Vấn đề thứ hai cần nhận thức rõ và
sớm có biện pháp phù hợp là xu hướng dịch
chuyển phân công lao động. Trong bối cảnh
sản xuất công nghiệp có thể loại ra hàng
loạt nhân lực thì thế mạnh nông nghiệp của
Việt Nam còn rất thiếu và yếu. Do đó cần có
chính sách chuyển dịch lực lượng lao động
từ khối các ngành công nghiệp sang khối
nông nghiệp làm bước đệm cho ứng dụng
công nghệ cao trong nông nghiệp. Hơn nữa,
sự dịch chuyển này còn có ý nghĩa trước
nguy cơ về suy giảm an ninh lương thực
hiện nay cũng như trong tương lai.
Về mặt pháp lý, Việt Nam cần có
những bước tiến rõ ràng hơn và nhanh nhạy
hơn nhằm đáp ứng được khả năng điều phối
các quan hệ xã hội phát sinh mới khi ứng
dụng thành quả của các công nghệ mới,
đặc biệt là các nền tảng trí tuệ nhân tạo và
không gian ảo. Mặc dù Hiến pháp năm 2013
cùng một số đạo luật cơ bản mới được ban
hành và đã trở thành những công cụ pháp lý
vững chắc cho nhu cầu bảo đảm các quyền
con người cả của các cá nhân và các nhóm,
nhưng quá trình thực hiện cho đến nay vẫn
còn nhiều bất cập và chậm trễ khiến cho
thách thức đối với việc cải cách pháp luật
trong thời kỳ cách mạng công nghiệp mới
là rất lớn do những biến đổi được tạo ra rất
nhanh kèm theo những hệ quả rất rộng và
khó khắc phục. Cụ thể, đối với việc bảo đảm
một số quyền con người của cá nhân như
quyền riêng tư trong đời sống thực và trên
không gian ảo vẫn chưa có biện pháp pháp
lý phù hợp khiến cho các hành vi xâm phạm
quyền (bao gồm của cả các cơ quan nhà
nước) có xu hướng gia tăng
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 219 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quyền con người trong cách mạng công nghiệp lần thứ bốn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ bốn đặt ra những thách thức
đối với vấn đề bảo đảm các quyền con người ở Việt Nam. Điều
này đòi hỏi các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và các chủ
thể khác có liên quan khác cần tìm hiểu, chuẩn bị và thay đổi cả về
nhận thức, công cụ pháp luật và hành động thực tiễn trong việc bảo
vệ và bảo đảm các quyền con người.
Vũ Công Giao*
Nguyễn Anh Đức**
* PGS. TS. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
** ThS. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Abstract
The Fourth Industrial Revolution has been posed challenges for
human rights assurance in Vietnam. It is required the government
agencies, social organizations and other stakeholders are well
prepared and to change both their awareness, legal instruments and
practical actions for both protection and assurance of the human
rights
Thông tin bài viết:
Từ khóa: mô hình tố tụng hình sự,
tố tụng hình sự, tranh tụng, mô hình
tranh tụng, mô hình tố tụng tranh tụng,
mô hình thẩm cứu, mô hình thẩm vấn,
cải cách tư pháp.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 28/01/2018
Biên tập : 22/02/2018
Duyệt bài : 26/02/2018
Article Infomation:
Keywords: The Fourth Industrial
Revolution; human rights; vulnerable
social group
Article History:
Received : 28 Jan. 2018
Edited : 22 Feb. 2018
Approved : 26 Feb. 2018
QUYỀN CON NGƯỜI TRONG CÁCH MẠNG
CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ BỐN
1. Khái quát về cách mạng công nghiệp
lần thứ bốn
“Cách mạng công nghiệp lần thứ bốn”
là cụm từ gây ấn tượng theo nhiều nghĩa
trong thời gian gần đây ở Việt Nam. Bên
cạnh những tán thưởng mang tính lạc quan
thì cũng không ít những lo lắng, ái ngại, đặc
biệt khi xét trong bối cảnh Việt Nam hiện
nay, ít nhất là về khía cạnh kinh tế. Theo đó,
hầu hết đều cho rằng, cuộc cách mạng lần
này sẽ tạo ra những thay đổi vô cùng lớn đối
với đời sống con người.
Dù còn khá mới mẻ, nhưng về cơ bản
có thể hiểu cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ bốn được đánh dấu bằng sự tồn tại
của các công cụ hỗ trợ kết nối và lan tỏa giá
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3Số 11(363) T6/2018
trị. Theo công ty tư vấn Gartner, đó là “sự
kết nối các hệ thống nhúng và các cơ sở sản
xuất thông minh để tạo ra sự hội tụ giữa chế
tạo, kinh doanh và các quy trình cũng như
chức năng bên trong các hoạt động đó” và
kỳ vọng sẽ tạo ra “các hệ thống vật chất ảo”
(cyber-physical systems)1. Một định nghĩa
khác được cho là đơn giản hơn đưa ra bởi
Klaus Schwab, người sáng lập và là Chủ
tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế thế giới, cho
rằng cuộc cách mạng này “đặc trưng bởi sự
kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ
ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật
số và sinh học”2. Cũng theo Klaus Schwab3,
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ bốn
sẽ đem lại nhiều lợi ích như nâng cao thu
nhập và mức sống của cư dân trên toàn cầu
nhờ vào các công nghệ hỗ trợ đời sống; các
chi phí vận tải, liên lạc, thương mại cũng sẽ
giảm, từ đó góp phần tạo ra các thị trường
mới và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Những
dự liệu lạc quan đó được minh chứng bằng
một số nhận định về tác động của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ bốn tới hoạt động
kinh doanh và cách thức quản trị nhà nước.
Thứ nhất, hoạt động kinh doanh
thương mại đã và đang ngày càng có nhiều
biến đổi dựa trên các nền tảng công nghệ,
giúp cho khả năng đáp ứng các nhu cầu của
đời sống con người ngày càng tốt hơn theo
những phương thức mới trong khi vẫn giảm
tối đa các chi phí cũng như thời gian mà lại
tăng được hiệu năng của giá trị sử dụng.
Điều này có thể thấy rõ qua ví dụ về sự khác
biệt giữa dịch vụ vận chuyển truyền thống
với dịch vụ vận chuyển trên nền tảng công
nghệ như Uber, Grab; hay giữa các hình
thức phân phối, mua bán truyền thống với
các “chợ trực tuyến” phủ sóng toàn cầu như
Amazon, Alibaba, E-bay, Nhưng không
1 Gartner, What Is Industrie 4.0 and What Should CIOs Do About It?, https://www.gartner.com/newsroom/id/3054921,
truy cập ngày 5/1/2018.
2 Klaus Schwab (2016), The Fourth Industrial Revolution: what it means, how to respond, Diễn đàn Kinh tế thế giới,
https://www.weforum.org/agenda/2016/01/the-fourth-industrial-revolution-what-it-means-and-how-to-respond, truy
cập ngày 5/1/2018.
3 Tlđd.
dừng ở đó, “xu hướng chính sẽ là sự phát
triển các nền tảng công nghệ cho phép kết
nối các cơ sở sản xuất với người tiêu dùng
mà sẽ phá vỡ cấu trúc sản xuất và phân phối
hiện có, giảm bớt các khâu trung gian giữa
bên sản xuất và bên sử dụng”. Các thay đổi
đó, xét đến cùng sẽ dẫn đến nhu cầu cải tổ
nguồn nhân lực sản xuất, văn hóa sản xuất
và các hình thức tổ chức quản lý sản xuất.
Thứ hai, quản trị nhà nước sẽ chứng
kiến một số thay đổi lớn như cách thức
người dân tham gia vào quản lý nhà nước sẽ
được cải thiện nhờ các nền tảng công nghệ;
các chính phủ cũng sẽ có cơ hội nâng cao
hiệu năng quản lý nhờ những công nghệ
giám sát mới và khả năng kiểm soát sẵn có
đối với hạ tầng kỹ thuật số; quy trình hoạch
định chính sách truyền thống sẽ không còn
phù hợp trong bối cảnh các nhu cầu và diễn
biến xã hội thay đổi nhanh chóng, không chỉ
trên đời sống thực mà còn cả ở các không
gian ảo được tạo lập.
Về mặt đối ngoại, những công nghệ
mới có thể giúp các quốc gia gắn kết với
nhau tốt hơn, chia sẻ các nguồn lực và phối
hợp tốt hơn trong giải quyết những bất đồng.
Mặc dù vậy, nguy cơ và hậu quả của các
xung đột phi truyền thống được cho là sẽ
khó kiểm soát, như các cuộc tấn công mạng
hay việc chế tạo và sử dụng các loại vũ khí
sinh hóa trở nên dễ dàng hơn.
Những thay đổi kể trên chắc chắn
không dừng ở việc tác động tới thay đổi
hành vi của mỗi con người, mà hơn thế đặt
ra dấu hỏi đối với vị thế của con người trong
tương lai trong mối tương quan với các thực
thể khác. Và đây mới chính là những thay
đổi trực tiếp ảnh hưởng đến khả năng thụ
hưởng các quyền của mỗi người.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Số 11(363) T6/2018
2. Tác động của cách mạng công nghiệp
lần thứ bốn đối với quyền cá nhân của
con người
2.1 Tư cách chủ thể quyền
Sự tham gia ngày càng phổ biến của
các công nghệ mới trong các lĩnh vực của
đời sống con người đang đặt ra bài toán về
mối quan hệ giữa chúng với con người tự
nhiên. Thực tế cho thấy, những công nghệ
mới hoàn toàn có thể thay thế con người
trong việc “tư duy” và “quyết định hành
động” (như các trí tuệ nhân tạo). Điều đó có
nghĩa là, con người đang đứng trước những
mối quan hệ pháp lý mới hoàn toàn khác so
với những thực thể pháp lý chúng ta đã từng
gặp như các pháp nhân, thậm chí cả các giao
dịch điện tử (hợp đồng điện tử, chữ ký điện
tử,). Cho đến nay, dù có tư cách pháp lý
riêng nhưng các pháp nhân hay các hình
thức giao dịch điện tử vẫn phải được thực
hiện thông qua hành vi của con người. Trong
khi đó, sự xuất hiện của các trí tuệ nhân tạo
sẽ có thể không cần tới, thậm chí không thể
bị điều khiển bởi ý chí của con người. Minh
chứng điển hình là hồi cuối tháng 7/2017,
hai chương trình trí tuệ nhân tạo do các kỹ
sư Facebook phát triển đã tự tạo ra một ngôn
ngữ riêng để liên lạc với nhau mà không kỹ
sư nào hiểu được nội dung giao tiếp đó4, dù
rằng sau đó các nhà nghiên cứu nói rằng “có
thể hiểu được kết quả của cuộc hội thoại”5.
Ngày 25/10/2017, Ả-rập Xê-út đã gây
chú ý với quyết định trao tư cách công dân
cho người máy có tên Sophia dẫn tới một
vấn đề pháp lý rõ hơn. Rằng nữ công dân
Sophia có tư cách pháp lý bình đẳng với
những nữ công dân khác ở quốc gia này hay
không, như sự đòi hỏi phải theo Hồi giáo
hay những yêu cầu về sự xuất hiện của nữ
giới nơi công cộng,
4 Báo Nhân dân (2017), Facebook xóa sổ trí tuệ nhân tạo có khả năng tự sáng tạo ra ngôn ngữ mới,
vn/congnghe/item/33622102-facebook-xoa-so-tri-tue-nhan-tao-co-kha-nang-tu-sang-tao-ra-ngon-ngu-moi.html, truy
cập ngày 15/1/2018.
5 VNReview(2017), Facebook đã không hoảng sợ và tắt chương trình AI tự tạo ra ngôn ngữ như tin đồn,
view.vn/tin-tuc-khoa-hoc-cong-nghe/-/view_content/content/2232722/facebook-da-khong-hoang-so-va-tat-ai-tu-tao-
ra-ngon-ngu-nhu-tin-don, truy cập ngày 15/1/2018.
Những động thái như vậy cho thấy,
xu hướng mở rộng phạm vi chủ thể của các
quyền thay vì chỉ dành cho chủ thể truyền
thống là các cá nhân con người. Và xu
hướng đó đang đặt ra một số vấn đề cụ thể
hơn như: liệu có hay không sự xuất hiện của
sự phân biệt địa vị pháp lý giữa con người
với người máy tương tự như đã từng tồn tại
giữa chủ nô và nô lệ trước đây? Pháp luật
có cách thức nào để dung hòa sự khác biệt
về nhu cầu giữa con người với các thực thể
mang trí tuệ nhân tạo? Hay xa hơn như liệu
có khả năng các trí tuệ nhân tạo trở thành
thành viên của hội đồng xét xử tại Tòa án, ít
nhất là với tư cách của “hội thẩm nhân dân”
hay “bồi thẩm đoàn”?...
Ngoài ra, khả năng thực hiện các nghĩa
vụ pháp lý của người máy cũng là thách thức
đối với các nhà lập pháp trong bối cảnh mới.
Rõ ràng là chúng ta không thể truy cứu trách
nhiệm pháp lý giống như đối với pháp nhân
khi xảy ra một vấn đề/thiệt hại nào đó. Bởi
xét đến cùng, trách nhiệm của pháp nhân
vẫn phải được thực thi bởi những con người
đại diện cho pháp nhân đó. Còn người máy
thì có thể không cần đến người đại diện về
pháp lý. Điều may mắn hiện nay là chúng ta
chưa phải ưu tiên giải quyết cho vấn đề tư
cách chủ thể quyền này, mà cần chú trọng
tới những vấn đề nhãn tiền hơn.
2.2 Những tác động đối với quyền cá
nhân trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội
Có thể nói, những dấu hiệu rõ ràng nhất
của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ bốn
là khả năng bảo đảm những quyền con người
nhất định, mà điển hình là các quyền về kinh
tế, xã hội do những thực trạng đã diễn ra
trong nhiều năm gần đây. Theo một báo cáo
của Viện Nghiên cứu McKinsey, thực hiện
khảo sát trên 46 quốc gia và hơn 800 ngành
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5Số 11(363) T6/2018
nghề, khoảng 400 - 800 triệu nhân công trên
toàn thế giới sẽ bị thay thế bởi người máy và
các thiết bị tự động hóa vào năm 2030, trong
số đó sẽ có khoảng 75 đến 375 triệu người
phải lựa chọn nghề nghiệp khác và phải học
các kỹ năng mới6.
Như vậy, có thể thấy rằng, tác động
ban đầu của cuộc cách mạng lần này thiên
về khía cạnh tiêu cực đối với quyền về lao
động việc làm, khiến cho một lực lượng lao
động lớn bị loại ra khỏi các cơ hội việc làm
hiện tại, bên cạnh một phần không nhỏ hơn
là lực lượng thất nghiệp sẵn có. Đây không
chỉ là bài toán đối với riêng lĩnh vực chế tạo
sản xuất để phải tìm ra cách thức/công việc
mới cho lực lượng lao động dôi dư mà còn
đòi hỏi chính bản thân người lao động phải
nỗ lực cải thiện năng lực cá nhân. Không
những thế, ngay cả khi đã tìm được một công
việc mới thì người lao động vẫn có thể phải
chịu những sức ép về hiệu suất lao động để
không tiếp tục bị thay thế.
Ngoài quyền làm việc phải chịu tác
động tiêu cực (ở giai đoạn ban đầu), sẽ kéo
theo nhu cầu ngày càng tăng và có giai đoạn
tăng đột biến về bảo đảm an sinh xã hội,
giáo dục đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp,
duy trì và nâng cấp các dịch vụ công cộng cơ
bản (như y tế, nhà ở, môi trường,):
- Gánh nặng thất nghiệp hoặc thu nhập
thấp đòi hỏi các chính sách về y tế phải trở
nên dễ tiếp cận hơn (như về chi phí y tế, số
lượng và chất lượng nguồn lực cả vật chất
và con người). Thời gian qua đã chứng kiến
nhiều tiến bộ của y học, đặc biệt là việc đưa
vào sử dụng hệ thống quản lý điện tử hay
áp dụng các kỹ thuật tự động trong khám,
chữa trị một số loại bệnh tật. Và xu hướng
cho thấy, ngày càng có nhiều hoạt động y tế
được thực hiện trên cơ sở các thiết bị công
nghệ hơn để vừa tăng hiệu quả điều trị và
tiết kiệm được các chi phí có liên quan. Khả
6 McKinsey (2017), What the future of work will mean for jobs, skills, and wages, https://www.mckinsey.com/glob-
al-themes/future-of-organizations-and-work/what-the-future-of-work-will-mean-for-jobs-skills-and-wages, truy cập
ngày 5/1/2018.
năng kết nối của các thiết bị hiện nay cũng
như trong tương lai còn có thể giúp con
người không nhất thiết phải di chuyển tới
các cơ sở y tế mà có thể được khám và điều
trị từ xa với hiệu năng cao. Thậm chí, mỗi
người cũng có thể tự trở thành người chăm
sóc y tế cho bản thân nhờ các thiết bị theo
dõi, cảnh báo về tình trạng sức khỏe mà hiện
nay cũng đã được biết đến nhiều (dù các
chức năng còn ở mức đơn giản và vẫn cần sự
can thiệp sớm của chuyên gia y tế). Với cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ bốn mà một
trong các lĩnh vực trọng điểm là công nghệ
sinh hóa được tập trung phát triển, chúng ta
cũng hoàn toàn tin tưởng về khả năng điều
trị một số loại bệnh mà hiện nay chưa có
giải pháp. Bên cạnh những tác động tích cực
đó, một mâu thuẫn truyền thống giữa nhu
cầu bảo đảm quyền về sức khỏe với bảo đảm
quyền sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm y
tế (thuốc, dược phẩm, thiết bị,) vẫn sẽ là
chủ đề gây tranh cãi và tiếp tục là gánh nặng
đối với người bệnh.
- Về quyền đối với môi trường, người
ta tin rằng các công nghệ mới sẽ thân thiện
hơn với môi trường sống hiện nay, giảm phát
thải các khí gây hại, hoặc ít nhất là cũng sẽ
phổ biến hơn những công nghệ xử lý chất
thải an toàn. Cụ thể hơn, những nguồn tài
nguyên thiết yếu nhưng dễ bị ô nhiễm sẽ là
động lực thúc đẩy sự phát triển của các công
nghệ làm sạch như nguồn nước, không khí.
Những công việc mới cũng có thể xuất hiện
như các công ty kinh doanh không khí sạch
đang dần khẳng định vị thế của họ cũng như
cho thấy nhu cầu thương mại hóa mặt hàng
này đang tăng lên. Tuy nhiên, vẫn là yếu tố
chi phí khiến cả khi đã xuất hiện các công
nghệ mới xử lý ô nhiễm thì đó hẳn không
phải là giải pháp cho đa số dân chúng, đặc
biệt là những người có thu nhập thấp trong
khi ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Số 11(363) T6/2018
lại tác động đến hầu hết mọi người. Đây là
một thách thức lớn đối với các nhà nước
trong việc xây dựng và thực thi các chính
sách nghiêm khắc đối với những hành vi gây
nguy hại cho môi trường sống.
- Về quyền lương thực, cho đến hiện
nay vẫn là bài toán gây đau đầu không chỉ
các cơ quan nhà nước mà còn với nhiều tổ
chức xã hội. Do ảnh hưởng từ suy thoái môi
trường, việc trồng trọt, chăn nuôi trở nên khó
khăn và đem lại hiệu năng không đồng đều.
Thực tế đó đang khiến cho an ninh lương
thực là vấn đề được cảnh báo trên phạm vi
toàn cầu và thể hiện ở hai khía cạnh. Một là
thiếu nguồn cung lương thực7 khiến cho nhu
cầu sản xuất nông nghiệp đến 2050 phải tăng
tới 70%. Liên hiệp quốc cũng đã phải đưa ra
cảnh báo, nếu nguồn cung lương thực không
được đảm bảo, đến năm 2020, thế giới sẽ
có thêm 60 triệu người nữa bị thiếu ăn cùng
với gần 01 tỷ người suy dinh dưỡng8. Hai
là khả năng tiếp cận lương thực an toàn và
bình đẳng cũng bị đe dọa dẫn tới nguy cơ
phân hóa sâu sắc hơn trên cơ sở giàu, nghèo.
Hiện nay vẫn tồn tại nghịch lý là trong khi
không ít trẻ em phải chịu tình trạng suy dinh
dưỡng, thiếu ăn thì “ít nhất 41 triệu trẻ em
dưới 5 tuổi đang bị béo phì hoặc thừa cân”9.
Một trong những nguyên nhân của tình trạng
này là do sử dụng thức ăn không đảm bảo an
toàn dinh dưỡng, đặc biệt là các loại thức
ăn được sản xuất công nghiệp. Cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ bốn được cho
rằng sẽ giúp tăng năng suất cũng như hiệu
quả phân phối lương thực, chất lượng lương
thực được cải thiện hơn.
- Đối với nhóm các quyền về văn hóa,
7 Giữa năm 2016, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ công bố báo cáo cho thấy lượng lương thực dự trữ của ba nước xuất khẩu lớn
nhất thế giới đã sụt giảm ở mức lớn nhất kể từ 2003.
an-ninh-luong-thuc-vi-the-he-tuong-lai-37576.html, truy cập ngày 5/1/2018.
8 Báo Quốc tế (2016), Đảm bảo an ninh lương thực vì thế hệ tương lai,
aHR1YW4=/dam-bao-an-ninh-luong-thuc-vi-the-he-tuong-lai-37576.html, truy cập ngày 5/1/2018.
9 Báo Quốc tế (2016), Đảm bảo an ninh lương thực vì thế hệ tương lai, tlđd.
10 Dân trí (2015), Thanh niên châu Âu gia nhập Hồi giáo cực đoan ngày càng nhiều,
nien-chau-au-gia-nhap-hoi-giao-cuc-doan-ngay-cang-nhieu-1426270917.htm, truy cập ngày 5/1/2018.
con người có khả năng tiếp cận tốt hơn với
các hoạt động văn hóa, giải trí nhờ vào sự
cạnh tranh giữa các nhà cung cấp dịch vụ về
chất lượng cũng như giá thành phù hợp hơn.
Và ở góc độ nào đó, nhờ vào sự chuyển dịch
phân công lao động sang những ngành nghề
mới, khía cạnh văn hóa, các giá trị đạo đức
và cộng đồng sẽ được thúc đẩy và quan tâm
nhiều hơn. Sự thúc đẩy đó nằm ở cả khía
cạnh giao thoa giữa các giá trị văn hóa, giảm
bớt những mâu thuẫn, xung đột mà hiện nay
đang là nguyên nhân của cả các xung đột
vũ trang ở nhiều nơi trên thế giới. Điều này
hoàn toàn có thể được hiện thực hóa nhờ vào
các thiết bị, phương tiện kết nối và chia sẻ
dựa trên nền tảng “kết nối vạn vật” (Internet
of Things) và hệ thống Siêu dữ liệu (Big
data) vốn là những trọng điểm của cuộc cách
mạng công nghiệp lần này. Dù vậy, chúng ta
cũng không thể quá lạc quan do cũng từ khả
năng kết nối mạnh mẽ mà có thể khiến cho
việc phát tán các giá trị văn hóa phản nhân
văn, thậm chí mang tính cực đoan có thể dễ
dàng hơn. Bằng chứng là chỉ trong thời gian
tồn tại ngắn ngủi, Tổ chức nhà nước Hồi
giáo (ISIL) đã chỉ nhờ internet mà thu hút
được hàng ngàn chiến binh có nguồn gốc
châu Âu, đặc biệt là những người ở lứa tuổi
thanh thiếu niên có trình độ tin học được tiếp
cận giáo lý Hồi giáo cực đoan10.
3. Tác động của cách mạng công nghiệp lần
thứ bốn với các quyền của nhóm
Về cơ bản, quyền của nhóm được hiểu
là “những quyền đặc thù, chung của một tập
thể hay một nhóm xã hội nhất định, mà để
được hưởng thụ các quyền này cần phải là
thành viên của nhóm, và đôi khi cần phải
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7Số 11(363) T6/2018
thực hiện cùng với các thành viên khác của
nhóm”11. Hiện tại, quyền của nhiều nhóm
xã hội đã được ghi nhận bởi pháp luật nhân
quyền quốc tế dưới các hình thức tuyên bố,
điều ước hoặc khuyến nghị bao gồm quyền
của phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, người
khuyết tật, người sống chung với HIV/
AIDS, người lao động di trú, người thiểu số,
người bản địa, người không có quốc tịch,
người bị tước tự do, Do không dễ gì xác
định và phân tích những tác động tiêu biểu
của cuộc cách mạng công nghiệp lần này
đối với từng nhóm quyền, nên các tác giả
cho rằng tạm thời chỉ nên phân tích những
tác động chung đối với một số quyền tiêu
biểu của các nhóm, bao gồm quyền không
bị phân biệt đối xử, quyền bình đẳng, quyền
phát triển.
Trong đó, quyền không bị phân biệt
đối xử giữa các nhóm người vẫn là mối quan
tâm hàng đầu hiện nay dù trên thực tế đã có
những cải thiện. Nhờ sự phát triển của khoa
học công nghệ, những rào cản truyền thống
về giới tính, độ tuổi, sắc tộc, chủng tộc, tôn
giáo, tín ngưỡng có thể tiếp tục được giảm
bớt. Các công nghệ mới cũng có thể hỗ trợ
tốt hơn cho mọi người để việc giao tiếp, phối
hợp không còn phải chịu tác động của những
định kiến truyền thống. Ví dụ như trong lĩnh
vực lao động sẽ cơ bản dựa trên yếu tố năng
lực trí tuệ, kỹ năng để tuyển dụng thay vì
phải cân nhắc đến tình trạng sức khỏe giữa
nam và nữ; giữa người khuyết tật với người
không khuyết tật; hay nhờ vào các thiết bị
giám sát sức khỏe, người sống chung với
HIV/AIDS có thể hòa nhập tốt hơn với cộng
đồng; “chủ nghĩa lý lịch” cũng không thể
tiếp tục duy trì ảnh hưởng của nó trong ít
nhất là các hoạt động quản lý dân cư, giáo
dục và tuyển dụng lao động vốn mang đậm
dấu ấn các hình thức phân biệt trên cơ sở
tôn giáo, tín ngưỡng, sắc tộc, chủng tộc,
Có nhiều quan điểm cho rằng, để hạn chế sự
phân biệt đối xử cần trước hết thúc đẩy thực
11 Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb. Đại học Quốc
gia Hà Nội, tr.65.
hiện các biện pháp tuyên truyền, phổ biến
kiến thức có liên quan đến phân biệt đối xử
như các chủ thể bị phân biệt, các hình thức
phân biệt, nhưng chúng tôi cho rằng, vấn
đề cốt lõi không nằm ở đó mà phải có những
công cụ hỗ trợ để mọi người tự xác định và
đánh giá hành vi của bản thân tương tự thiết
bị dự báo nguy cơ xâm phạm quyền. Bởi vì
xét cho cùng, những định kiến và phân biệt
đối xử của người này với người khác cũng
chỉ nhằm bảo vệ chính bản thân họ khỏi
những hệ lụy mà họ cho rằng sẽ gặp phải
nếu như không phân biệt đối xử.
Bên cạnh quyền không bị phân biệt đối
xử, quyền bình đẳng giữa các nhóm và trong
xã hội nói chung cũng sẽ có những thay đổi
đáng kể, đặc biệt trước nguy cơ gia tăng sự
phân hóa giàu, nghèo trong xã hội khiến cho
cơ hội tiếp cận và thụ hưởng các quyền của
các cá nhân hay các nhóm sẽ trở nên khác
nhau. Về vấn đề này có thể phân tích trên
hai khía cạnh chính: bình đẳng về pháp lý và
bình đẳng thực tế. Về cơ bản, pháp luật nhân
quyền quốc tế yêu cầu các quốc gia phải thể
hiện nguyên tắc bình đẳng trong hệ thống
pháp luật nhưng thực tế không phải quốc
gia nào cũng đã đạt được. Ở một số nước,
vị thế của người phụ nữ vẫn khác biệt rất
nhiều so với nam giới mà với lý do niềm tin
tôn giáo, tín ngưỡng, những hạn chế đó chắc
chắn không thể được xóa bỏ trong tương lai
gần. Ngoài ra, kể cả ở những quốc gia đạt
được hệ thống pháp lý bảo đảm nguyên tắc
bình đẳng nhưng việc thực hiện trên thực tế
lại chưa tốt, điển hình như Việt Nam. Ngay
cả về khía cạnh pháp lý, quyền bình đẳng
cũng cần được hiểu dưới hai dạng là bình
đẳng về địa vị pháp lý (tức tư cách chủ thể
pháp lý) và bình đẳng về cơ hội được bảo vệ
bởi pháp luật.
Dưới tác động của cuộc cách mạng
công nghiệp mới, chúng tôi cho rằng, khía
cạnh bình đẳng pháp lý giữa các nhóm sẽ có
rất ít biến động mà chủ yếu thay đổi về bình
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Số 11(363) T6/2018
đẳng thực tế. Ở đó, các nhóm chủ thể khác
nhau có khả năng thực hiện những hành vi
áp đặt lẫn nhau. Dễ thấy nhất là nguy cơ bất
bình đẳng trong lao động, không chỉ giữa
nam và nữ mà còn đối với nhóm lao động trẻ
em (hoặc chưa thành niên). Các phương thức
sản xuất và phân phối mới có thể khiến người
lao động không cần trực tiếp có mặt tại các
công xưởng hay các địa điểm công cộng mà
có thể làm việc trực tuyến. Với xu hướng đó,
lao động chưa thành niên và lao động trẻ em
hoàn toàn có thể gia tăng vì nhu cầu thu nhập
thêm (hoặc thu nhập riêng) và có thể chi phí
các nhà tuyển dụng phải bỏ ra ít hơn. Nguy
cơ thấy rõ là phạm vi các ngành nghề có sự
tham gia của nhóm này cũng sẽ trở nên khó
kiểm soát, và các nhóm lao động này cũng
có thể bị lạm dụng sức lao động, hay không
được bảo đảm các quyền lợi thuộc về nghĩa
vụ của người sử dụng lao động.
4. Tác động của cách mạng công nghiệp
lần thứ bốn với việc bảo đảm quyền con
người ở Việt Nam
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
bốn là diễn tiến tất yếu của lịch sử và có ảnh
hưởng đến toàn cầu, đặc biệt là các quốc gia
còn kém phát triển như Việt Nam do chưa
có đủ nền tảng hạ tầng cũng như năng lực
tiếp cận. “Mức độ sẵn sàng của Việt Nam
đối với cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0
ở mức trung bình thấp. Điều này thể hiện
qua hai khía cạnh, các chỉ số và công nghệ.
Bên cạnh đó, nguồn nhân lực công nghệ ở
Việt Nam về cơ bản vẫn chưa sẵn sàng, chưa
tương đương với ASEAN. Chúng ta còn
có một điểm yếu nữa là năng suất lao động
của Việt Nam còn thấp. Tuy nhiên, ưu điểm
của nước ta là mật độ thuê bao di động vượt
xa các nước có mức thu nhập tương đương
12 Lê Xuân Công, Cách mạng công nghiệp 4.0 và những vấn đề ở Việt Nam,
thong/cach-mang-cong-nghiep-4-0-va-nhung-van-de-o-viet-nam-383787.html, truy cập ngày 5/1/2018.
13 Báo cáo tại phiên họp toàn thể Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, ông Bùi Sỹ Lợi - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề
xã hội của Quốc hội cho biết, có 80% sinh viên, cử nhân ra trường hiện đang chạy xe cho Uber, Grab. Xem: Báo Mới
(2017), 80% tài xế xe ôm Grab, Uber là sinh viên, cử nhân thất nghiệp, https://baomoi.com/80-tai-xe-xe-om-grab-uber-
la-sinh-vien-cu-nhan-that-nghiep/c/23619716.epi, truy cập ngày 5/1/2018
trong khu vực ASEAN”12.
Qua đó có thể thấy, vấn đề cơ bản mà
Việt Nam phải đối mặt trước tiên cũng thuộc
về lĩnh vực lao động với hệ thống hạ tầng và
chất lượng nguồn nhân lực là hai điểm mấu
chốt. Có thể lấy ngay ví dụ về cuộc cạnh
tranh giữa hệ thống vận tải sử dụng nền tảng
công nghệ (Grab, Uber) với hệ thống vận tải
truyền thống ở Việt Nam trong thời gian gần
đây đã cho thấy những vấn đề rất đáng quan
tâm như: lực lượng lao động truyền thống
chịu ảnh hưởng lớn tới cơ hội việc làm và
thu nhập; lực lượng nhân lực trẻ có khả năng
nắm bắt cơ hội nhanh chóng nhưng không
đúng với trọng tâm mà dễ bị cuốn theo
những công việc gắn với lợi ích trước mắt13
mà chưa tập trung phát triển nghề nghiệp có
tính bền vững; trong khi đó, hành lang pháp
lý lại không theo kịp những diễn biến mới
khiến xảy ra nhiều xung đột cả giữa các chủ
thể kinh doanh dịch vụ và giữa những người
lao động. Cũng từ ví dụ thực tiễn này cho
thấy các doanh nghiệp truyền thống khi đứng
trước sự cạnh tranh bởi các nhà cung cấp
dịch vụ cùng loại nhưng có sử dụng nền tảng
công nghệ cũng đã phải tự tìm cách thích
ứng bằng việc dần thay đổi các hình thức
cung cấp dịch vụ (sự xuất hiện mảng dịch vụ
xe ôm công nghệ của hãng Mai Linh) thay
vì lặp lại phương pháp thường thấy là kêu
gọi, vận động tiêu dùng sản phẩm, hàng hóa
nội địa.
Một ví dụ khác cũng cho thấy thực tế
Việt Nam cũng đã chịu những tác động của
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ bốn.
Theo dự báo của Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO), 86% người lao động Việt Nam trong
ngành dệt may - da giày và 3/4 lao động trong
ngành điện - điện tử có thể phải đối mặt với
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9Số 11(363) T6/2018
nguy cơ mất việc làm cao do tự động hóa14.
Ở nhiều công ty sản xuất mỹ nghệ ở Bình
Dương, 90% công nhân đã phải nghỉ việc15.
Tại hội thảo quốc tế “Phát triển công nghiệp
thông minh - Smart Industry World 2017”
diễn ra vào ngày 5/12/2017, ông Nguyễn
Văn Bình, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương
cho biết: “đến nay, Việt Nam vẫn chưa có
một chiến lược riêng thúc đẩy công nghiệp
4.0. Việt Nam cần có một cái nhìn đầy đủ
hơn, đa chiều hơn và phải có một chiến lược
tiếp cận hợp lý để có thể nắm bắt cơ hội, cải
thiện vị thế của mình và không bị tụt hậu
trong cuộc cách mạng này”16.
Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, chúng
ta đã có sự bắt nhịp khá nhanh trước những
đòi hỏi của cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ tư. Tuy nhiên, sự chủ động đó chủ yếu
vẫn là áp dụng những thành quả tự động hóa
của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba
trong sản xuất kinh doanh. Về mặt chính
sách, Việt Nam còn lúng túng trong việc xác
định hướng đi tiếp theo, hay các nội dung
trọng điểm cần tập trung để nắm bắt các cơ
hội này. Hơn thế nữa, các chính sách hiện
hành mới chỉ xoay quanh khía cạnh kinh
tế với sự tham gia chủ yếu của các doanh
nghiệp mà chưa có những dự báo, đánh giá
liên quan đến những thay đổi về giáo dục,
những nguy cơ về môi trường, lương thực,
hay thách thức đối với việc bảo đảm các
quyền cá nhân của con người như quyền
riêng tư trước nguy cơ xâm phạm bởi Nhà
nước hoặc bên thứ ba, đối với việc thực hiện
các quyền và tự do cá nhân khác cũng như
các quyền của nhóm,. Chúng tôi cho rằng,
Việt Nam cần chú trọng hơn đến các vấn đề
cụ thể thay vì chỉ đưa ra các kêu gọi hưởng
ứng hay thúc đẩy phát triển nền kinh tế số.
Những chú trọng này cần phải xuất phát từ
nhận thức rằng mọi tiến trình phát triển đều
phải hướng tới mục tiêu cuối cùng là bảo vệ
14 Nhịp cầu đầu tư (2017), Cần làm gì trước nguy cơ mất việc vì robot?,
can-lam-gi-truoc-nguy-co-mat-viec-vi-robot-3318203/, truy cập ngày 5/1/2018
15 Nhịp cầu đầu tư (2017), Robot đang “đe dọa” con người như thế nào?,
dang-de-doa-con-nguoi-nhu-the-nao-3319583/, truy cập ngày 5/1/2018
16 ICTNews (2017), Công nghiệp Việt Nam chuyển mình trong cuộc cách mạng 4.0,
cong-nghiep-viet-nam-chuyen-minh-trong-cuoc-cach-mang-4-0-161900.ict, truy cập ngày 5/1/2018
con người và nâng cao chất lượng sống của
con người nói chung chứ không dựa trên ưu
tiên cho bất kỳ nhóm chủ thể nào, dù rằng
trong đó, vẫn có thể xác định những nhóm
chủ thể trọng tâm.
Vấn đề thứ hai cần nhận thức rõ và
sớm có biện pháp phù hợp là xu hướng dịch
chuyển phân công lao động. Trong bối cảnh
sản xuất công nghiệp có thể loại ra hàng
loạt nhân lực thì thế mạnh nông nghiệp của
Việt Nam còn rất thiếu và yếu. Do đó cần có
chính sách chuyển dịch lực lượng lao động
từ khối các ngành công nghiệp sang khối
nông nghiệp làm bước đệm cho ứng dụng
công nghệ cao trong nông nghiệp. Hơn nữa,
sự dịch chuyển này còn có ý nghĩa trước
nguy cơ về suy giảm an ninh lương thực
hiện nay cũng như trong tương lai.
Về mặt pháp lý, Việt Nam cần có
những bước tiến rõ ràng hơn và nhanh nhạy
hơn nhằm đáp ứng được khả năng điều phối
các quan hệ xã hội phát sinh mới khi ứng
dụng thành quả của các công nghệ mới,
đặc biệt là các nền tảng trí tuệ nhân tạo và
không gian ảo. Mặc dù Hiến pháp năm 2013
cùng một số đạo luật cơ bản mới được ban
hành và đã trở thành những công cụ pháp lý
vững chắc cho nhu cầu bảo đảm các quyền
con người cả của các cá nhân và các nhóm,
nhưng quá trình thực hiện cho đến nay vẫn
còn nhiều bất cập và chậm trễ khiến cho
thách thức đối với việc cải cách pháp luật
trong thời kỳ cách mạng công nghiệp mới
là rất lớn do những biến đổi được tạo ra rất
nhanh kèm theo những hệ quả rất rộng và
khó khắc phục. Cụ thể, đối với việc bảo đảm
một số quyền con người của cá nhân như
quyền riêng tư trong đời sống thực và trên
không gian ảo vẫn chưa có biện pháp pháp
lý phù hợp khiến cho các hành vi xâm phạm
quyền (bao gồm của cả các cơ quan nhà
nước) có xu hướng gia tăng■
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Số 11(363) T6/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quyen_con_nguoi_trong_cach_mang_cong_nghiep_lan_thu_bon.pdf