí xác định một doanh
nghiệp mất tích/chủ doanh nghiệp bỏ trốn,
Luật Doanh nghiệp cần quy định trong
vòng bao nhiêu ngày người đại diện của
doanh nghiệp vắng mặt mà không có thông
báo cho chính quyền sở tại và không có ủy
quyền hợp pháp cho người khác hoặc các
cơ quan chức năng đã có thông báo công
khai mà chủ doanh nghiệp không có phản
hồi thì được xem là "chủ doanh nghiệp
bỏ trốn". Khi đó, cơ quan chức năng được
quyền thanh lý tài sản của doanh nghiệp
theo luật định để trả lương, bảo hiểm xa
hội, bảo hiểm y tế cho người lao động.
Đồng thời, qua đó làm cơ sở cho người lao
động hoặc tổ chức Công đoàn khởi kiện,
yêu cầu phá sản doanh nghiệp để đảm bảo
quyền lợi cho người lao động.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 308 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quy định về giải thể doanh nghiệp tại luật doanh nghiệp năm 2014 và một số kiến nghị hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
QUY ĐỊNH VỀ GIẢI THỂ DOANH NGHIỆP TẠI LUẬT DOANH NGHIỆP
NĂM 2014 VÀ MỢT SỚ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
Tĩm tắt:
Từ việc phân tích thực trạng giải thể doanh nghiệp tại Việt Nam
theo quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2014, bài viết chỉ ra
một số vướng mắc pháp lý đang gây trở ngại đến quá trình giải
thể doanh nghiệp, như việc giải thể doanh nghiệp trực tuyến chưa
được quy định tại Luật Doanh nghiệp, hồ sơ giải thể yêu cầu doanh
nghiệp phải nộp lại con dấu cho cơ quan cơng quyền là chưa phù
hợp với quy định về cải cách thủ tục khắc dấu cho doanh nghiệp.
Hơn nữa, việc chưa kiểm sốt được tình trạng doanh nghiệp bỏ
trốn, khơng làm thủ tục giải thể theo luật định vẫn cịn diễn ra phổ
biến trong thời gian qua cũng là những hạn chế đáng kể của Luật
Doanh nghiệp năm 2014. Trên cơ sở đĩ, bài viết kiến nghị luật hĩa
tiêu chí doanh nghiệp bỏ trốn cũng như cho phép doanh nghiệp
cĩ thể thực hiện một số cơng đoạn trong quy trình thủ tục giải thể
bằng phương thức trực tuyến để nhằm thúc đẩy việc giải thể doanh
nghiệp cĩ hiệu quả hơn.
Trần Huỳnh Thanh Nghị*
* Khoa Luật - Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
Abstract
This article provides analysis of the existence of enterprises
dissolution in Vietnam according to legal rules under Law on
Enterprise of 2014 and unveils some improper rules creating
negative impacts on dissolution process. For instances, there is
no online dissolution procedures for enterprises, the collection of
enterprise seals in dissolution profile, the insufficient control of
illegal enterprises disslolution. Moreover, it is still common to not
control the enterprises in the disappear situation and not dissolving
procedures according to the law in recent years, which are also
significant limitations of the Law on Enterprise of 2014. By the way,
the Paper introduces some legal suggestions to lawmakers such as
modifying rules to identify enterprises in the disappear situation
as well as providing online enterprises disslution to strengthen the
effectiveness of dissolution process.
Thơng tin bài viết:
Từ khĩa: doanh nghiệp, thủ tục giải
thể, cơ quan đăng ký kinh doanh, Luật
Doanh nghiệp
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 23/04/2019
Biên tập : 20/05/2019
Duyệt bài : 27/05/2019
Article Infomation:
Keywords: trade union, legal status,
representation and protection of
workers' rights, freedom of association,
international integration requirements
Article History:
Received : 23 Apr. 2019
Edited : 20 May 2019
Approved : 27 May 2019
1. Giải thể doanh nghiệp - phương thức
chấm dứt hoạt động kinh doanh được doanh
nghiệp lựa chọn phổ biến tại Việt Nam
Giải thể doanh nghiệp là việc chấm
dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bằng
cách thanh lý tài sản của doanh nghiệp để
BÂN VÏÌ DÛÅ ẤN LUÊÅT
40 Số 9(385) T5/2019
thực hiện toàn bộ các nghĩa vụ trả nợ của
doanh nghiệp1. Trong điều kiện kinh tế thị
trường, giải thể doanh nghiệp là hoạt động
diễn ra phổ biến tại nhiều nền kinh tế trên
thế giới. Nhiều quốc gia trên thế giới luật
hóa vấn đề giải thể doanh nghiệp trong các
đạo luật về doanh nghiệp của họ. Chẳng
hạn, Luật Công ty năm 2015 của Canada
đã dành hẳn Chương XVIII từ Section 207
đến Section 229 để điều chỉnh việc giải thể
và thanh lý tài sản của công ty bị giải thể.
Khác với quy định tại Luật Doanh nghiệp
năm 2014 của Việt Nam - trao quyền
quyết định cho phép doanh nghiệp được
giải thể cho cơ quan đăng ký kinh doanh,
Luật Công ty năm 2015 của Canada trao
quyền quyết định giải thể và giám sát việc
giải thể công ty cho Tòa án. Tại Canada,
các giám đốc của công ty và các cổ đông
có quyền biểu quyết tại Đại hội cổ đông
thường niên đều có quyền đưa ra đề nghị
thanh toán tự nguyện và giải thể công ty2.
Tương tự như Luật Công ty năm 2015 của
Canada, Luật Doanh nghiệp thương mại
năm 2005 của Cambodia có Chương 3 từ
Điều 251 đến Điều 269 quy định về giải
thể và thanh lý tài sản của doanh nghiệp.
Tại Cambodia, cơ quan có thẩm quyền
tiếp nhận hồ sơ giải thể và giải quyết cho
doanh nghiệp giải thể là Bộ Thương mại,
ngoài ra, còn có sự tham gia của tòa án
trong việc giám sát giải thể doanh nghiệp3.
Luật Công ty năm 2013 của Trung Quốc
quy định việc giải thể công ty tại Chương
X, từ Điều 180 - Điều 190. Theo quy định
tại Luật này thì thứ tự thanh lý tài sản của
một công ty bị giải thể trước hết phải thanh
toán chi phí giải thể, sau đó đến quyền lợi
của người lao động và cuối cùng là các
khoản nợ của công ty. Sau khi hoàn thành
việc thanh toán các nghĩa vụ nợ, Tổ thanh
lý tài sản nộp hồ sơ giải thể đến Đại hội
1 Xem Trương Thanh Đức, Luận giải về Luật Doanh nghiệp năm 2014, NXB Chính trị quốc gia, 2016, tr. 452
2 Xem: Section 211.1 Luật Công ty Canada năm 2015.
3 Xem: Điều 256 và 264 Luật Doanh nghiệp thương mại Cambodia năm 2005.
4 Xem: Điều 186 và Điều 188 Luật Công ty Trung Quốc năm 2013
cn/1800000121_39_4814_0_7.html#_Toc381707456
5 Nguồn:
htm, ngày 27/12/2018
cổ đông của công ty hoặc nộp cho tòa án
cũng như cho cơ quan đăng ký kinh doanh
để hoàn tất thủ tục giải thể công ty4.
Tại Việt Nam, quy định về giải thể
doanh nghiệp gắn liền với quá trình ra đời
và phát triển của pháp luật doanh nghiệp
qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, từ năm
1990 đến nay. Hiện tại, các quy định đó
được điều chỉnh từ Điều 201 đến Điều 204
Luật Doanh nghiệp năm 2014. Thực tiễn
gần 4 năm thực thi Luật Doanh nghiệp
năm 2014 cho thấy, phần lớn doanh nghiệp
Việt Nam chọn phương thức giải thể để
chấm dứt hoạt động kinh doanh. Cụ thể,
theo thống kê của Tổng cục Thống kê (Bộ
Kế hoạch & Đầu tư), chỉ trong năm 2018,
số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể
là 16.314 doanh nghiệp, tăng 34,7% so
với năm 2017, trung bình mỗi ngày ở Việt
Nam có 45 doanh nghiệp hoàn tất thủ tục
giải thể5.
Về mặt pháp lý, doanh nghiệp có thể
lựa chọn một trong hai phương thức sau để
chấm dứt hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp: một là, thực hiện thủ tục giải thể
- thủ tục hành chính được tiến hành tại
cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh; hai
là, thực hiện thủ tục phá sản mang tính
tố tụng tư pháp, yêu cầu tòa án tuyên bố
chấm dứt hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Thực tế, hầu hết các doanh nghiệp
tại Việt Nam đều chọn phương thức chấm
dứt hoạt động kinh doanh theo thủ tục
giải thể để rút lui khỏi thương trường, còn
thủ tục phá sản ít được cộng đồng doanh
nghiệp Việt Nam đón nhận. Bằng chứng
là theo thống kê của Tòa án nhân dân tối
cao, trong giai đoạn 10 năm thực thi Luật
Phá sản năm 2004 (từ năm 2004 đến năm
2014) các tòa án trên cả nước chỉ tuyên
bố phá sản có... 84 doanh nghiệp. Thậm
BÂN VÏÌ DÛÅ ẤN LUÊÅT
41Số 9(385) T5/2019
chí từ ngày 01/01/2015 đến nay, số lượng
doanh nghiệp bị phá sản tại Việt Nam cũng
không đáng kể so với phương thức giải thể
doanh nghiệp - vốn được nhà đầu tư lựa
chọn phổ biến hơn. Số lượng doanh nghiệp
phá sản6. Trong hoàn cảnh đó, thủ tục giải
thể doanh nghiệp tất yếu được các nhà đầu
tư lựa chọn như giải pháp phù hợp nhất để
đóng cửa doanh nghiệp.
Tuy nhiên, để giải thể một doanh
nghiệp hợp pháp thì doanh nghiệp phải
thuộc một trong bốn trường hợp giải thể
được quy định tại Điều 201 Luật Doanh
nghiệp năm 2014. Ngoài ra, doanh nghiệp
phải thanh toán hết các khoản nợ cho các
chủ nợ trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày
thông qua quyết định giải thể và không bị
“vướng” vào tranh chấp tố tụng tại tòa án
hoặc trọng tài...
2. Những hạn chế của pháp luật về giải
thể doanh nghiệp
Qua quá trình thực thi Luật Doanh
nghiệp năm 2014 đã phát sinh một số bất
cập sau :
Thứ nhất, Luật Doanh nghiệp năm
2014 chưa có quy định kiểm soát tình trạng
doanh nghiệp bỏ trốn, “mất tích” trong
nền kinh tế.
Thực tế, trong thời gian dài đã có một
bộ phận doanh nghiệp chấm dứt hoạt động
kinh doanh mà không tuân thủ trình tự, thủ
tục và điều kiện giải thể doanh nghiệp theo
quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2014.
Thống kê cho thấy, tại thời điểm tháng
04/2018, cả nước có khoảng 8.000 doanh
nghiệp "mất tích", với nợ bảo hiểm xã hội
khoảng 2.000 tỷ đồng7. Điển hình là vụ
biến mất của Công ty TNHH Nam Phương
(100% vốn Hàn Quốc tại khu công nghiệp
Tây Bắc Củ Chi, TP. Hồ Chí Minh) vào
thời điểm tháng 01/2018 đã gây ảnh hưởng
đến quyền lợi của gần 600 công nhân. Hoặc
trường hợp Công ty TNHH BumJin Vina
6 Nguồn:
7 Nguồn:
mat-tich-no-bhxh-gan-2000-ty-dong-139453.html, ngày 13/04/2018
8 Nguồn: https://nld.com.vn/cong-doan/xu-ly-chu-doanh-nghiep-bo-tron-che-tai-phai-nghiem-
khac-2018041513302536.htm
tại Khu công nghiệp Vĩnh Lộc, quận Bình
Tân, TP. Hồ Chí Minh mà Ông Park Kye
Ho - Giám đốc, đại diện pháp luật của công
ty đã bỏ trốn vào ngày 10/02/2018 để lại
khoản nợ bảo hiểm xã hội hơn 2,9 tỷ đồng
chưa thanh toán hoặc Công ty KL Texwell
Vina có trụ sở chính tại tỉnh Đồng Nai cũng
biến mất vào thời điểm tháng 02/2018 để
lại khoản nợ lương người lao động tháng
01/2018 gần 13,7 tỉ đồng và khoản nợ bảo
hiểm xã hội 17,5 tỉ đồng8.
Việc nhiều doanh nghiệp biến mất,
bỏ trốn trong nền kinh tế Việt Nam không
còn là hiện tượng cá biệt. Song, toàn
bộ nội dung Luật Doanh nghiệp 2014,
Nghị định 96/2015/NĐ-CP, Nghị định
78/2015/NĐ-CP, kể cả Nghị định
108/2018/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung Nghị
định 78/2015/NĐ-CP) của Chính phủ lại
không có điều khoản nào đề cập đến nội
dung doanh nghiệp bỏ trốn và các quy định
pháp luật cụ thể để xử lý hiện tượng doanh
nghiệp giải thể “chui” nói trên.
Nghị định 108/2018/NĐ-CP được ban
hành có quy định về trình tự, thủ tục thu
hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
tại Điều 63, song cũng chỉ quy định chung
chung như sau: Trường hợp doanh nghiệp
ngừng hoạt động kinh doanh một năm mà
không thông báo cho cơ quan đăng ký kinh
doanh và cơ quan thuế thì Phòng Đăng ký
kinh doanh thông báo bằng văn bản về
hành vi vi phạm và yêu cầu người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp đến trụ
sở của Phòng để giải trình. Sau 10 ngày
làm việc, kể từ ngày kết thúc thời hạn hẹn
trong thông báo mà người được yêu cầu
không đến hoặc nội dung giải trình không
được chấp thuận thì Phòng Đăng ký kinh
doanh ra quyết định thu hồi Giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp. Hoặc, trường
hợp doanh nghiệp bị cưỡng chế thi hành
quyết định hành chính thuế theo quy định
BÂN VÏÌ DÛÅ ẤN LUÊÅT
42 Số 9(385) T5/2019
tại khoản 26 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Quản lý thuế thì trong
thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận
được văn bản đề nghị thu hồi Giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp của thủ trưởng
cơ quan quản lý thuế thì Phòng Đăng ký
kinh doanh thực hiện thu hồi Giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp.
Mặt khác, đến thời điểm 04/2019,
Chính phủ cũng chưa ban hành Nghị định
về xử phạt hành chính trong lĩnh vực quản
lý nhà nước đối với doanh nghiệp bỏ trốn
để xử lý hành vi của các nhà đầu tư rút
lui khỏi thương trường không tuân thủ luật
định. Thời gian qua, các nghị định về xử
phạt hành chính phần lớn chỉ gián tiếp xử
phạt doanh nghiệp trong các lĩnh vực khác
của nền kinh tế như lĩnh vực kế toán (Nghị
định 41/2018/NĐ-CP), lĩnh vực đăng ký
doanh nghiệp (Nghị định 50/2016/NĐ-CP)
hoặc trong lĩnh vực quản lý thuế, hóa đơn
(Nghị định 49/2016/NĐ-CP),... mà không
có một văn bản nào quy định về xử phạt
hành chính áp dụng đối với doanh nghiệp
bỏ trốn, giải thể “chui”.
Điều 36 của Nghị định 50/2016/NĐ-
CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực
kế hoạch và đầu tư chỉ đề cập đến mức xử
phạt từ 5 - 10 triệu đồng đối với hai hành
vi vi phạm của doanh nghiệp khi giải thể,
đó là doanh nghiệp không tiến hành giải
thể trong các trường hợp giải thể bắt buộc
(doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp, công ty không còn
đủ số lượng thành viên tối thiểu theo luật
định trong thời hạn 6 tháng và kết thúc thời
hạn hoạt động ghi trong điều lệ công ty
mà không được gia hạn) và doanh nghiệp
không gửi quyết định giải thể đến cho các
cơ quan hữu quan theo luật định. Vấn đề
xử lý đối với hành vi bỏ trốn của chủ doanh
nghiệp vẫn còn bỏ ngỏ trong quy định tại
Nghị định 50/2016/NĐ-CP.
Trước đó, vào thời điểm năm 2009,
khi hiện tượng chủ doanh nghiệp bỏ trốn
có chiều hướng gia tăng, Thủ tướng đã
ban hành Quyết định 30/2009/QĐ-TTg
về hỗ trợ đối với người lao động mất việc
làm trong doanh nghiệp gặp khó khăn do
suy giảm kinh tế. Điều 2 của Quyết định
30/2009/QĐ-TTg quy định: người lao động
bị mất việc làm tại doanh nghiệp mà chủ
doanh nghiệp bỏ trốn trong năm 2009 thì
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương ứng ngân sách địa phương trả
cho người lao động có trong danh sách trả
lương của doanh nghiệp khoản tiền lương
mà doanh nghiệp còn nợ người lao động.
Như vậy, Quyết định 30/2009/QĐ-TTg có
nhắc đến khái niệm "chủ doanh nghiệp bỏ
trốn", nhưng tiêu chí như thế nào là "chủ
doanh nghiệp bỏ trốn" đến nay vẫn chưa có
định nghĩa cụ thể. Đồng thời, cũng chưa có
quy định về quy trình xử lý tài sản đối với
doanh nghiệp có chủ bỏ trốn. Đây chính là
"điểm thắt", khiến người lao động và chủ
nợ của doanh nghiệp bỏ trốn bị thiệt hại
nghiêm trọng về quyền lợi. Có thể nói, các
hạn chế trên của pháp luật doanh nghiệp
và pháp luật về xử phạt hành chính trong
lĩnh vực giải thể doanh nghiệp đã làm cho
tình trạng giải thể doanh nghiệp “chui” tại
Việt Nam thời gian qua có chiều hướng
diễn biến xấu, gây nhiều hệ lụy tiêu cực
về kinh tế - xã hội cho nền kinh tế.
Thứ hai, chưa có Nghị định hướng
dẫn trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp
theo quy định tại khoản 9 Điều 202 Luật
Doanh nghiệp năm 2014.
Nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp
và cơ quan quản lý nhà nước trong quá
trình thực thi luật trong thực tiễn, khoản
9 Điều 202 Luật Doanh nghiệp năm 2014
đã giao Chính phủ ban hành Nghị định quy
định chi tiết thi hành Điều 202 Luật Doanh
nghiệp năm 2014.
Tuy nhiên, đến thời điểm tháng
05/2019, tức là gần 4 năm thực thi Luật
Doanh nghiệp 2014, Chính phủ Việt Nam
cũng chưa ban hành Nghị định để quy định
chi tiết về trình tự, thủ tục giải thể doanh
nghiệp theo sự giao phó của Quốc hội. Sự
chậm trễ trên cũng gây khó khăn, lúng túng
không ít cho doanh nghiệp lẫn cơ quan quản
lý nhà nước trong quá trình giải quyết giải
thể cho doanh nghiệp tại Việt Nam. Chẳng
hạn, khoản 1 Điều 202 Luật Doanh nghiệp
năm 2014 quy định: Một quyết định giải thể
doanh nghiệp phải có những nội dung chính
nhưng không đề cập đến hình thức thể hiện
BÂN VÏÌ DÛÅ ẤN LUÊÅT
43Số 9(385) T5/2019
của quyết định giải thể đó là gì? Bằng văn
bản hay bằng tệp điện tử hay bằng lời nói?...
Hoặc theo quy định của khoản 3 Điều 202
Luật Doanh nghiệp năm 2014, trong thời
hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày thông qua,
quyết định giải thể và biên bản họp phải
được gửi đến Cơ quan đăng ký kinh doanh,
cơ quan thuế, người lao động trong doanh
nghiệp. Song, phương thức gửi các quyết
định giải thể trên là gì cũng chưa được
làm rõ, gây trở ngại cho quá trình áp dụng
pháp luật. Nếu những vấn đề trên được cụ
thể hóa tại Nghị định thi hành Luật Doanh
nghiệp năm 2014 thì mới đảm bảo được
sự thông suốt của trình tự, thủ tục giải thể
doanh nghiệp.
Thứ ba, hồ sơ giải thể chưa được cập
nhật theo quy định mới tại Luật Doanh
nghiệp 2014 về thủ tục khắc dấu doanh
nghiệp, gây phiền hà cho doanh nghiệp.
Điều 44 Luật Doanh nghiệp năm
2014 cho phép doanh nghiệp có quyền
quyết định về hình thức, số lượng và nội
dung con dấu của doanh nghiệp. Việc sử
dụng, quản lý và lưu giữ con dấu thực hiện
theo quy định tại Điều lệ công ty. Như vậy,
doanh nghiệp có quyền chủ động trong
việc khắc dấu mà không phải thực hiện thủ
tục đăng ký mẫu dấu/khắc dấu tại Sở Công
an như quy định trước đây tại Luật Doanh
nghiệp năm 2005. Số lượng con dấu cũng
do doanh nghiệp tự quyết. Hệ quả, có thể
có những doanh nghiệp không có nhu cầu
sử dụng con dấu thì họ sẽ không tốn kém
chi phí tài chính để khắc dấu. Bên cạnh đó,
Khoản 4 Điều 44 Luật Doanh nghiệp năm
2014 cũng có quy định thông thoáng khi
xác định con dấu của doanh nghiệp được
sử dụng trong các trường hợp theo quy định
của pháp luật hoặc các bên giao dịch có
thỏa thuận về việc sử dụng dấu.
Tuy nhiên, theo quy định của khoản
1 Điều 204 Luật Doanh nghiệp năm 2014,
trong hồ sơ giải thể doanh nghiệp nộp cho
cơ quan đăng ký kinh doanh, ngoài thông
báo giải thể doanh nghiệp, giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp, Báo cáo
thanh lý tài sản của doanh nghiệp thì nhà
làm luật còn yêu cầu doanh nghiệp nộp lại
con dấu/giấy chứng nhận đăng ký mẫu dấu
(nếu có). Theo chúng tôi, quy định trên là
không cần thiết vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, theo nguyên lý chung, con
dấu của doanh nghiệp là do doanh nghiệp
tự quyết định việc có hay không và có
với số lượng bao nhiêu con dấu cũng do ý
chí của doanh nghiệp tự quyết, Nhà nước
không còn kiểm soát việc hình thành con
dấu của doanh nghiệp khắt khe như quy
định trước đây tại Luật Doanh nghiệp năm
2005. Do đó, yêu cầu doanh nghiệp nộp
trả lại con dấu cho cơ quan đăng ký kinh
doanh là không còn phù hợp với quy định
về cải cách thủ tục hành chính trong thành
lập doanh nghiệp, hoàn toàn lệch pha so
với quy định về quyền tự chủ trong khắc
con dấu của doanh nghiệp theo quy định
tại Điều 44 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
Thứ hai, việc quy định doanh nghiệp
phải nộp trả con dấu cho cơ quan đăng ký
kinh doanh nhưng không nêu cụ thể doanh
nghiệp phải nộp trả với số lượng bao nhiêu
con dấu: chỉ nộp một con dấu mang tính
tượng trưng hay tất cả các con dấu mà
doanh nghiệp đang sở hữu? dẫn đến nhiều
cách hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau
trên thực tế thời gian qua tại Việt Nam.
Thứ ba, con dấu doanh nghiệp tự
khắc, giá trị pháp lý của con dấu cũng chỉ
là được sử dụng trong các trường hợp theo
quy định của pháp luật hoặc các bên giao
dịch có thỏa thuận về việc sử dụng dấu,
không còn mang tính thiết yếu đối với
doanh nghiệp như trước đây. Điều 400 và
Điều 401 Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ quy
định: hợp đồng được giao kết hợp pháp có
hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan
có quy định khác. Còn thời điểm giao kết
hợp đồng bằng văn bản được giải thích là
thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay
bằng hình thức chấp nhận khác được thể
hiện trên văn bản. Như vậy, Bộ luật Dân
sự năm 2015 không có quy định nào ràng
buộc các hợp đồng ký kết bằng văn bản
phải có đóng dấu của doanh nghiệp thì mới
có hiệu lực pháp luật. Điều đó có nghĩa là
tính pháp lý của con dấu cũng không mang
nhiều ý nghĩa trong thực tiễn hoạt động
thương mại của doanh nghiệp. Do đó, nếu
BÂN VÏÌ DÛÅ ẤN LUÊÅT
44 Số 9(385) T5/2019
quy định doanh nghiệp nộp trả con dấu mà
doanh nghiệp lại tự đi khắc thêm các con
dấu khác để giao dịch thì liệu Nhà nước
có kiểm soát được hoạt động này không?
Vì vậy, quy định hồ sơ giải thể phải đính
kèm con dấu và giấy chứng nhận đăng ký
mẫu dấu là không phù hợp với thực tế hoạt
động của doanh nghiệp và mâu thuẫn với
quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2014
trong cải cách thủ tục khắc dấu, không
mang nhiều ý nghĩa về mặt quản lý nhà
nước đối với doanh nghiệp
Thứ tư, Luật Doanh nghiệp năm
2014 chưa quy định về thủ tục giải thể
doanh nghiệp bằng phương thức trực tuyến
(online).
Trong bối cảnh công nghệ thông tin
bùng nổ như hiện nay thì phần lớn các quốc
gia trên thế giới đều ứng dụng công nghệ
cao vào phát triển kinh tế, đặc biệt là trong
hoạt động quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước, tiết giảm chi phí tài chính, thời
gian, công sức cho doanh nghiệp. Tại Việt
Nam, thủ tục đăng ký doanh nghiệp đã có
những thay đổi mang tính đột phá thông qua
các quy định tại Nghị định 78/2015/NĐ-CP
và Nghị định 108/2018/NĐ-CP. Nhà nước
khuyến khích nhà đầu tư ứng dụng công
nghệ thông tin trong thủ tục gia nhập thị
trường, với nhiều lợi thế đáng kể về thời
gian, chi phí tài chính. Chẳng hạn, theo
quy định tại Thông tư 130/2017/TT-BTC
của Bộ Tài chính thì doanh nghiệp đăng ký
online sẽ được miễn lệ phí đăng ký doanh
nghiệp, còn nếu đăng ký trực tiếp sẽ phải
tốn lệ phí là 100.000 đồng.
Tuy nhiên, đối với thủ tục giải thể
doanh nghiệp, việc ứng dụng công nghệ
cao vẫn là một bước lùi so với thủ tục
đăng ký doanh nghiệp. Bằng chứng là
Luật Doanh nghiệp năm 2014 và các văn
bản hướng dẫn thi hành không có quy
định nào điều chỉnh quy trình, thủ tục giải
thể doanh nghiệp online nhằm tạo thuận
lợi cho nhà đầu tư trong quá trình rút lui
khỏi thị trường. Từ ngày 01/07/2015 cho
đến nay, doanh nghiệp vẫn phải trực tiếp
nộp hồ sơ giải thể tại cơ quan đăng ký kinh
doanh, mối quan hệ giữa nhà đầu tư với cơ
quan công quyền phát sinh trong quá trình
giải thể doanh nghiệp đều được giải quyết
bằng phương thức liên hệ trực tiếp, làm
phát sinh chi phí tài chính, thời gian, công
sức cho nhà đầu tư một cách không đáng
có, đi ngược lại với xu thế chung của thế
giới, không phù hợp với nỗ lực xây dựng
một chính phủ điện tử mà nhà nước Việt
Nam đang thực hiện trong giai đoạn hội
nhập hiện nay.
Thứ năm, Luật Doanh nghiệp năm
2014 chưa quy định việc gửi quyết định
giải thể doanh nghiệp cho cơ quan bảo
hiểm xã hội để đảm bảo nghĩa vụ đóng
bảo hiểm xã hội cho người lao động trước
khi doanh nghiệp chấm dứt hoạt động.
Hiện tại, khoản 3 Điều 202 Luật
Doanh nghiệp năm 2014 chỉ quy định trong
thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày thông
qua, quyết định giải thể và biên bản họp phải
được gửi đến cơ quan đăng ký kinh doanh,
cơ quan thuế, người lao động trong doanh
nghiệp, đăng quyết định giải thể trên Cổng
thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp
và niêm yết công khai tại trụ sở chính, chi
nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp.
Trong khi đó, theo quy định của khoản 5
Điều 202 và khoản 1 Điều 204 Luật Doanh
nghiệp năm 2014, thứ tự thanh lý tài sản của
doanh nghiệp khi giải thể và trong hồ sơ giải
thể doanh nghiệp gửi về cho cơ quan đăng
ký kinh doanh luôn đề cập đến việc thanh
toán nợ bảo hiểm xã hội đối với người lao
động. Vai trò của cơ quan bảo hiểm xã hội
tại địa phương nơi doanh nghiệp đặt trụ sở
chính là chủ thể quản lý tiền bảo hiểm xã hội
mà doanh nghiệp đóng cho người lao động,
nhưng khi doanh nghiệp giải thể thì quyết
định giải thể lại không được gửi đến cho
cơ quan bảo hiểm xã hội là không phù hợp.
Bởi lẽ, thực tế việc cơ quan bảo hiểm xã hội
xác nhận doanh nghiệp hoàn thành nghĩa vụ
đóng bảo hiểm xã hội, giám sát doanh nghiệp
trong việc thực hiện nghĩa vụ đóng bảo hiểm
xã hội được xem như một trong những điều
kiện tiên quyết để doanh nghiệp giải thể.
Việc bỏ sót chủ thể được thông báo/gửi quyết
định giải thể là cơ quan bảo hiểm xã hội như
trên vô hình trung gây khó khăn không ít cho
doanh nghiệp trong quá trình giải thể, vì nếu
BÂN VÏÌ DÛÅ ẤN LUÊÅT
45Số 9(385) T5/2019
cơ quan bảo hiểm xã hội không nắm được
thông tin doanh nghiệp giải thể ngay từ đầu
thì khó cho cơ quan này xác nhận cho doanh
nghiệp giải thể việc hoàn thành nghĩa vụ
đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động,
do đó dễ dẫn đến việc ách tắc trong tiến trình
giải thể doanh nghiệp trên thực tế.
3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật về giải thể doanh nghiệp
Để tạo thuận lợi cho quá trình giải
thể doanh nghiệp trong thời gian tới và
khắc phục các vướng mắc, bất cập của quy
định pháp luật doanh nghiệp thời gian qua,
chúng tôi kiến nghị một số nội dung hoàn
thiện pháp luật như sau:
Thứ nhất, luật hóa tiêu chí xác định
chủ doanh nghiệp bỏ trốn để làm cơ sở giải
quyết cho giải thể các doanh nghiệp “mất
tích” trong nền kinh tế và bổ sung một số
trường hợp giải thể doanh nghiệp vào Luật
Doanh nghiệp năm 2014 cho phù hợp với
diễn biến thực tế của doanh nghiệp Việt
Nam. Đối với tiêu chí xác định một doanh
nghiệp mất tích/chủ doanh nghiệp bỏ trốn,
Luật Doanh nghiệp cần quy định trong
vòng bao nhiêu ngày người đại diện của
doanh nghiệp vắng mặt mà không có thông
báo cho chính quyền sở tại và không có ủy
quyền hợp pháp cho người khác hoặc các
cơ quan chức năng đã có thông báo công
khai mà chủ doanh nghiệp không có phản
hồi thì được xem là "chủ doanh nghiệp
bỏ trốn". Khi đó, cơ quan chức năng được
quyền thanh lý tài sản của doanh nghiệp
theo luật định để trả lương, bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế cho người lao động.
Đồng thời, qua đó làm cơ sở cho người lao
động hoặc tổ chức Công đoàn khởi kiện,
yêu cầu phá sản doanh nghiệp để đảm bảo
quyền lợi cho người lao động.
Thứ hai, sửa đổi khoản 3 Điều 202
Luật Doanh nghiệp năm 2014 theo hướng
bổ sung quy định yêu cầu doanh nghiệp
giải thể phải gửi quyết định giải thể doanh
nghiệp đến cơ quan bảo hiểm xã hội bên
cạnh các cơ quan hữu quan khác. Theo
đó, trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ
ngày thông qua, quyết định giải thể và biên
bản họp phải được gửi đến Cơ quan đăng
ký kinh doanh, cơ quan thuế, cơ quan bảo
hiểm xã hội và người lao động trong doanh
nghiệp. Việc bổ sung chủ thể cơ quan bảo
hiểm xã hội được gửi/thông báo quyết định
giải thể nêu trên sẽ khắc phục các rào cản
trong thủ tục giải thể doanh nghiệp thời
gian qua tại Việt Nam, không những góp
phần bảo vệ quyền lợi người lao động, mà
còn đảm bảo cho việc quản lý nhà nước
của cơ quan bảo hiểm xã hội đối với doanh
nghiệp giải thể được chặt chẽ hơn, hạn chế
các trở ngại phát sinh trong quá trình thanh
lý tài sản của doanh nghiệp giải thể.
Thứ ba, Chính phủ cần ban hành
Nghị định quy định chi tiết về trình tự, thủ
tục giải thể doanh nghiệp theo quy định
của Khoản 9 Điều 202 Luật Doanh nghiệp
năm 2014 nhằm tạo thuận lợi cho việc giải
quyết giải thể doanh nghiệp từ phía cơ
quan công quyền lẫn doanh nghiệp
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2014
[2] Luật Công ty Canada năm 2015
[3] Luật Công ty Trung Quốc năm 2013
[4] Luật Doanh nghiệp thương mại Cambodia năm 2009
[5] Nghị định 78/2015/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 14/09/2015 về đăng ký doanh nghiệp
[6] Nghị định 108/2018/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 23/08/2018 về sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp
[7] Trương Thanh Đức : Luận giải về Luật Doanh nghiệp năm 2014, NXB Chính trị quốc gia, 2016
[8] Nguyễn Văn Hậu, Nguyễn Thị Như Hà, “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
trong điều kiện Việt Nam là thành viên WTO”, NXB Chính trị quốc gia, năm 2009
[9] www.doingbusiness.org
[10] www.dangkykinhdoanh.gov.vn
BÂN VÏÌ DÛÅ ẤN LUÊÅT
46 Số 9(385) T5/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quy_dinh_ve_giai_the_doanh_nghiep_tai_luat_doanh_nghiep_nam.pdf