Quy luật mâu thuẫn của phép biện chứng duy vật với việc P.tích hệ thống mâu thuẫn KTTT định hướng XHCN ở VN
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I : QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT VỀ MÂU THUẪN
1.1.Một số tư tưởng triết học về mâu thuẫn và các mặt đối lập.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mâu thuẫn.
1.2.1. Sự đấu tranh của các mặt đối lập trong một thể thống nhất
1.2.2. Chuyển hóa của các mặt đối lập:
CHƯƠNG II. TÍNH TẤT YẾU CỦA QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM.
2.1. Khái niệm nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
2.2. Tính tất yếu khách quan chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
2.3. Những thành tựu đạt được sau hơn 10 năm đổi mới.
CHƯƠNG III. MÂU THUẪN BIỆN CHỨNG TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG THEO ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM.
3.1. Những biểu hiện mâu thuẫn trong quá trình xây dựng nền KTTT (kinh tế thị trường) theo định hướng XHCN ở nước ta
3.2. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
3.3. Mâu thuẫn giữa các hình thái sở hữu trước đây và trong kinh tế thị trường.
3.4. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người XHCN.
KẾT LUẬN
22 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2518 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Quy luật mâu thuẫn của phép biện chứng duy vật với việc phân tích hệ thống mâu thuẫn Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Mâu thuẫn là một hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và cả trong tư duy của con người. Trong mỗi sự vật mâu thuẫn hình thành không chỉ có một mà có nhiều mâu thuẫn và sự vật trong cùng một lúc có nhiều mặt đối lập, mâu thuần này mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình thành.
Trong hoạt động kinh tế hiện tượng đó cũng mang tính phổ biến, mâu thuẫn luôn tồn tại khi sự vật xuất hiện và đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi sự vật mâu thuẫn không phải chỉ là một mà nó phát sinh rất nhiều mâu thuẫn và sự vật trong cùng một lúc có nhiều mặt đối lập mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại xuất hiện.
Cùng với xu thế của thời đại và sự biến động của thế giới thì việc chuyển sang nền kinh tế thị trường của Việt Nam là một tất yếu. Trong 15 năm qua nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn thoát khỏi những khủng hoảng, đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể, chính trị xã hội ổn định, quốc phòng an ninh quốc gia được giữ vững, từ một nền kinh tế quan liêu bao cấp đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên quy- luật giá trị và tín hiệu cung cầu của thị trường. Trong sự nghiệp đổi mới đã thu được rất nhiều thắng lợi, những thắng lợi thành công bước đầu mang tính quyết định, quan trọng trong công cuộc đổi mới. Tuy nhiên bên cạnh những thành công đó luôn tồn tại những vấn đề mâu thuẫn làm kìm hãm sự phát triển của công cuộc đổi mới. Việc nhận thức đúng tìm ra những nguyên nhân và giải quyết chúng có vai trò vô cùng cần thiết để thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển. Đây là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, hàng đầu của Đảng và Nhà nước.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một yếu tố tất yếu cơ bản của quá trình đổi mới quản lý kinh tế ở nước ta. Trong 15 năm qua nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn thoát khỏi những khủng hoảng, đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể, chính trị xã hội ổn định, quốc phòng an ninh quốc gia được giữ vững, từ một nền kinh tế quan liêu bao cấp đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên quy- luật giá trị và tín hiệu cung cầu của thị trường.
Trước thực trạng trên và với mong muốn tìm hiểu để giải quyết những vấn đề của nên kinh tế, quan điểm lý luận cũng như những vướng mắc trong, xử lý các vấn đề chính trị, xã hội có liên quan đến quá trình tiến hành cải cách trong việc chuyển đổi nền kinh tế, tôi chọn đề tài"Quy luật mâu thuẫn của phép biện chứng duy vật với việc phân tích hệ thống mâu thuẫn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam".
Tiểu luận gồm 3 phần:
Chương I : Quan điểm của các tư tưởng triết học về mâu thuẫn
Chương II. Tính tất yếu khách quan của quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Chương III. Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam.
Chương I : quan điểm của các tư tưởng triết học về mâu thuẫn
1.1. Một số tư tưởng triết học về mâu thuẫn và các mặt đối lập.
Trải qua các quá trình phát triển của những hình thái khác nhau và các quá trình phát triển cao của các tư tưởng triết học nhân loại các quan niệm khác nhau về mâu thuẫn cũng thay đổi. Mỗi thời đại, mỗi trường phái có những lý giải khác nhau về mâu thuẫn, về những mặt đối lập, vì triết học luôn xuất phát từ những bối cảnh lịch sử nhất định.
Triết học Trung Hoa đã xuất hiện rất lâu và những quan điểm biện chứng về mâu thuẫn thời kỳ này đã xuất hiện còn sơ khai. Phái Âm - Dương nhìn nhận là mọi tồn tại không phải trong tính đồng nhất tuyệt đối cũng không phải trong sự loại trừ biệt lập không thể tương đồng. Trái lại tất cả bao hàm sự thống nhất của các mặt đối lập được gọi là sự thống nhất của Âm - Dương. Âm - Dương là đối lập nhau nhưng là điều kiện tồn tại của nhau. Phái đạo gia mà người sáng lập là Lão Tử, ông cũng có những tư tưởng biện chứng độc đáo về sự thống nhất biện chứng của mặt đối lập này bao hàm của mặt đối lập. Tất cả trong đó, mỗi mặt đều trong quan hệ với mặt đối lập, không có mặt này thì cũng không có mặt kia và giữa chúng cũng chỉ là tương đối
Triết học Hy Lạp, Heraclit phỏng đoán rằng mâu thuẫn tồn tại trong mọi sự vật của Thế giới. Theo ông, các mặt đối lập gắn bó, quy định, rằng buộc với nhau.Heraclit còn khẳng định vũ trụ là một thể thống nhất nhưng trong lòng nó luôn diễn ra các cuộc đấu tranh giữa các lực lượng đối lập, nhờ vậy vũ trụ tồn tại và vận động.
Đến triết học Tây Âu thời phục hưng và cận đại cùng với những thành tựu về khoa học tự nhiên thì sự đấu tranh giữa triết học duy tâm và duy vật cũng diễn ra hết sức gay gắt. Nhưng các quan điểm của thời kỳ này vẫn rơi nhiều vào siêu hình máy móc. Sang đến triết học cổ điển Đức mới thực sự bao hàm những tư tưởng triết học tiến bộ, cách mạng và khoa học. Triết học cổ điển Đức đã đạt tới trình độ khái quát và tư duy trừu tượng rất cao với những hệ thống kết cấu chặt chẽ thể hiện một trình độ tư duy tài biện thâm cao vượt xa tính trực quan siêu hình của nền triết học Anh - Pháp ở thế kỷ XVII - XVIII, do vậy các tư tưởng triết học về mâu thuẫn đã có những bước tiến đáng kể. Đại biểu đặc trưng của triết học cổ điển Đức là Heghen. Mặc dù là nhà triết học duy tâm nhưng học thuyết về bản chất và tư tưởng của Heghen về mâu thuẫn lại hết sức biện chứng. Ông coi mâu thuẫn là nguồn gốc của vận động, là nguyên lý của sự phát triển. Theo ông, lúc đầu bản chất là sự đồng nhất giữa những" tính quy định " rồi trong sự đồng nhất ấy bộc lộ ra những khác biệt, rồi khác biệt lại chuyển thành những mặt đối lập và cuối cùng xuất hiện mâu thuẫn. Song theo ông mâu thuẫn ở đây là mâu thuẫn của" ý niệm tuyệt đối " chứ không phải của thế giới vật chất. Heghen cũng đưa ra tư tưởng cho rằng hiện tượng và bản chất thống nhất với nhau, bản chất thể hiện ra trong hiện tượng và hiện tượng là thể hiện của bản chất.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mâu thuẫn.
Nhận thức duy vật biện chứng về mâu thuẫn của chủ nghĩa Mác là nhận thức đúng đắn nhất nó đã phát triển thành một quy luật - Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập - là một trong những hạt nhân của phép biện chứng. Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng, mọi sự vật và hiện tượng trong thế giới đều tồn tại mâu thuẫn bên trong. Mỗi sự vật và hiện tượng đều là một thể thống nhất của các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập nhau. Những mặt này đối lập với nhau nhưng lại liên hệ rằng buộc nhau tạo thành mâu thuẫn.
Mâu thuẫn chẳng những là một hiện tượng khách quan mà còn là một hiện tượng phổ biến. Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi sự vật hiện tượng của giới tự nhiên , đời sống xã hội và tư duy của con người. Không có sự vật nào, hiện tượng nào lại không có mâu thuẫn và không có giai đoạn nào trong sự phát triển của mỗi sự vật, hiện tượng lại không có mâu thuẫn. Mâu thuẫn này mất đi, mâu thuẫn khác lại hình thành. Để chứng minh tính khách quan và phổ biến của mâu thuẫn, Ăng- ghen chỉ ra rằng, ngay hình thức đơn giản nhất của vật chất - vận động cơ học, đã là một mâu thuẫn. Sở dĩ sự di động một cách máy móc và đơn giản ấy có thể thực hiện được chỉ là vì mọt vật trong cùng một lúc vừa là ở nơi này lại vừa ở nơi khác, vừa là ở trong cùng một chỗ duy nhất lại vừa không ở chỗ đó. Tất nhiên sự tồn tại của vật chất ở những hình thức vận động cao hơn lại càng bao hàm mâu thuẫn. Trong lĩnh vực tư duy cũng vậy, chúng ta không thể thoát khỏi mâu thuẫn; chẳng hạn như mâu thuẫn giữa năng khiếu nhận thức vô tận ở bên trong của con người với sự tồn tại thực tế của năng khiếu ấy trong những con người bị hạn chế bởi hoàn cảnh bên ngoài, và bị hạn chế trong những năng khiếu nhận thức, mâu thuẫn này được giải quyết trong sự nối tiếp của các thế hệ, sự nối tiếp đó rút ra đối với chúng ta, thực tế cũng là vô tận, và được giải quyết trong sự vận động đi lên vô tận.
1.2.1. Sự đấu tranh của các mặt đối lập trong một thể thống nhất
Trong phép biện chứng duy vật, khái niệm mặt đối lập là sự khái quát những thuộc tính, những khuynh hướng ngược chiều nhau tồn tại trong cùng một sự vật hiện tượng, tạo nên sự vật hiện tượng đó. Do đó, cần phải phân biệt rằng bất kỳ hai mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Trong cùng một thời điểm ở mỗi sự vật hiện tượng có cùng tồn tại nhiều mặt đối lập. Chỉ có những mặt đối lập là tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật như một chỉnh thể, nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, bài trừ, phủ định và chuyển hóa lẫn nhau (Sự chuyển hóa này tạo thành nguồn gốc động lực, đồng thời quy định bản chất, khuynh hướng phát triển của sự vật) thì có hai mặt đối lập như vậy mới gọi là hai mặt đối lập mâu thuẫn"thống nhất" của hai mặt đối lập được hiểu với ý nghĩa không phải chúng đứng cạnh nhau mà nương tựa vào nhau, tạo ra sự phù hợp cân bằng như liên hệ phụ thuộc, quy định và ràng buộc lẫn nhau. Mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia làm tiền đề cho sự tồn tại của mình và ngược lại. Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thì nhất định không tồn tại của sự vật. Bởi vậy sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại của bất kỳ sự vật hiện tượng nào. Sự thống nhất này do những đặc điểm riêng có của bản thân sự vật tạo nên. Ví dụ: Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp và nền kinh tế thị trường là điều kiện cho sự tồn tại của công cuộc đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam, hai nền kinh tế khác nhau hoàn toàn về bản chất và những biểu hiện của nó nhưng nó lại hết sức quan trọng. Vì nó có sự thống nhất này nên nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không thể tồn tại với ý nghĩa là chính nó.
Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật không tách rời sự đấu tranh chuyển hóa giữa chúng. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự vật thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn nhưng không nằm yên bên nhau mà điều chỉnh chuyển hóa lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật. Sự đấu tranh chuyển hóa, bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa các mặt trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.
Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong giai cấp có đối kháng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra rất quyết liệt và gay gắt. Chỉ thông qua các cuộc cách mạng xã hội bằng rất nhiều hình thức, kể cả bạo lực mới có thể giải quyết mâu thuẫn một cách căn bản.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập được chia làm nhiều giai đoạn. Thông thường, khi nó mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ xung khắc gay gắt người ta gọi đó là giai đoạn khác nhau. Tất nhiên không phải bất kỳ sự khác nhau nào cũng được gọi là mâu thuẫn. Chỉ có những khác nhau tồn tại trong một sự vật nhưng liên hệ hữu cơ với nhau, phát triển ngược chiều nhau, tạo thành động lực bên trong của sự phát triển thì hai mặt đối lập ấy mới hình thành bước đầu của một mâu thuẫn. Khi hai mặt đối lập của một mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn xung đột gay gắt, nó biến hành độc lập. Sự vật cũ mất đi, sự vật mới hình thành. Sau khi mâu thuẫn được giải quyết sự thống nhất của hai mặt đối lập cũ được thay thế bởi sự thống nhất của hai mặt đối lập mới, hai mặt đối lập mới lại đấu tranh chuyển hóa tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật mới xuất hiện. Cứ như thế, đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi không ngừng từ thấp lên cao. Vì vậy, Lênin khẳng định"sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập".
Khi bàn về mối quan hệ giữa sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, Lênin chỉ ra rằng:"Mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn tại với ý nghĩa là chính nó - như có sự thống nhất của các mặt đối lập mà chúng ta nhận biết được sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan. Song bản thân của sự thống nhất chỉ là tương đối và tạm thời. Đấu tranh giữa các mặt đối lập mới là tuyệt đối. Nó diễn ra thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Kể cả trong trạng thái sự vật ổn định, cũng như khi chuyển hóa nhảy vọt về chất".
1.2.2. Chuyển hóa của các mặt đối lập
Không phải bát kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến sự chuyển hóa giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến bất kỳmột trình độ nhất định, hội đủ các điều kiện cần thiết dẫn đến chuyển hóa, bài trừ và phủ định nhau. Trong giới tự nhiên, chuyển hóa của các mặt đối lập thường diễn ra một cách tự phát, còn trong xã hội, chuyển hóa của các mặt đối lập nhất thiết phải thông qua hoạt động có ý thức của con người.
Vì vậy, không nên hiểu sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là sự hoán đổi vị trí một cách đơn giản, máy móc. Thông thường thì mâu thuẫn chuyển hóa theo hai phương thức:
+ Phương thức thứ nhất: Mặt đối lập này chuyển hóa thành mặt đối lập kia nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương diện vật chất của sự vật.
Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến đấu tranh chuyển hóa lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất mới ở trình độ cao hơn.
+ Phương thức thứ hai: Cả hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau để thành hai mặt đối lập mới hoàn toàn.
Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ các mâu thuẫn trên cho ta thấy trong thế giới hiện thực, bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt, những thuộc tính có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đấu tranh chuyển hóa của các mặt đối lập trong điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, phổ biến của thế giới. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũng mất đi, sự vật mới hình thành. Sự vật mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới.
Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hóa và phủ định lẫn nhau để tạo thành sự vật mới hơn. Cứ như vậy mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan thường xuyên phát triển và biến đổi không ngừng. Vì vầy, mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của mọi quá trình phát triển.
CHương II. Tính tất yếu khách quan của quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
2.1 Khái niệm kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là một kiểu quan hệ kinh tế xã hội mà trong đó sản xuất xã hội gắn chặt với thị trường, tức là gắn chặt chẽ với quan hệ hàng hóa - tiền tệ với quan hệ cung cầu ... Trong nền kinh tế thị trường nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã hội là quan hệ hàng hóa . Mọi hoạt động xã hội đều phải tính đến quan hệ hàng hóa, hay ít nhất thì cũng phải sử dụng các quan hệ hàng hóa như mắt khâu trung gian.
Trước khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, việc áp dụng cơ chế quản lý cũ không còn hợp lý và dẫn đến nhiều tiêu cực, sản xuất kém hiệu quả do sự quản lý không có hiệu quả. Đến giữa những năm 80 thì những mâu thuẫn trong nền kinh tế này đã đi đến đỉnh điểm. Sản xuất thua lỗ, đình đốn, lạm phát, tham nhũng tăng nhanh, đời sống nhân dân bị giảm sút, thậm chí một số địa phương nạn đói đang rình rập. Nguyên nhân sâu xa về sự suy thoái nền kinh tế ở nước ta là do ta rập khuôn một mô hình kinh tế không thích hợp và kém hiệu quả.
Tại Đại hội VI của đảng đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiêu thành phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN. Đến đại hội VII Đảng ta xác định rõ việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đang diễn ra việc đó, tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tế lãnh đạo của Đảng trên mặt trận làm kinh tế. Xem xét dưới góc độ khoa học việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường là đúng đắn. Nó phù hợp với thực tế của nước ta phù hợp với các quy luật kinh tế và với xu thế của thời đại.
Thứ nhất : nếu không thay đổi cơ chế kinh tế vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích lũy vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ 80 đã chỉ rõ thực hiện cơ chế kinh tế cũ cho dù chúng ta đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế , nhưng hiệu quả của nền sản xuất xã hội đạt mức rất thấp. Sản xuất không đáp ứng nổi nhu cầu tiêu dùng của xã hội, tích lũy hầu như không có đôi khi còn ăn lạm cả vào vốn vay của nước ngoài.
Thứ hai: do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc do đó nó chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn ngắn và chỉ có tác dụng phát triển nền kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại quá dài do đó nó không những không còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng suất chất lượng và hiệu quả sản xuất.
Thứ ba: Xét về sự tồn tại thực tế ở nước ta những nhân tố của kinh tế thị trường. Về vấn đề này có nhiều ý kiến đánh gía khác nhau. Nhiều ý kiến cho rằng thị trường ở nước ta là thị trường mới hình thành còn non yếu và còn là thị trường sơ khai. Thực tế kinh tế thị trường đã hình thành và phát triển đạt được những mức phát triển khác nhau ở hầu hết các đô thị và các vùng đồng bằng ven biển. Thị trường trong nước đã được thông suốt và vươn tới những vùng hẻo lánh và đang được mở rộng với thị trường quốc tế. Nhưng thị trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ còn thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường đất đai và về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ can thiệp của nhà nước còn rất thấp.
Thứ tư: Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hòa nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hóa, dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường thế giới. Tương quan giá cả của các loại hàng hóa trong nước gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hóa quốc tế.
Thứ năm: Xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hòa nhập sự cạnh tranh giữa các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất không còn là dân số đông, vũ khí nhiều, quân đội mạnh, mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích của các chính sách, của các quốc gia là tạo ra dược nhiều của cải vật chất trong quốc gia của mình là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, thất nghiệp thấp. Tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu, vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín và duy trì sức mạnh của các đảng cầm quyền.
2.2. Chuyển sang nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan trong quá trình phát triển nền kinh tế đất nước .
Trước tình hình kinh tế của đất nước như vậy thì quá trình chuyển đổi nền kinh tế là một tất yếu nhưng rất phức tạp và hết sức đa dạng có nước chuyển nhanh có nước chuyển chậm. Một câu hỏi đặt ra chuyển đổi như thế nào thì có hiệu quả.
Thứ nhất: việc chuyển đổi này là một thay đổi cơ bản về chất từ cơ chế kinh tế cho đến cách thức quản lý kinh tế do đó không thể thực hiện được bằngcác sắc lệnh chủ quan mà chỉ có thể thực hiện được bằng sự vận động của bản thân nền kinh tế theo trật tự những nhân tố mới hình thành phát triển thay thế dần các nhân tố cũ. Cơ chế kinh tế mới chỉ chiến thắng cơ chế kinh tế cũ khi năng suất lao động và hiệu quả kinh tế do cơ chế mới tạo ra cao hơn năng suất lao động và hiệu quả kinh tế do cơ chế cũ đã tạo ra trước đó. Vì vậy vai trò chủ đạo của nhà nước là thúc đẩy tiến trình chuyển đổi theo hướng khách quan nhằm tạo điều kiện cho cơ chế kinh tế mới nhanh chóng thay thế cơ chế kinh tế cũ.
Thứ hai: thay thế cơ chế cũ bằng cơ chế mới không phải là xóa bỏ sạch trơn cái cũ mà là loại bỏ những mặt tiêu cực lạc hậu và giữ lại những tích cực tiến bộ còn phù hợp với điều kiện mới.
Thứ ba: trong quá trình chuyển đổi xuất hiện khoảng trống giữa hai cơ chế kinh tế. Khoảng trống nếu kéo dài rất dễ phát sinh ra các hiện tượng tiêu cực như tham ô lãng phí chuyển sở hữu công cộng thành sở hữu cá nhân. Do đó vấn đề cấp bách của việc chuyển đổi là nhà nước phải nhanh chóng xóa bỏ khoảng trống giữa hai cơ chế kinh tế và sớm thoát khỏi vùng tranh tối tranh sáng, nơi mà thường xảy ra rất nhiều các hiện tượng tiêu cực. Do đó trong một số trường hợp nhà nước phải đóng vai trò"bà đỡ"cho thị trường phát triển được đồng bộ và đầy đủ hơn. Muốn làm được những việc trên chúng ta phải xác định cho được nền kinh tế thị trường hướng tới Đảng nhà nước mong muốn.
2.3. Những thành tựu đạt được sau hơn 10 năm đổi mới.
Thực hiện 10 năm đổi mới ở Việt Nam đã CM mô hình CNXH mà Lênin nêu ra trong chính sách kinh tế mới là khoa học và phù hợp với quy hoạch khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Việt Nam đã biến hành phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế có vai trò đặc điểm khác nhau song chúng có mối quan hệ chặt chẽ và biện chứng với nhau, làm tiền đề cho nhau.
Việt Nam đã tiến hành phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đảng ta đã khẳng định việc phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật và thuộc về bản chất của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ, chứ không phải là tàn dư của xã hội trước để lại. Đảng ta còn xác định được các bước đi trong thời kỳ quá độ. Thực hiện một loạt các bước quá độ trung gian như. Xác định chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Và những chặng đường tiếp theo đến năm 2000, 2010, 2020... Để xác định công nghiệp hóa cho phù hợp. Từ chỗ lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu tiến tới phát triển ba chương trình kinh tế, đến nay đi vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó rất coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn. Quá trình đó thực sự là một cuộc cách mạng trong tư duy đó là. Tiếp cận, nắm bắt và tận dụng các yếu tố khách quan, từng bước phát triển kinh tế vững chắc,từng bước củng cố và hoàn thiện thể chế xã hội - XHCN.
Mặt khác để phát huy lợi thế so sánh và lợi thế của các nước đi sau. Đảng ta đã thực hiện nền kinh tế mở theo nguyên tắc. Bình đẳng, hợp tác cùng có lợi, chủ trương là bạn với tất cả các nước. Vì hòa bình độc lập và phát triển, mở rộng buôn bán hợp tác trên lĩnh vực đầu tư nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ nhằm tranh thủ vốn và khoa học - công nghệ hiện đại của thế giới. Thông qua các hình thức liên doanh liên kết và xây dựng các khu chế xuất hay đặc khu công nghiệp.
Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn sau hơn 10 năm đổi mới.
Nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng triền miên hàng chục năm và bước đầu thời kỳ phát triển toàn diện và tăng trưởng liên tục. Tốc độ tăng GDP bình quân 1 năm của thời kỳ 1996-2000 đạt 7% so với 3,9% thời kỳ 1986-1990. Lạm phát giảm từ 774,6% năm 1986 xuống còn 67,4% năm 1990;12,7% năm 1995; 0,% năm 1999 và 0% năm 2000. Sản xuất công nghiệp tăng trưởng liên tục với tốc độ cao. Bình quân thời kỳ 1991-1995 tăng 13,7%, thời kỳ 1996-2000 trên 13,2%. Mức bình quân đầu người của nhiều sản phẩm công nghiệp như điện, than, vải, thép, xi măng... tăng nhanh trong những năm đổi mới, đáp ứng tốt hơn nhu cầu sản xuất và đời sống nhân dân và xuất khẩu. Riêng ngành công nghiệp khai thác dầu khí, xuất hiện trong thời kỳ đổi mới với sản lượng 40 ngàn tấn dầu thô năm 1986 đã tăng lên 15 triệu tấn 2000 với giá trị xuất khẩu 3,3 tỷ USD. Không chỉ tăng trưởng cao mà sản xuất công nghiệp những năm cuối thế kỷ XX đã xuất hiện xu hướng đa ngành, đa sản phẩm và đa thành phần, trong đó công nghiệp quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo.
Nông nghiệp phát triển toàn diện cả trồng trọt, chăn nuôi, nghề rừng và thủy sản. Thành tựu nổi bật nhất là đã giải quyết vững chắc an toàn lương thực quốc gia, biến Việt Nam từ nước thiếu lương thực trước năm 1989 thành nước xuất khẩu gạo thứ hai thế giới. Tính chung 12 năm qua nước ta đã xuất khẩu 30,5 triệu tấn gạo, bình quân 2,54 triệu tấn/ năm nhưng thị trường và giá cả lương thực trong nước vẫn ổn định, kể cả những năm thiên tai lớn. Tốc độ tăng sản lượng lương thực bình quân 5%/năm, cao hơn tốc độ tăng dân số (1,8%) nên lương thực bình quân đầu người từ 280kg năm 1987 tăng lên 455kg năm 2000. Các mặt hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam vừa tăng nhanh về số lượng vừa nâng cao về chất lượng. Năm 2000 sản lượng cà phê xuất khẩu đã đạt 660 nghìn tấn, gấp 2,7 lần năm 1995 và đúng vị trí thứ 2 thế giới sau Braxin. Giá trị xuất khẩu thủy sản đạt 1,4 tỷ USD, gấp 2,5 lần năm 1995.
Hoạt động xuất nhập khẩu sôi động, kim ngạch xuất khẩu tăng từ 570 triệu USD thời kỳ 1981 - 1985 lên 1370 triệu USD thời kỳ 1986 - 1990, 3401 triệu USD thời kỳ 1991 - 1995 và 5646 triệu USD/năm thời kỳ 1996 - 2000, riêng năm 2000 đạt 14 tỷ USD. Nhập siêu giảm từ 3,8 tỷ USD năm 1996 xuống còn 800 triệu USD năm 2000. Đến nay Việt Nam đã có quan hệ bình đẳng với hơn 150 nước trên thế giới. Hoạt động đầu tư nước ngoài bắt đầu từ năm 1988 với 37 dự án và 371 triệu USD, đến nay cả nước có hơn 3000 dự án với hơn 700 doanh nghiệp thuộc 62 nước với tổng vốn đăng ký trên 36 tỷ USD, vốn thực hiện khoảng 17 tỷ USD. Khu vực này đã nộp ngân sách hơn 1,52 tỷ USD, tạo ra hơn 21,6 tỷ USD hàng hóa xuất nhập khẩu và giải quyết việc làm cho 32 vạn lao động trực tiếp và hơn 1 triệu lao động gián tiếp.
Đến năm 2000, tất cả các mục tiêu kinh tế - xã hội của kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 và chiến lược 10 năm 1991 - 2000 đều đạt và vượt kế hoạch: GDP bình quân đầu người đạt gần 400USD/năm, tăng gấp đôi năm 1990. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2000 tăng 6,7%. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 15,5%, giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 4,7%, sản lượng lương thực đạt 35,7% triệu tấn, sản lượng thủy sản đạt 2,1 triệu tấn, xuất khẩu đạt 14 tỷ USD, thu ngân sách vượt dự toán, cán cân thanh toán được cải thiện, quốc phòng - an ninh được giữ vững, đời sống nhân dân được cải thiện.
Nguyên nhân của những thắng lợi trên:
Đó là dưới sự lãnh đạo của Đảng và theo định hướng XHCN nước ta đã đạt được thành tựu rực rỡ. Ngoài ra Việt Nam đã bước vào thời kỳ mới với quan hệ quốc tế cởi mở đa phương đa dạng. Song lai không có thuận lợi về hậu thuẫn tinh thần và vật chất của hệ thống XHCN thế giới. Như vậy trên hai mặt này giải pháp "Lênin viết theo yêu cầu quá độ lên CHXH chỉ từ một nước riêng biệt, đơn độc đổi mặt với cả thế giới Tư bản chủ nghĩa vẫn còn nguyên giá trị thời sự. Rõ ràng bằng lý luận và tình hình thực tiễn tính sáng tạo cùng với truyền thống dân tộc chúng ta đã giành được những thắng lợi đó. Và vẫn tiếp tục khẳng định logic lý luận đầy sức sống và tinh thần năng động sáng tạo chói ngời trong cương lĩnh của LêNin. Trước hết là thiết chế chính trị Đảng Nhà nước XHCN thống nhất một Đảng đẩy mạnh phát triển cơ sở kinh tế kỹ thuật. Sử dụng một số nhân tố TBCN trong và ngoài nước để khắc phục nền kinh tế tiểu nông gia trưởng. Trên tiền đề ấy chuyển bước quá độ tiếp theo là trực tiếp cải tạo XHCN các quan hệ xã hội nói chung cơ sở hạ tầng nói riêng. Cùng toàn bộ đời sống văn hóa tinh thần của xã hội từ đó hình thành CNXH hiện thực một cách toàn diện hoàn chỉnh và vững chắc.
Chương III. Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam.
3.1. Những biểu hiện mâu thuẫn trong quá trình xây dựng nền KTTT (kinh tế thị trường) theo định hướng XHCN ở nước ta.
Quá trình đổi mới vừa qua ở nước ta đã có tác dụng làm cho nước ta quen dần với các quan hệ hàng hóa. Hàm lượng kinh tế trong các hoạt động xã hội ngày càng được chú ý. Những kế hoạch những hoạt động xã hội bất chấp kinh tế hoặc phi kinh tế đã giảm đáng kể. Tuy nhiên vấn đề kinh tế không thể tách rời vấn đề chính trị mà nó được xem xét giải quyết theo một lập trường chính trị nhất định. Giai cấp nào cầm quyền cũng hướng kinh tế phát triển theo lập trường chính trị của giai cấp đó, nhằm phục vụ cho mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Lập trường chính trị đúng hay sai sẽ thúc đẩy hoặc kìm hãm phát triển của nền kinh tế. Khi thể chế chính trị không phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thì việc thay đổi thể chế chính trị phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế. Là điều kiện quyết định thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Và vấn đề ổn định chính trị là điều kiện hết sức cơ bản để phát triển kinh tế. ổn định chính trị không thể tách rời đổi mới về chính trị. Nhưng đổi mới chính trị không phải vô nguyên tắc. Mà đổi mới để giữ vững chính trị, giữ vững và tăng vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò tổ chức quản lý của Nhà nước XHCN. Đổi mới chính trị phải gắn liền với đổi mới kinh tế. Song đổi mới về kinh tế cũng không phải đổi mới một cách tùy tiện mà theo một hướng nhất định. Có ổn định thì mới có thể đổi mới và đổi mới là điều kiện để ổn định. Hai mặt đó tác động qua lại và gắn bó chặt chẽ với nhau, thống nhất với nhau. Trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm, đổi mới chính trị phải tiến hành từng bước phù hợp với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu của đổi mới kinh tế. Bước chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam mới chỉ đang hình thành, còn đang trong những bước chập chững ban đầu và được điều tiết một cách có ý thức theo định hướng XHCN. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được nhưng do mới đang còn trong giai đoạn đầu nên trình độ quản lý tiếp cận với nền kinh tế thị trường còn yếu, hệ thống cán bộ chưa có kinh nghiệm về nền kinh tế thị trường do vậy không tránh khỏi những mâu thuẫn trong quá trình phát triển đó là:
3.2. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, vấn đề lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp, trên phương tiện triết học Mác - Lênin, lực lượng sản xuất là nội dung của sự vật còn quan hệ sản xuất là ý thức của sự vật, lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất là yếu tố động, luôn luôn thay đổi. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất sẽ không còn phù hợp và trở thành yếu tố kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, cần thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chính quan hệ sản xuất tự phát triển để phù hợp với lực lượng sản xuất, phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, đó là quy luật kinh tế chung cho sự phát triển xã hội.
Quá trình mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm diễn ra gay gắt, quyết liệt và cần được giải quyết. Nhưng giải quyết nó bằng cách nào? đó chính là các cuộc cách mạng xã hội, chuyển đổi nền kinh tế mà chuyển đổi nền kinh tế ở nước ta là một ví dụ.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là chủ trương, biện pháp vừa mang tính cách mạng vừa mang tính khoa học để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nói đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước chính sách là nói đến nền sản xuất tiên tiến nói đến khoa học, trí tuệ, là nói đến một phương thức tối ưu để thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, nhằm tạo điều kiện và cơ sở vật chất cho CNXH được xây dựng và phát triển. Không thể ăn đói, mặc rách với cái cuốc trên vai cộng thêm tấm lòng cộng sản để kiến thiết CNXH, chuyển sang nền kinh tế thị trường. Khẳng định cái mới, đúng đắn tự bản thân nó đã bao gồm cả ý nghĩa phù định gạt bỏ cả quan niệm cũ sai lầm về điều kiện và cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trước đây chúng ta thiếu quan tâm đúng mức đến vai trò của trí tuệ; khoa học, đến việc tạo lập cơ sở kinh tế vật chất của CHXH. Bằng chứng là một thời chúng ta đã coi trọng không đúng mức tầng lớp trí thức và khoa học trong môi trường tương quan với đội ngũ những người lao động khác. Và hậu quả tất yếu đã xảy ra là khoa học ở nước ta chậm hoặc ít có điều kiện môi trường phát triển, đất nước không thoát khỏi nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu và cũng không thể nói đến công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
3.3. Mâu thuẫn giữa các hình thái sở hữu trước đây và trong kinh tế thị trường
Trước đây người ta quan niệm những hình thức sở hữu trong chủ nghĩa xã hội là: sở hữu XHCN tồn tại dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Sự tồn tại hai hình thức sở hữu đó là tất yếu khách quan bởi những điều kiện lịch sử khi tiến hành cách mạng chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội quyết định. Sau khi giành được chính quyền giai cấp công nhân đứng trước hai hình thức sở hữu tư nhân khác nhau. Sở hữu tư nhân bản chủ nghĩa và sở hữu tư nhân của những người sản xuất hàng hóa nhỏ. Thực tế đòi hỏi giai cấp công nhân phải có thái độ và phát triển giải quyết khác nhau. Đối với hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bằng cách tước đoạt hoặc chuộc lại để chuyển thẳng lên sở hữu toàn dân, còn đối với hình thức sở hữu tư nhân của những người sản xuất hàng hóa nhỏ thì không thể dùng những biện pháp như trên, mà phải kiên trì giáo dục, thuyết phục họ trên cơ sở tự nguyện chuyển lên sở hữu tập thể bằng con đường hợp tác hóa hai hình thức. Sở hữu đó là hai con đường đặc thù tiến lên CNCS của giai cấp công nhân và nông dân tập thể.
Hơn mười năm đổi mới đất nước theo định hướng XHCN ở nước ta đã chứng minh tính đúng đắn của đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo toàn dân thực hiện. Thực tế đã cho thấy một nền kinh tế nhiều thành phần nhiều hình thức sở hữu, chứ không phải chỉ có hai thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể như quan niệm trước đây...
Về sở hữu toàn dân: trước đây người ta quan niệm sở hữu toàn dân trùng với sở hữu Nhà nước.
Nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần thì đương nhiên là nó bao gồm nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vị trí then chốt, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển theo hướng có lợi cho quốc kế dân sinh. Nhà nước quản lý kinh tế với tư cách là cơ quan có quyền lực đại diện cho lợi ích của nhân dân và là đại diện đối với tàn sản sở hữu toàn dân.
Về sở hữu Nhà nước.
Trong thời kỳ bao cấp trước đây không chỉ có nước ta mà còn có những nước khác trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thường đồng nhất sở hữu Nhà nước với sở hữu toàn dân. Do nhầm lẫn như vậy mà trong một thời gian khá lâu, người ta thường bỏ quên hình thức sở hữu Nhà nước chỉ quan tâm đặc biệt đến sở hữu toàn dân với chế độ công hữu tồn tại dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể. Và cũng bởi sở hữu toàn dân gắn kết với sự phát triển của khu vực kinh tế quốc doanh mà chúng ta ra sức quốc doanh hóa nền kinh tế với niềm tin cho rằng chỉ như vậy mới có chủ nghĩa xã hội nhiều hơn.
Trong xã hội mà Nhà nước còn tồn tại thì sở hữu toàn dân chưa có điều kiện vận động trên bề mặt của đời sống kinh tế nói chung. Hình thức sở hữu Nhà nước xét về tổng thể, mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở hữu. Còn kết cấu bên trong của sở hữu Nhà nước ở nước ta có lẽ chủ yếu thể hiện ở quyền sở hữu đó ở khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực các doanh nghiệp nhà nước.
Về sở hữu tập thể.
ở nước ta trước đây sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại dưới hình thức HTX (gồm cả HTX nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp) với nội dung là cả giá trị và giá trị sử dụng đều là của chung mà các xã viên là chủ sở hữu chính. Vì vậy với hình thức sở hữu này, quyền mua bán hoặc chuyển nhượng tư liệu sản xuất, trong thực tế sản xuất và lưu thông hàng hóa ở nước ta diễn ra hết sức phức tạp.
HTX là nhu cầu thiết thực của nền kinh tế hộ gia đình,của nền sản xuất hàng hóa. Khi lực lượng sản xuất trong nông nghiệp và công nghiệp nhỏ phát triển tới một trình độ nhất định rõ sẽ thúc đẩy quá trình hợp tác. Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hóa, nhu cầu về vốn, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm... đòi hỏi các hộ sản xuất phải hợp tác với nhau mới có khả năng cạnh tranh và phát triển. Chính nhu cầu đó đã liên kết những người lao động lại với nhau làm nảy sinh quan hệ sở hữu tập thể. Thực tiễn cho thấy, ở nước ta hiện nay đã có những hình thức HTX kiểu mới ra đời do nhu cầu tồn tại và phát triển của cơ chế thị trường "HTX đã được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần, mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc chung" (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII - Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội - 1996). Điều này cho thấy kết cấu bên trong của sở hữu tập thể đã thay đổi phù hợp với tình hình thực tiễn ở đất nước ta hiện nay.
3.4. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người XHCN.
Yếu tố con người giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, bởi vì con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa. Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, là mục tiêu của CNXH. Chúng ta phải bắt đầu từ con người làm điểm xuất phát.
Xuất phát từ sự phân tích trên, chúng ta thấy rằng đổi mới ở nước ta hiện nay, không thể xây dựng và phát triển con người nếu thiếu yếu tố kinh tế thị trường. Do hậu quả của chiến tranh, của nền kinh tế kém phát triển, tập trung quan liêu bao cấp,.. nền kinh tế nước ta đã tụt hậu nghiêm trọng so với khu vực và quốc tế. Trong bối cảnh đó, kinh tế thị trường là điều kiện rất quan trọng đưa nền kinh tế nước ta ra khỏi khủng hoảng và phát triển, phục hồi sản xuất, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng, bắt kịp bước tiến của thời đại. Trên cơ sở đó, đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao, những nhu cầu sinh hoạt vật chất cơ bản ngày càng được đáp ứng một cách đẩy đủ và nhanh chóng.
Trong những năm qua, kinh tế thị trường ở nước ta đã được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đi vào cuộc sống rất nhanh chóng, góp phần khơi dậy nhiều tiềm năng sáng tạo, làm cho nền kinh tế sống động hơn, bộ mặt thị trường được thay đổi và sôi động hơn. Bên cạnh đó, kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay không chỉ tạo điều kiện vật chất để xây dựng, phát huy nguồn lực con người mà còn tạo ra môi trường thích hợp cho con người phát triển hoàn toàn, toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần. Kinh tế thị trường tạo ra sự cạnh tranh, chạy đua quyết liệt. Buộc con người phải năng động sáng tạo, linh hoạt, có tác phong nhanh nhạy, có đầu óc quan sát, phân tích để thích nghi và hành động có hiệu quả. Từ đó, nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của con người góp phần làm giảm đi sự chậm chạp và trì trệ vốn có của con người lao động trong nền kinh tế lạc hậu từ ngàn đời còn người Việt Nam. Kinh tế thị trường tạo ra những điều kiện thích hợp cho con người mở rộng các quan hệ buôn bán giao lưu, từ đó hình thành các chuẩn mực văn hóa đạo đức theo tiêu chí thị trường như chữ tín trong chất lượng và giao dịch... Đây hướng tốt đẹp bù đắp những thiếu hụt trong hệ giải trí của con người Việt Nam.
Những phân tích trên đây cho thấy, kinh tế thị trường là mục tiêu xây dựng con người XHCN là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta hiện nay. Đây chính là hai mặt đối lập của một mâu thuẫn xã hội. Giữa kinh tế thị trường và quá trình xây dựng con người vừa có sự thống nhất, vừa có sự đấu tranh. Kinh tế thị trường vừa tạo ra những điều kiện để xây dựng, phát huy những nguồn lực con người, vừa tạo ra những độc tố hủy hoại đầu độc con người. Việc giải quyết những mâu thuẫn trên đây là việc làm không hề đơn giản. Việc áp dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý tầm vĩ mô của Nhà nước, đồng thời xác nhận đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Các hoạt động sản xuất kinh doanh phải hướng vào phục vụ công cuộc xây dựng nguồn lực con người.
Kết luận
Mâu thuẫn biện chứng với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan đối với đất nước ta. Chúng ta đã nhận thức được rằng những thành tựu mà chúng ta đạt được qua 15 năm thực hiện chiến lược kinh tế xã hội là sự nổ lực vượt bậc của toàn Đảng, toàn dân ta. Đồng thời những khó khăn thách thức mà chúng ta sẽ gặp phải cũng hết sức to lớn đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục cố gắng hơn nữa, nổ lực nhiều hơn nữa để vượt qua. Với thực tiễn đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày một rõ ràng và đầy đủ hơn. Điều này, trên thực tế đã trở thành một nguồn lực đặc biệt có ý nghĩa bảo đảm cho mỗi hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội cụ thể trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Nền kinh tế thị trường tuy mới hình thành ở nước ta nhưng đã bước đầu vượt qua những khó khăn tưởng như không thể vượt qua do nền kinh tế tập trung bao liêu bao cấp để lại thu được những thành tựu đáng phấn đấu khích trong nèn kinh tế. Tạo niềm tin trong nhân dân vào sự nghiệp đổi mới, kiên định đi theo con đường chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Nhà nước đã lựa chọn. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực do nền kinh tế thị trường mang lại, chúng ta cũng không thể tránh khỏi những mâu thuẫn vốn có của nó. Vì mới bước đầu hội nhập với nền kinh tế thị trường do vậy, việc nhận thức về những mặt đối lập, những quy luật của kinh tế thị trường là hết sức cần thiết đối với chúng ta để có được các biện pháp cần thiết giải quyết những mâu thuẫn này góp phần đưa đất nước phát triển hội nhập với các quốc gia phát triển trên thế giới, ổn định kinh tế, chính trị, xã hội tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh) – NXB Lý luận Chính trị 2006
2.Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần VIII
3. Văn Kiện Đại hội Đảng lần IX.
4. Tạp chí triết học số 8 - 2006
5. Tạp chí triết học số 17-2005.
6. Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường (Học viện Chính trị quốc gia).
7. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mâu thuẫn và phương hướng giải quyết (Nghiên cứu và lý luận số 8/2006)
8. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (Nghiên cứu và lý luận số 9/2005)
9. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
(Nghiên cứu và lý luận số 10/2006)
Mục lục
L
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 60484.DOC