5) Để nâng cao trách nhiệm của
NSDLĐ trong công tác quản lý NLĐ, cần
yêu cầu NSDLĐ phải nộp một khoản tiền
thích hợp nhằm bảo đảm nghĩa vụ của mình
tại ngân hàng. Hiện nay, pháp luật Việt Nam
chỉ dự trù tới việc NSDLĐ có thể sử dụng
các biện pháp bảo đảm bằng tiền hoặc tài sản
để đảm bảo NLĐ sẽ thực hiện hợp đồng lao
động, từ đó đưa ra quy định cấm điều này25
nhưng chưa chú ý đến vai trò của NSDLĐ
trong công tác quản lý NLĐ cũng như tính
đến khả năng NSDLĐ sẽ không thực hiện
đúng và đầy đủ các nghĩa vụ của mình theo
quy định. Do vậy, pháp luật Việt Nam cần
bổ sung quy định về khoản tiền bảo đảm
nghĩa vụ từ phía NSDLĐ. Quy định này sẽ
khiến NSDLĐ sẽ có ý thức và trách nhiệm
hơn trong việc phối hợp với các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền để quản lý NLĐ
hiệu quả.
6) Bên cạnh những biện pháp mang
tính cưỡng chế, mục tiêu quan trọng nhất
để công tác quản lý lao động nước ngoài
có hiệu quả là việc nâng cao nhận thức, ý
thức tự giác chấp hành quy định của pháp
luật từ phía các doanh nghiệp và NLĐ, bởi
lẽ đa số các trường hợp khiến công tác quản
lý lao động nước ngoài gặp khó khăn đều
xuất phát từ hai chủ thể tham gia quan hệ lao
động này. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
phổ biến để doanh nghiệp trong nước và lao
động nước ngoài hiểu rõ được những lợi ích
nếu hợp tác và phối hợp tốt với các cơ quan
nhà nước trong công tác quản lý lao động
nước ngoài.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 236 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quy định về xuất nhập cảnh, cư trú và lao động của người lao động nước ngoài ở một số quốc gia vùng vịnh và những gợi mở cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
QUY ĐỊNH VỀ XUẤT NHẬP CẢNH, CƯ TRÚ VÀ LAO ĐỘNG CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
NƯỚC NGOÀI Ở MỘT SỐ QUỐC GIA VÙNG VỊNH VÀ NHỮNG GỢI MỞ CHO VIỆT NAM
Tóm tắt:
Xuất nhập cảnh, cư trú và lao động của người lao động nước ngoài
có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa
của mỗi quốc gia. Bên cạnh những tác động tích cực thúc đẩy đầu
tư, hợp tác kinh doanh, mở ra cơ hội nâng cao trình độ nguồn nhân
lực, tiếp cận với nền khoa học công nghệ phát triển, chuyển giao
tri thức, giao lưu văn hóa, những hoạt động đó cũng phát sinh
không ít hệ quả tiêu cực về chính trị, an ninh, kinh tế, văn hóa, xã
hội của nước sở tại. Tham khảo quy định pháp luật đối với việc
nhập cư, cư trú, lao động của người lao động nước ngoài ở các
quốc gia vùng Vịnh mà điển hình là Qatar và UAE sẽ có giá trị
tham khảo cho Việt Nam và cộng đồng khu vực trong bối cảnh
hiện nay.
Nguyễn Thị Kim Cúc*
Mai Văn Thắng**
* Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh
** TS. Khoa Luật-Đại học Quốc gia Hà Nội
Abstract
Immigration, residence and employment of the foreign workers
provide a significant impacts on the economic, social and cultural
developments of each country. In addition to the positive impacts
on boosting investment and business cooperation, opening
up opportunities to improve the qualifications of the human
resources, accessing to the development of science and technology,
knowledge transfer, cultural exchange etc., these activities also
generate a number of negative impacts on politics, security,
economics, culture and socity of the host country. It is valuable
for Vietnam to review and get reference from the legal regulations
on immigration, residence, and employment of foreign workers in
Gulf countries, for example Qatar and the UAE and the regional
community under the current context.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Vùng Vịnh, lao động nước
ngoài, xuất nhập cảnh, cư trú, pháp
luật
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 03/09/2018
Biên tập : 20/09/2018
Duyệt bài : 25/09/2018
Article Infomation:
Keywords: Gulf countries; foreign
workers; immigration; residence; law.
Article History:
Received : 03 Sep. 2018
Edited : 20 Sep. 2018
Approved : 25 Sep. 2018
1. Những quy định cơ bản của các quốc
gia trong Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh về
xuất nhập cảnh, cư trú và lao động của
người lao động nước ngoài
Hội đồng Hợp tác các nước Ả rập
vùng Vịnh (hay còn gọi là Hội đồng Hợp tác
vùng Vịnh), được thành lập từ năm 1981,
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
118 Số 2+3(378+379) T1/2019
là một liên minh chính trị và kinh tế của tất
cả các quốc gia Ả rập ở khu vực Vịnh Ba
Tư, ngoại trừ Iraq1. Theo một báo cáo của
Trung tâm nghiên cứu Al Jazeera tại Qatar,
các quốc gia vùng Vịnh đứng đầu thế giới
về số lượng người lao động (NLĐ) nước
ngoài được tuyển dụng2 và tổng số lao động
nước ngoài chiếm hơn một nửa tổng dân số
của các quốc gia vùng Vịnh cộng lại, ngoại
trừ Arab Saudi3. Lực lượng lao động nước
ngoài ở các quốc gia này có nguồn gốc từ tất
cả các quốc gia trên thế giới, nhưng chủ yếu
đến từ Tây Nam Á, Đông Nam Á và Nam
Á4 với trình độ nhận thức, văn hóa, sắc tộc
nhiều khác biệt với cư dân bản địa và phần
lớn làm việc trong lĩnh vực xây dựng, dịch
vụ với mức lương thấp. Người nước ngoài
sinh sống, làm việc tại vùng Vịnh hầu như
không có cơ hội được cấp thẻ thường trú
hay nhập quốc tịch, trừ khi kết hôn với công
dân các quốc gia này. Trước tình trạng tỷ lệ
lao động nước ngoài luôn ở mức rất cao, các
quốc gia trong Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh
đã xây dựng một hệ thống pháp luật, chính
sách phù hợp để quản lý lao động nước
ngoài hiệu quả, giải quyết bài toán kinh tế,
giữ vững hệ thống an sinh xã hội, bảo vệ
bản sắc văn hóa, chính trị, truyền thống của
dân tộc.
1 https://www.globalsecurity.org/military/world/gulf/gcc.htm, truy cập ngày 20/12/2017
2 Theo số liệu năm 2014 là 17 triệu người. Nguồn: https://www.dailysabah.com/business/2016/01/28/gulf-countries-em-
ploy-highest-number-of-foreign-workers, truy cập ngày 20/12/2017
3 https://www.dailysabah.com/business/2016/01/28/gulf-countries-employ-highest-number-of-foreign-workers, truy
cập ngày 20/12/2017
4 Ai Cập, Syria, Jordan, Li-băng, Pakistan, Ấn Độ, Philippines, Bangladesh, Indonesia và Sri Lanka là những quốc gia
có công dân đến làm việc tại khu vực vùng Vịnh cao nhất.
Nguồn: https://www.dailysabah.com/business/2016/01/28/gulf-countries-employ-highest-number-of-foreign-workers,
truy cập ngày 31/08/2018
5 Kafala có nguồn gốc xuất phát từ tiếng Ả rập, có nghĩa là tài trợ. Nguồn gốc của chính sách này bắt nguồn từ nghề khai
thác, bắt ngọc trai truyền thống Vịnh Ba Tư từ xa xưa.
1.1 Những quy định chung của khu vực
về xuất nhập cảnh, cư trú và lao động của
NLĐ nước ngoài
Hoạt động xuất nhập cảnh, cư trú và
lao động của NLĐ nước ngoài tại các quốc
gia trong Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh
được điều chỉnh bởi cơ chế Kafala5. Ở một
số quốc gia trong khu vực vùng Vịnh, như
Qatar, cơ chế này được cụ thể hóa bằng Luật
Tài trợ (Sponsorship Law), còn ở các quốc
gia khác, như Kuwait, cơ chế Kafala được
thể hiện thông qua các quy định cụ thể trong
luật về cư trú hay nhập cư.
Kafala vốn là một hệ thống kiểm soát
và trong bối cảnh dịch chuyển lao động như
hiện nay, cơ chế này là cách thức để các
chính phủ quản lý lao động nước ngoài, trao
trách nhiệm giám sát họ cho các cá nhân và
pháp nhân có liên quan. Hệ thống này cung
cấp cho người sử dụng lao động (NSDLĐ)
bộ các công cụ pháp lý để quản lý NLĐ của
mình. Cụ thể, nếu không được phép của
NSDLĐ, NLĐ không thể thay đổi công việc,
nghỉ việc hay rời khỏi quốc gia sở tại. Nếu
NLĐ tự ý nghỉ việc mà không được phép
của NSDLĐ, NSDLĐ có quyền hủy thị thực
cư trú của NLĐ và NLĐ ngay lập tức trở
thành người cư trú bất hợp pháp. Sau khi bị
hủy thị thực cư trú, về nguyên tắc, NLĐ phải
lập tức rời khỏi quốc gia sở tại. Mọi hoạt
động của cơ chế Kafala sẽ được giám sát
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
119Số 2+3(378+379) T1/2019
bởi Bộ Nội vụ của mỗi quốc gia trong Hội
đồng Hợp tác vùng Vịnh6. Theo Azfar Khan,
chuyên gia về Di trú của Văn phòng Tổ chức
Lao động thế giới phụ trách các quốc gia Ả
rập, cơ chế Kafala khi mới ra đời được đánh
giá là một hệ thống tốt khi trao trách nhiệm
“chăm sóc” người nước ngoài cho các công
dân của quốc gia sở tại7.
Mặc dù các quốc gia trong Hội đồng
Hợp tác vùng Vịnh đều áp dụng cơ chế
Kafala và các quy định pháp luật tạo nên cơ
chế Kafala ở các quốc gia này là giống nhau,
nhưng có một số khác biệt đáng chú ý là:
trong số sáu quốc gia trong Hội đồng, Qatar
và Arab Saudi là hai quốc gia vùng Vịnh
yêu cầu NLĐ nhập cư phải có giấy cho phép
xuất cảnh trước khi rời khỏi quốc gia sở tại8.
Như vậy, khi NLĐ muốn rời khỏi Qatar và
Arab Saudi, họ phải yêu cầu NSDLĐ cấp
cho loại giấy này, bất kể họ đang làm việc ở
vị trí nào, là công nhân lao động hay giám
đốc điều hành. Trong trường hợp tranh chấp
lao động đang xảy ra, NSDLĐ có quyền từ
chối cấp loại giấy cho phép trên. Ở các nước
khác, NSDLĐ có thể tiến hành một số hoạt
động nhằm ngăn cản việc NLĐ do mình bảo
trợ rời khỏi quốc gia sở tại mà không được
sự cho phép của mình. Nếu NSDLĐ thông
báo cho chính phủ về việc NLĐ đã bỏ trốn
hay nghỉ việc mà chưa được sự cho phép
của NSDLĐ thì NLĐ có thể sẽ bị truy cứu
trách nhiệm hình sự. Chỉ riêng năm 2014,
tại Kuwait, có khoảng 12.000 trường hợp
6 https://www.ilo.org/dyn/migpractice/docs/132/PB2.pdf, truy cập ngày 31/08/2018
7 https://www.thenational.ae/world/mena/some-domestic-workers-work-up-to-100-hours-a-week-1.276987, truy cập
ngày 21/12/2017
8 https://www.migrant-rights.org/2015/03/understanding-kafala-an-archaic-law-at-cross-purposes-with-modern-devel-
opment/, truy cập ngày 22/12/2017
9 truy cập ngày
22/12/2017
10 https://www.migrant-rights.org/2015/03/understanding-kafala-an-archaic-law-at-cross-purposes-with-modern-devel-
opment/, truy cập ngày 22/12/2017
lao động nước ngoài bỏ trốn9. Ngay khi cơ
quan có thẩm quyền nhận được thông báo
của NSDLĐ về vấn đề này, toàn bộ thị thực
cư trú của những trường hợp lao động bỏ
trốn sẽ bị hủy. Như vậy, những NLĐ này sẽ
không thể rời khỏi quốc gia sở tại cho đến
khi NSDLĐ rút đơn khiếu nại, đồng thời phải
có sự can thiệp của cơ quan đại diện ngoại
giao của quốc gia mà NLĐ là công dân và có
sự đồng ý của NSDLĐ. Ở Bahrain, NLĐ có
thể thay đổi công việc mà không cần sự cho
phép của NSDLĐ sau một năm làm việc. Ở
UAE, NLĐ nước ngoài chỉ có thể tìm cho
mình một NSDLĐ mới mà không cần sự
cho phép của NSDLĐ cũ nếu họ nhận được
sự cho phép đặc biệt từ Bộ Lao động khi đáp
ứng được một số điều kiện nhất định, ví dụ
như chứng minh được rằng NSDLĐ đã vi
phạm hợp đồng hoặc chứng minh được rằng
NSDLĐ đã đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động. Ngoài một số trường hợp ngoại
lệ trên, NLĐ chỉ có thể thay đổi công việc
nếu được sự đồng ý của NSDLĐ và trong
nhiều trường hợp việc đồng ý này phải được
chứng minh thông qua “giấy chứng nhận
không phản đối” (no objection certificate).
Ngoài Bahrain và UAE, ở các nước khác
trong khu vực, NLĐ không thể thay đổi
công việc của mình nếu không có sự cho
phép của NSDLĐ, bất kể thời gian làm việc
là ngắn hay dài. Cách duy nhất để NLĐ có
thể thay đổi công việc là nhận được sự chấp
thuận đặc biệt từ Bộ Nội vụ hoặc trong một
số trường hợp có thể kiện lên Tòa án10.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
120 Số 2+3(378+379) T1/2019
1.2 Những quy định của pháp luật Qatar
về xuất nhập cảnh, cư trú và lao động của
NLĐ nước ngoài
Cũng như các quốc gia trong khu vực,
Qatar đã áp dụng cơ chế Kafala. Theo đó,
lao động nước ngoài phải có nhà bảo trợ
(kafeel) nếu muốn làm việc tại Qatar. Mọi
hoạt động xuất nhập cảnh, cư trú, lao động
của người nước ngoài tại Qatar sẽ chịu sự
giám sát của người bảo trợ (NSDLĐ). Khi
NSDLĐ không còn bảo trợ cho NLĐ nữa,
họ sẽ không còn cơ hội được tiếp tục cư trú,
lao động tại Qatar.
Mối quan hệ giữa NSDLĐ và NLĐ ở
Qatar chủ yếu do Luật Lao động Qatar năm
2004 điều chỉnh. Liên quan đến hợp đồng
lao động, Luật Lao động Qatar quy định tất
cả hợp đồng và các tài liệu liên quan phải
được soạn thảo bằng tiếng Ả rập. Các văn
bản này có thể được dịch sang các ngôn
ngữ khác nhưng khi tranh chấp xảy ra, hợp
đồng bằng tiếng Ả rập sẽ là căn cứ ưu tiên
xem xét. Hợp đồng lao động phải được soạn
thành 03 bản, một bản NSDLĐ giữ, một bản
NLĐ giữ và một bản được gửi tới Bộ Lao
động. Hợp đồng lao động phải nêu rõ mối
quan hệ giữa hai bên và gồm các nội dung
bắt buộc như tên, nơi làm việc của NSDLĐ,
các thông tin cơ bản về NLĐ (trình độ, bằng
cấp, quốc tịch, nghề nghiệp, nơi cư trú), thời
hạn của hợp đồng gồm chính xác ngày bắt
đầu và ngày kết thúc công việc, bản chất,
loại hình công việc và nơi ký kết hợp đồng,
mức lương, phương thức thanh toán và ngày
thanh toán lương định kỳ11. Luật Lao động
Qatar năm 2004 được sửa đổi, bổ sung bởi
11 Xem Luật Lao động Qatar 2004, Nguồn: https://qatarlaborlaw.com/qatar-labor-law/, truy cập ngày 31/08/2018.
12 Xem Luật Bảo trợ Qatar 2009
Nguồn:
Law%20on%20Entry%20Exit%20Residence%20Sponsorship%204_2009_EN.pdf, truy cập 31/08/2018)
Luật số 03 ban hành ngày 04/02/2014 với
nội dung liên quan đến các trường hợp miễn
trừ không thuộc sự điều chỉnh của Luật Lao
động Qatar, và việc mở rộng các trường hợp
giao dịch sẽ chịu mức phí theo quy định của
Hội đồng Bộ trưởng.
Là một quốc gia sử dụng cơ chế Kafala,
Qatar đã nội luật hóa cơ chế này bằng Luật
số 04 năm 2009 liên quan đến vấn đề xuất
nhập cảnh của người nước ngoài, việc cư trú
và bảo trợ họ (gọi tắt là Luật Bảo trợ 2009).
Luật này đưa ra những điều kiện mà người
nước ngoài cần đáp ứng để có thể nhập cảnh
vào và xuất cảnh từ Qatar, những điều kiện
tiên quyết để một người nước ngoài được
coi là cư trú hợp pháp trên lãnh thổ Qatar,
các quy định về bảo trợ người nước ngoài,
những tiêu chí nhằm xác định những công
việc không thuộc danh mục buộc phải bảo
trợ, những hình thức xử phạt nếu vi phạm
pháp luật và đưa ra các cách thức để giải
quyết các mâu thuẫn, xung đột phát sinh12.
Năm 2015, Quốc vương Qatar đã ban hành
Luật số 21 quy định chi tiết các vấn đề xuất
nhập cảnh, cư trú của người nước ngoài tại
Qatar để thay thế Luật Bảo trợ 2009. Như
vậy, hiện nay hệ thống pháp luật liên quan
đến NLĐ nước ngoài chủ yếu là: Luật Lao
động 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) và
Luật số 21 quy định chi tiết các vấn đề xuất
nhập cảnh, cư trú của người nước ngoài
tại Qatar năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017). Đây là hai văn bản chứa đựng các
quy định chi tiết liên quan đến các hoạt động
của lao động nước ngoài tại Qatar, là cơ sở
pháp lý để hoạt động quản lý lao động nước
ngoài tại Qatar được vận hành hiệu quả.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
121Số 2+3(378+379) T1/2019
Điểm đáng lưu ý của pháp luật Qatar
về lĩnh vực này nằm ở những thay đổi gần
đây. Những điểm thay đổi quan trọng trong
Luật số 21 năm 2015 so với Luật Bảo trợ
2009 là việc Luật này đã chi tiết hóa các quy
định và nâng cao trách nhiệm báo cáo của
NSDLĐ. Cụ thể, NSDLĐ phải:
1) Cung cấp một hợp đồng lao động
với những điều khoản rõ ràng, cụ thể, dựa
trên thỏa thuận của hai bên để NLĐ có thể
dễ dàng xin thị thực lao động nhập cảnh vào
Qatar tại cơ quan có thẩm quyền;
2) Có nghĩa vụ thông báo tới các cơ
quan có thẩm quyền về hoạt động xuất cảnh
của NLĐ. Thời gian thông báo tối thiểu là
03 ngày trước ngày xuất cảnh;
3) Phải tuân thủ các thủ tục về việc
cấp giấy phép cư trú và gia hạn giấy phép cư
trú cho NLĐ. Thời gian để tiến hành các thủ
tục gia hạn giấy phép cư trú tối đa là 90 ngày
kể từ ngày giấy phép đó hết hạn;
4) Có trách nhiệm phối hợp với các
cơ quan có thẩm quyền trong việc đốc thúc
NLĐ hoàn tất các thủ tục về giấy phép cư
trú. Trong vòng 30 ngày kể từ ngày NLĐ
nhập cảnh vào lãnh thổ Qatar, NSDLĐ phải
yêu cầu NLĐ đến gặp các cơ quan có thẩm
quyền để hoàn tất các thủ tục về giấy phép;
5) Chủ động giúp đỡ NLĐ nữ trong
việc tiến hành các thủ tục để khai sinh cho
con của họ. Trong vòng 60 ngày kể từ khi
đứa trẻ chào đời, NSDLĐ phải nộp đơn yêu
cầu tới các cơ quan có thẩm quyền yêu cầu
xác nhận về sự hiện diện của đứa trẻ trên
lãnh thổ Qatar. Điều này sẽ giúp các cơ quan
quản lý lao động nước ngoài cập nhật được
số lượng lao động nước ngoài hiện đang cư
13 Chi tiết xem các Điều từ Điều 4 đến Điều 20, Luật số 21, năm 2015 quy định chi tiết các vấn đề xuất nhập cảnh, cư trú
của người nước ngoài tại Qatar.
trú trên lãnh thổ Qatar để có những cơ chế
quản lý hiệu quả;
6) Có nghĩa vụ thông báo cho cơ quan
có thẩm quyền trong vòng 14 ngày kể từ
ngày NLĐ không còn làm việc cho NSDLĐ
nữa hoặc kể từ ngày người đó rời khỏi Qatar
sau khi đã thu hồi giấy phép cư trú;
7) Phải nộp một khoản tiền ở ngân
hàng để đảm bảo những nghĩa vụ của mình
đối với lao động nước ngoài và Bộ Nội vụ
Qatar nếu có sử dụng lao động nước ngoài.
Quy định này nhằm hạn chế việc NSDLĐ
nước ngoài lạm dụng quyền hạn của mình
đối xử không đúng với lao động nước ngoài
cũng như không hoàn thành nghĩa vụ thông
báo đối với các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền13.
Ngoài ra, so với cơ chế Kafala và Luật
2009, Luật số 21 còn bao hàm nhiều quy
định mới liên quan đến NLĐ nước ngoài.
Có thể kể đến:
1) lao động nước ngoài chỉ được nhập
cảnh vào hoặc xuất cảnh từ Qatar nếu người
đó có hộ chiếu hoặc giấy thông hành hợp lệ
và thị thực nhập cảnh do cơ quan có thẩm
quyền cấp có ghi rõ mục đích nhập cảnh là
đến để làm việc;
2) lao động nước ngoài phải thông
báo cho cơ quan có thẩm quyền về bất kỳ
chuyến đi nào rời khỏi Qatar của mình trước
ngày xuất cảnh ít nhất 03 ngày. Nếu chuyến
đi gặp phải sự phản đối không chính đáng
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc
NSDLĐ thì NLĐ có quyền khiếu nại lên Ủy
ban phụ trách hoạt động xuất nhập cảnh của
người nước ngoài;
3) lao động nước ngoài có quyền
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
122 Số 2+3(378+379) T1/2019
được giữ lại hộ chiếu hoặc giấy thông hành,
không bắt buộc phải đưa NSDLĐ giữ. Hộ
chiếu hoặc giấy thông hành sẽ được cơ quan
phụ trách hoạt động cấp giấy phép cư trú
giữ lại để làm thủ tục cấp giấy phép cư trú
cho lao động nước ngoài. Sau khi hoàn tất
thủ tục, hộ chiếu sẽ được chuyển lại về cho
NLĐ. Nếu NSDLĐ giữ các loại giấy tờ này,
NSDLĐ phải cam kết với NLĐ bằng văn
bản là sẽ đưa lại cho NLĐ khi họ yêu cầu.
Trường hợp NSDLĐ cố tình giữ trái phép
hộ chiếu hay giấy thông hành của NLĐ sẽ bị
phạt tới 25.000 QR;
4) lao động nước ngoài có quyền
chuyển sang làm việc cho một NSDLĐ khác
trước khi kết thúc hợp đồng với NSDLĐ cũ
nếu được sự chấp thuận của NSDLĐ cũ, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền phụ trách vấn
đề này và Bộ Lao động và các vấn đề xã hội
Qatar. Trong trường hợp NSDLĐ cũ không
đồng ý và được sự đồng ý của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phụ trách vấn đề này
và Bộ Lao động và các vấn đề xã hội Qatar,
lao động nước ngoài sẽ chờ đến khi kết thúc
thời hạn hợp đồng đối với hợp đồng có thời
hạn và sau khi làm việc được 05 năm đối với
hợp đồng không xác định thời hạn. Trong
trường hợp NSDLĐ cũ chết hoặc pháp nhân
đó không còn tồn tại về mặt pháp lý vì bất
kỳ lý do nào thì với sự đồng ý của cơ quan
có thẩm quyền và Bộ Lao động và các vấn
đề xã hội, NLĐ có thể chuyển sang làm
việc cho NSDLĐ khác14. Nếu NSDLĐ cũ
tự động cho phép NLĐ sang làm việc cho
14 Xem Điều 2 đến Điều 21 Luật số 21 năm 2015 quy định chi tiết các vấn đề xuất nhập cảnh, cư trú của người nước ngoài
tại Qatar.
15 Theo báo cáo của Tổng liên đoàn Lao động quốc tế: ‘Hidden faces of the Gulf miracle’ (2011), International Trade Union
Congress, Brussels, Belgium, có với 1,75 triệu người Ấn Độ, 1,25 triệu người Pakistan, 500.000 người Bangladesh, 1
triệu người đến từ các quốc gia châu Á khác và 500.000 người đến từ châu Âu và châu Phi: Xem:
org/IMG/pdf/VS_QatarEN_final.pdf.
16 Sonmez, S.; Apostolopoulos, Y.; Tran, D.; Rentrope, S. “Human rights and health disparities for migrant workers in the
UAE”, Health and Human Rights: An International Journal, North America, 13 7 12 2011.
người khác mà không được sự chấp thuận từ
phía cơ quan nhà nước thì sẽ chịu mức phạt
50.000 QR và ngồi tù đến 3 năm.
1.3 Những quy định của pháp luật UAE
về xuất nhập cảnh, cư trú và lao động của
NLĐ nước ngoài
UAE là quốc gia có nền kinh tế phát
triển, giàu có trong khu vực với số lượng lao
động nước ngoài chiếm tới 90%15 trên tổng
số lao động cả nước16.
Liên quan đến hoạt động xuất nhập
cảnh, cư trú của người nước ngoài tại UAE,
Luật Di trú 1973 (Immigration Law/Luật
Liên bang số 06) và các văn bản hướng
dẫn thi hành quy định khá chi tiết. Luật này
được sửa đổi, bổ sung bởi Luật Liên bang
số 13 năm 1996 liên quan đến hoạt động
nhập cảnh và cư trú của người nước ngoài
với nhiều sửa đổi về trục xuất, xử phạt quốc
gia khi có vi phạm về cư trú, lao động. Về
nguyên tắc, người nước ngoài khi nhập cảnh
vào UAE cần có hộ chiếu còn thời hạn, giấy
tờ tài liệu liên quan đến chuyến đi và thị thực
nhập cảnh hợp lệ. Trước khi hết thời hạn cho
phép lưu trú, người nước ngoài phải rời khỏi
UAE, trừ khi họ có giấy phép cư trú. Đối với
những công dân đến từ 30 quốc gia, vùng
lãnh thổ thuộc danh sách miễn thị thực, họ
được phép ở lại UAE không quá 30 ngày kể
từ ngày nhập cảnh, trừ khi có có giấy phép
cư trú. Trong trường hợp người nước ngoài
cố tình vi phạm, nhập cảnh bất hợp pháp vào
UAE, họ sẽ phải đối mặt với hình phạt tù tối
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
123Số 2+3(378+379) T1/2019
thiểu một tháng và/hoặc nộp một khoản phạt
trị giá tối thiểu 10.000 Dirhams. Sau khi
thực hiện xong án phạt, người nước ngoài
vi phạm sẽ bị trục xuất khỏi lãnh thổ UAE17.
Về lĩnh vực quan hệ lao động hiện có
Luật Liên bang số 08 năm 1980 (Luật Lao
động 1980). Luật này được sửa đổi, bổ sung
nhiều lần và lần cuối là năm 1999. Luật quy
định tiêu chuẩn tối thiểu về quyền và lợi ích
của NLĐ được NSDLĐ đảm bảo, cũng như
nghĩa vụ của NLĐ khi làm việc trên lãnh thổ
UAE. Trong trường hợp hai bên không tuân
thủ các nghĩa vụ của mình theo quy định của
pháp luật, vụ việc sẽ được đưa lên giải quyết
tại Tòa án. Trước khi Tòa án chấp nhận hồ sơ
vụ kiện, NLĐ và NSDLĐ phải thực hiện hoạt
động hòa giải. Nếu hai bên tuy đã cố gắng giải
quyết trực tiếp với nhau nhưng không thành
công, vụ việc sẽ tiếp tục được đưa tới Bộ Lao
động và Bộ này sẽ đưa ra khuyến nghị để
giải quyết mâu thuẫn. Trường hợp tranh chấp
vẫn không được giải quyết, vụ việc sẽ được
chuyển tới Tòa lao động.
Liên quan đến hợp đồng sử dụng lao
động nước ngoài, pháp luật UAE quy định
phải được lập bằng văn bản với những nội
dung bắt buộc bao gồm tiền lương hoặc tiền
công NSDLĐ phải trả, ngày ký hợp đồng,
ngày hợp đồng có hiệu lực, bản chất của
hợp đồng (là hợp đồng giới hạn hay không
giới hạn), tính chất công việc, thời hạn của
hợp đồng, nơi làm việc. Về cơ bản, Bộ Lao
động đã soạn thảo mẫu hợp đồng lao động
bằng tiếng Anh và tiếng Ả rập, NSDLĐ và
NLĐ chỉ cần điền các thông tin liên quan.
Ngoài ra, NLĐ và NSDLĐ có thể soạn thảo
17 Xem Luật Liên bang số 06 về hoạt động nhập cảnh và cư trú 1973.
Nguồn: truy cập 31/08/2018.
18 https://uaelaborlaw.com/#an-overview-of-federal-law-no-8-of-1980, truy cập 24/08/2018.
19 truy cập 9/11/2017.
hợp đồng lao động riêng của mình với điều
kiện ngôn ngữ sử dụng là tiếng Ả rập và các
điều khoản trong hợp đồng không trái với
các quy định của pháp luật. Theo quy định,
thông thường, thời gian làm việc là 8 giờ
một ngày hoặc 48 giờ một tuần, còn đối với
một số ngành nghề, thời gian làm việc có thể
tăng lên 9 giờ một ngày sau khi được Bộ Y
tế phê duyệt. Các cơ quan chính phủ không
bị điều chỉnh bởi luật lao động và hoạt động
7 giờ mỗi ngày.
Một điểm nổi bật trong hệ thống pháp
luật lao động UAE là hệ thống bảo đảm tiền
lương (Wage Protection System). Hệ thống
này ra đời vào ngày 20/07/2009 bởi Nghị
định số 788 của Chính phủ quy định về vấn
đề bảo đảm tiền lương nhằm giải quyết vấn
đề nợ lương của NSDLĐ. Kể từ khi hệ thống
này đi vào hoạt động, hơn 2,9 triệu lao động
cùng với 205.000 doanh nghiệp trên tổng số
250.000 doanh nghiệp đang hoạt động trên
lãnh thổ UAE đã tham gia hệ thống này.
Theo ước tính, hơn 52 triệu AED (khoảng
677,75 triệu USD) tiền lương đã được truy
lĩnh nhờ có hệ thống bảo đảm tiền lương.
NLĐ đã được trả lương đúng hạn, đúng số
tiền đã nêu trong hợp đồng lao động18.
2. Một số gợi mở cho Việt Nam
Ở nước ta, tính đến tháng 5/2016, trên
cả nước có khoảng hơn 82.500 lao động là
người nước ngoài đang làm việc19. Số lượng
lao động nước ngoài tăng, công tác quản lý
người nước ngoài đến cư trú, sinh sống và
làm việc càng phức tạp. Rất nhiều địa bàn
trên cả nước xảy ra trường hợp doanh nghiệp
còn chậm trễ và chưa chú trọng trong công
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
124 Số 2+3(378+379) T1/2019
tác làm thủ tục xin cấp giấy phép lao động
cho lao động là người nước ngoài làm việc tại
đơn vị mình. Một số doanh nghiệp lợi dụng
quy định của pháp luật còn chưa chặt chẽ để
lách luật, đưa lao động làm việc dưới 03 tháng
và luân phiên thay lao động khiến công tác
quản lý lao động nước ngoài gặp khó khăn20.
Thậm chí, có nhiều địa phương không biết
có sự hiện diện của số lượng lớn NLĐ nước
ngoài cư trú, làm việc tại địa phương mình.
Cũng không ít trường hợp người nước ngoài
lao động, cung ứng dịch vụ nhưng không
được kiểm soát chặt chẽ, gây phương hại đến
trật tự xã hội, an ninh chính trị và chính sách
kinh tế Điều này càng đặc biệt quan trọng
hơn trong bối cảnh liên kết khu vực, chính
sách mở cửa, hội nhập đang diễn ra rất mạnh
mẽ như hiện nay.
Trên cơ sở những kinh nghiệm của các
quốc gia vùng Vịnh, chúng tôi đưa ra một số
khuyến nghị sau:
1) Cần xây dựng hệ thống pháp luật,
chính sách đồng bộ giữa quản lý lao động
nước ngoài với quản lý nhập cư, cư trú và
hệ thống hành chính hiện đại để bảo đảm
vận hành một cách thống nhất,đồng bộ và
chính xác.
2) Cần có cơ chế linh hoạt, phân tầng
mục tiêu quản lý đối với từng nhóm đối
tượng NLĐ nước ngoài. NLĐ chân tay, làm
việc trong các vị trí việc làm cần số lượng
đông, trình độ thấp cần được quản lý chặt
chẽ. Trong trường hợp này cơ chế của Qatar
và UAE rất phù hợp, hiệu quả.
3) Liên quan đến một số quy định cụ
20 truy cập ngày 9/11/2017
21 Điều 8, Nghị định số 03/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16/01/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ
luật Lao động về việc làm.
22 Mục b, khoản 1, Điều 25, Nghị định số 95/2013/NĐ- CP của Chính phủ ngày 22/08/2013 quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
thể. Chúng tôi cho rằng, cần sửa đổi quy
định liên quan đến nghĩa vụ báo cáo tình
hình sử dụng lao động, đặc biệt báo cáo
định kỳ số lao động là người nước ngoài
tại các doanh nghiệp. Tại mục d, khoản 2
Điều 6 Bộ luật Lao động 2012 quy định về
nghĩa vụ của doanh nghiệp “khai trình việc
sử dụng lao động trong thời hạn 30 ngày, kể
từ ngày bắt đầu hoạt động và định kỳ báo
cáo tình hình thay đổi về lao động trong
quá trình hoạt động với cơ quan quản lý
nhà nước về lao động ở địa phương”. Theo
đó, định kỳ 06 tháng, NSDLĐ phải báo cáo
tình hình thay đổi về lao động làm việc cho
doanh nghiệp của mình cho cơ quan quản
lý có thẩm quyền21. Có thể thấy, 06 tháng là
một khoảng thời gian chưa hợp lý, bởi các
doanh nghiệp đã lợi dụng quy định này để
đưa lao động vào làm việc trong thời hạn
dưới 03 tháng theo dạng thị thực du lịch.
Thiết nghĩ trong bối cảnh công nghệ thông
tin hiện nay, thời hạn 02 tháng để báo cáo
là phù hợp. Ngoài ra, cần có cơ chế xử lý
nghiêm khắc đối với những doanh nghiệp
không thực hiện đúng hạn và đúng quy định.
Theo quy định hiện hành, mức phạt đối với
NSDLĐ nếu không thực hiện nghĩa vụ báo
cáo định kỳ là phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền
từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng22. Mức
phạt này trên thực tế không hiệu quả, chưa
tương xứng khiến doanh nghiệp thường
không thực hiện nghiêm công tác báo cáo
trong việc quản lý lao động.
4) Để nắm bắt được chính xác và
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
125Số 2+3(378+379) T1/2019
kịp thời thông tin, đặc biệt đảm bảo được
lao động vào Việt Nam là có nguồn gốc rõ
ràng và tránh tình trạng lao động trái phép,
pháp luật Việt Nam cần sửa đổi mức phạt
đối với các hành vi của NSDLĐ trong hoạt
động tuyển dụng lao động. Thực tế cho thấy,
việc số lượng cũng như chất lượng lao động
phụ thuộc phần lớn vào ý thức của NSDLĐ
trong công tác tuyển dụng, bởi pháp luật
Việt Nam đã trao quyền tuyển dụng lao động
cho NSDLĐ có thể thực hiện công tác này
một cách trực tiếp hoặc thông qua các tổ
chức dịch vụ việc làm23. Đây là một quyền
năng lớn và giai đoạn tuyển dụng lao động
sẽ ảnh hưởng rất nhiều tới quá trình quản
lý lao động sau này, tuy nhiên khi người
sử dụng có vi phạm các quy định về trình
tự, thủ tục, hồ sơ tuyển dụng lao động theo
quy định thì chỉ bị phạt cảnh cáo hoặc phạt
tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng24.
Rõ ràng, pháp luật Việt Nam về quản lý lao
động nước ngoài đang còn quá mềm dẻo,
tạo kẽ hở cho các doanh nghiệp, người nước
ngoài trục lợi.
5) Để nâng cao trách nhiệm của
NSDLĐ trong công tác quản lý NLĐ, cần
yêu cầu NSDLĐ phải nộp một khoản tiền
thích hợp nhằm bảo đảm nghĩa vụ của mình
tại ngân hàng. Hiện nay, pháp luật Việt Nam
chỉ dự trù tới việc NSDLĐ có thể sử dụng
các biện pháp bảo đảm bằng tiền hoặc tài sản
để đảm bảo NLĐ sẽ thực hiện hợp đồng lao
động, từ đó đưa ra quy định cấm điều này25
nhưng chưa chú ý đến vai trò của NSDLĐ
trong công tác quản lý NLĐ cũng như tính
đến khả năng NSDLĐ sẽ không thực hiện
23 Điều 11, Bộ luật Lao động năm 2012.
24 Mục c, khoản 1 Điều 25 Nghị định số 95/2013/NĐ- CP của Chính phủ ngày 22/08/2013 quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
25 Khoản 2, Điều 20 Bộ luật Lao động năm 2012.
đúng và đầy đủ các nghĩa vụ của mình theo
quy định. Do vậy, pháp luật Việt Nam cần
bổ sung quy định về khoản tiền bảo đảm
nghĩa vụ từ phía NSDLĐ. Quy định này sẽ
khiến NSDLĐ sẽ có ý thức và trách nhiệm
hơn trong việc phối hợp với các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền để quản lý NLĐ
hiệu quả.
6) Bên cạnh những biện pháp mang
tính cưỡng chế, mục tiêu quan trọng nhất
để công tác quản lý lao động nước ngoài
có hiệu quả là việc nâng cao nhận thức, ý
thức tự giác chấp hành quy định của pháp
luật từ phía các doanh nghiệp và NLĐ, bởi
lẽ đa số các trường hợp khiến công tác quản
lý lao động nước ngoài gặp khó khăn đều
xuất phát từ hai chủ thể tham gia quan hệ lao
động này. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền,
phổ biến để doanh nghiệp trong nước và lao
động nước ngoài hiểu rõ được những lợi ích
nếu hợp tác và phối hợp tốt với các cơ quan
nhà nước trong công tác quản lý lao động
nước ngoài.
7) Trong bối cảnh liên kết khu vực
ngày càng mạnh mẽ, thị trường lao động
ngày càng tự do với các quốc gia khu vực
ASEAN, để quản lý được lao động nước
ngoài hiệu quả, thiết nghĩ Việt Nam cần
có những kiến nghị để Hiệp hội hoàn thiện
cơ chế quản lý lao động nước ngoài chung
mang tầm khu vực nhằm bảo vệ NLĐ các
quốc gia trong khối, phòng ngừa những hệ
lụy tiêu cực hoặc việc lạm dụng từ các quốc
gia bên ngoài ASEAN■
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
126 Số 2+3(378+379) T1/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quy_dinh_ve_xuat_nhap_canh_cu_tru_va_lao_dong_cua_nguoi_lao.pdf