Quyền của người hưởng dụng theo quy định của bộ luật dân sự năm 2015
Thứ ba: Cho thuê quyền hưởng dụng
đối với tài sản.
Cần phải đưa quy định về chi phí
đo vẽ vào BLTTDS, coi đây là một trong
những chi phí tố tụng khác để có căn cứ
pháp lý cho việc thực hiện(1);
- Trước mắt, Tòa án nhân dân tối cao
cần ban hành văn bản hướng dẫn quy
định cụ thể về loại chi phí này trong đó
cần xác định nghĩa vụ nộp tạm ứng chi
phí, nghĩa vụ nộp chi phí, mức chi phí,
trình tự thủ tục thu chi. Cụ thể:
+ Người yêu cầu đo vẽ phải chịu toàn
bộ chi phí đo vẽ;
+ Các đương sự phải chịu toàn bộ
chi phí đo vẽ; việc đo vẽ cần thiết cho
việc giải quyết cho những yêu cầu hay
quyền lợi của đương sự nào thì những
đương sự đó phải chịu chi phí; mức chi
phí cụ thể tùy thuộc vào kết quả giải
quyết vụ án trên cơ sở quyết định của
Tòa án;
+ Chi phí cho những người tham gia
đo vẽ ngoài đại diện Uỷ ban nhân dân cấp
xã phải bao gồm cả thư ký, Thẩm phán,
cán bộ đo vẽ.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 271 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quyền của người hưởng dụng theo quy định của bộ luật dân sự năm 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
32 Khoa học Kiểm sát Số 01 - 2018
Trong thời kỳ đổi mới, quyền hưởng dụng mới chỉ được ghi nhận và quy định tại Bộ luật dân
sự năm 2015. Tuy nhiên, trong lịch sử
pháp luật Việt Nam thì quyền hưởng
dụng đã được đề cập trong Bộ dân luật
Bắc kỳ năm 1931, Bộ dân luật Trung kỳ
năm 1936 và Bộ dân luật Sài Gòn năm
1972. Trong Bộ dân luật Bắc Kỳ và Bộ
dân luật Trung Kỳ, quyền hưởng dụng
được quy định là một trong các “phân
thác quyền sở hữu”(1); còn trong Bộ dân
luật Sài Gòn thì quyền hưởng dụng
được quy định tại Thiên thứ 3 “Những
chi phân của quyền sở hữu”. Bộ luật dân
sự năm 2015 được ban hành đã ghi nhận
và quy định quyền hưởng dụng là một
trong các quyền khác đối với tài sản.
Quyền khác đối với tài sản được hiểu
là: quyền của chủ thể trực tiếp nắm giữ,
chi phối tài sản thuộc quyền sở hữu của
chủ thể khác(2). Bộ luật dân sự năm 2015
1 Xem: Phan Văn Thiết, Dân – Luật tu tri, Nhà sách
Khai trí, năm 1961.
2 Khoản 1 Điều 159 Bộ luật dân sự năm 2015.
cũng đã quy định một số nội dung cơ
bản của quyền hưởng dụng như: Căn cứ
xác lập, căn cứ chấm dứt quyền hưởng
dụng, hiệu lực của quyền hưởng dụng,
thời hạn của quyền hưởng dụng, quyền
và nghĩa vụ của người hưởng dụng,
quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu tài
sản. Tuy nhiên những quy định này còn
chung chung, nhiều điểm chưa rõ ràng
và bất cập, đặc biệt là quy định về quyền
của người hưởng dụng còn có những
điểm hạn chế, thiếu sót. Trong phạm vi
bài viết này tác giả sẽ tập trung vào việc
phân tích, đánh giá, bình luận những
quy định về quyền của người hưởng
dụng của Bộ luật dân sự năm 2015 và
đưa ra những kiến nghị hoàn thiện.
Quyền của người hưởng dụng được
Bộ luật dân sự năm 2015 quy định tại
Điều 261, cụ thể:
“1. Tự mình hoặc cho phép người
khác khai thác, sử dụng, thu hoa lợi, lợi
tức từ đối tượng của quyền hưởng dụng.
* Thạc sĩ, Khoa Pháp luật Dân sự và Kiểm sát dân sự,
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
QUYỀN CỦA NGƯỜI HƯỞNG DỤNG
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HẢI *
Bài viết nghiên cứu các quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 về quyền của
người hưởng dụng, qua đó chỉ ra những điểm còn bất cập và đưa ra những kiến
nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về quyền của người hưởng dụng.
Từ khóa: Quyền của người hưởng dụng, quyền hưởng dụng, Bộ luật dân sự
năm 2015.
The paper is targeted at the regulations of the Civil Code in 2015 on the
rights of the usufructary, thereby revealing shortcomings and proposing
recommendations to improve the law on the rights of the usufructary.
Keywords: Rights of usufructary, usufruct right, the Civil Code in 2015.
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HẢI
33Số 01 - 2018 Khoa học Kiểm sát
2. Yêu cầu chủ sở hữu tài sản thực hiện
nghĩa vụ sửa chữa đối với tài sản theo quy
định tại khoản 4 Điều 263 của Bộ luật này;
trường hợp thực hiện nghĩa vụ thay cho
chủ sở hữu tài sản thì có quyền yêu cầu
chủ sở hữu tài sản hoàn trả chi phí.
3. Cho thuê quyền hưởng dụng đối
với tài sản.”
Thứ nhất: Người hưởng dụng có
quyền tự mình hoặc cho phép người khác
khai thác, sử dụng, thu hoa lợi, lợi tức từ
đối tượng của quyền hưởng dụng.
Trong thời hạn của quyền hưởng
dụng, người hưởng dụng có quyền tự
mình khai thác, sử dụng tài sản để đáp
ứng nhu cầu của mình hoặc thu hoa lợi,
lợi tức phát sinh từ tài sản và được xác
lập quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức
đó. Trường hợp người có quyền hưởng
dụng không tự mình trực tiếp khai thác,
sử dụng tài sản thì họ có thể cho người
khác khai thác, sử dụng để có thể thu hoa
lợi, lợi tức thông qua các giao dịch dân
sự. Quyền này phát sinh từ thời điểm
quyền hưởng dụng có hiệu lực. Quy định
này thể hiện rõ thế mạnh của người có
quyền hưởng dụng so với người đi thuê,
đi mượn trong hợp đồng thuê, hợp đồng
mượn tài sản. Nếu người thuê, mượn tài
sản chỉ được sử dụng tài sản thuê, mượn
theo đúng công dụng, mục đích như đã
thỏa thuận với bên cho thuê, mượn mà
không được phép cho người khác thuê,
mượn lại tài sản trừ khi được sự đồng
ý của bên cho thuê, mượn. Còn đối với
người có quyền hưởng dụng ngoài
việc họ có quyền trực tiếp khai thác, sử
dụng tài sản, họ còn có quyền cho phép
người khác khai thác, sử dụng tài sản
là đối tượng của quyền hưởng dụng
mà không cần có sự đồng ý của chủ sở
hữu tài sản. Đồng thời, người có quyền
hưởng dụng được thụ hưởng các dịch
quyền từ tài sản là đối tượng của quyền
hưởng dụng. Trong thời hạn có hiệu lực
của quyền hưởng dụng, người có quyền
hưởng dụng có thể thực hiện quyền của
mình chống lại tất cả mọi người, thậm
chí quyền của người hưởng dụng còn
được bảo đảm trong mối tương quan với
quyền sở hữu(1).
Quy định tại khoản 1 Điều 261 Bộ luật
dân sự năm 2015 đã phần nào thể hiện
được đặc điểm đặc trưng của quyền hưởng
dụng với tư cách là một vật quyền. Tuy
nhiên, quy định này vẫn còn quá chung
chung, chưa cụ thể và chưa phản ánh
được đầy đủ bản chất của quyền hưởng
dụng – một dịch quyền thuộc người đóng
vai trò quan trọng. Luật La Mã quy định
về quyền dụng ích cá nhân (quyền hưởng
dụng) chỉ được áp dụng đối với những
chủ thể là những người thân thích, gần
gũi nhất với chủ sở hữu tài sản như cha
mẹ già yếu, con chưa thành niên, vợ hoặc
chồng. Ngoài ra, quyền của người hưởng
dụng cũng bị giới hạn trong phạm vi thỏa
mãn nhu cầu sinh hoạt cá nhân tối thiểu
hàng ngày. Việc khai thác tài sản không
mang tính thương mại, không tích lũy
hay sinh lời(2). Thời kỳ sau này, pháp luật
các quốc gia tiếp tục kế thừa, mở rộng quy
1 Xem: Bùi Thị Thanh Hằng, Một số nội dung đáng
lưu ý về “quyền sở hữu và quyền khác đối với tài
sản” của Bộ luật dân sự năm 2015, Tọa đàm Giới
thiệu Bộ luật dân sự 2015, năm 2016.
2 Xem: PGS.TS. Bùi Đăng Hiếu, Hệ thống các vật
quyền trong pháp luật dân sự, Hội thảo khoa học
“Sửa đổi các quy định về tài sản và quyền sở hữu
trong Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2015”, tháng
5/2014.
QUYỀN CỦA NGƯỜI HƯỞNG DỤNG THEO QUY ĐỊNH...
34 Khoa học Kiểm sát Số 01 - 2018
định về chủ thể, nội dung quyền hưởng
dụng để đáp ứng nhu cầu phát triển của
con người. Điển hình trong Bộ luật dân
sự của Pháp quy định người hưởng dụng
có thể là cả những chủ thể không phải là
những người thân thích, gần gũi với chủ
sở hữu. Những người này không chỉ có
quyền khai thác, sử dụng tài sản mà còn
có quyền hưởng hoa lợi, lợi tức phát sinh
từ tài sản và có thể cho người khác thuê
tài sản đó để hưởng lợi. Phạm vi hưởng
quyền của người có quyền hưởng dụng
sẽ phụ thuộc vào quy định của pháp luật
hoặc theo ý chí của chủ thể. Dựa vào căn
cứ xác lập quyền hưởng dụng, Bộ luật
Dân sự Pháp phân thành: Quyền hưởng
hoa lợi, lợi tức; quyền sử dụng và quyền
cư dụng(1). Tương ứng với mỗi loại, pháp
luật quy định về chủ thể, phạm vi hưởng
quyền khác nhau. Hay trong Bộ dân luật
Bắc kỳ, Bộ dân luật Trung Kỳ của Việt
Nam thời kỳ này các quy định về quyền
của người hưởng dụng khá rõ ràng, cụ
thể. Theo đó giới hạn, phạm vi quyền của
người hưởng dụng được hưởng sẽ phụ
thuộc vào căn cứ xác lập quyền. Quyền
hưởng dụng được phân ra thành: Quyền
ứng dụng thu lợi; quyền dùng và quyền
ở; sự cho thuê dài hạn(2). Trong Bộ dân
luật Sài Gòn năm 1972 quy định về quyền
hưởng dụng gồm: Quyền dụng ích; quyền
hành dụng và quyền cư dụng; thuê mướn
trường kỳ.
Như vậy, qua đối chiếu và so sánh
với quy định của pháp một số quốc gia
và pháp luật của một số thời kỳ lịch sử
1 Xem bản dịch: Từ Điều 578 đến Điều 636 Bộ luật
dân sự Pháp, Nxb Tư pháp, năm 2005.
2 Xem: Phan Văn Thiết, Dân – Luật tu tri, Nhà sách
Khai trí, năm 1961.
của Việt Nam có thể thấy rằng quy định
về quyền của người hưởng dụng tại
khoản 1 Điều 261 Bộ luật dân sự năm
2015 chưa thể hiện được giới hạn, phạm
vi hưởng quyền khác nhau của người
hưởng dụng tương ứng với căn cứ xác
lập quyền hưởng dụng. Tại Điều 258 Bộ
luật dân sự năm 2015 quy định căn cứ xác
lập quyền hưởng dụng, bao gồm: Xác lập
theo quy định của luật, theo thỏa thuận
và theo di chúc. Quy định về căn cứ xác
lập quyền hưởng dụng trong Bộ luật dân
sự năm 2015 là phù hợp và tương thích
với quy định của các nước theo hệ thống
Civil law. Tuy nhiên, đối chiếu giữa căn
cứ xác lập quyền hưởng dụng với quyền
của người hưởng dụng còn những điểm
chưa phù hợp. Nhìn vào quy định quyền
của người hưởng dụng tại Điều 261,
chúng ta khó có thể xác định được giới
hạn phạm vi mà họ được hưởng dụng
đối với tài sản. Trường hợp quyền hưởng
dụng được xác lập theo ý chí (theo di
chúc hoặc theo thỏa thuận) thì có thể xác
định được ai là người có quyền hưởng
dụng và được hưởng trong phạm vi như
thế nào. Nhưng nếu quyền hưởng dụng
được xác lập dựa trên căn cứ theo quy
định của luật thì những ai, chủ thể nào
được hưởng dụng tài sản của chủ sở hữu?
Họ được có quyền hưởng dụng như thế
nào? Đây có lẽ là vấn đề mà Bộ luật dân
sự năm 2015 chưa giải quyết được. Với
quy định một cách chung chung tại Điều
261 thì việc áp dụng và thực thi điều luật
này sẽ gặp những khó khăn và chưa thực
sự phù hợp với thực tiễn.
Từ những phân tích ở trên, có thể
thấy rằng quy định về quyền của người
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HẢI
35Số 01 - 2018 Khoa học Kiểm sát
hưởng dụng tại khoản 1 Điều 261 Bộ luật
dân sự năm 2015 cần có sự sửa đổi, bổ
sung cho phù hợp. Việc sửa đổi, bổ sung
theo hướng phân quyền hưởng dụng
thành quyền dụng ích cá nhân và quyền
cho thuê dài hạn. Nếu quyền hưởng
dụng được xác lập theo quy định của
luật thì đó là quyền dụng ích cá nhân.
Còn quyền hưởng dụng được xác lập
theo ý chí thì đó là quyền cho thuê dài
hạn. Đối với mỗi loại quyền sẽ có những
quy định cụ thể về chủ thể hưởng quyền,
giới hạn, phạm vi hưởng quyền.
Thứ hai: Yêu cầu chủ sở hữu tài sản
thực hiện nghĩa vụ sửa chữa đối với tài
sản theo quy định tại khoản 4 Điều 263
của Bộ luật này; trường hợp thực hiện
nghĩa vụ thay cho chủ sở hữu tài sản thì
có quyền yêu cầu chủ sở hữu tài sản hoàn
trả chi phí.
Quy định nhằm mục đích đảm bảo cho
người có quyền hưởng dụng được khai thác,
sử dụng tài sản một cách ổn định. Tài sản
luôn luôn ở trong trạng thái hoạt động bình
thường. Nếu tài sản bị hỏng dẫn đến không
khai thác, sử dụng được thì ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền của người hưởng dụng. Do
đó, khoản 2 Điều 261 Bộ luật dân sự năm
2015 đã quy định quyền yêu cầu chủ sở hữu
phải sửa chữa tài sản. Tuy nhiên, quy định
này theo quan điểm của tác giả còn những
điểm chưa hợp lý:
Một là: Khoản 2 Điều 261 Bộ luật
dân sự năm 2015 không quy định rõ ràng
trách nhiệm sửa chữa tài sản khi tài sản
bị hư hỏng dẫn đến tài sản không thể
sử dụng được thuộc về chủ sở hữu hay
người có quyền hưởng dụng. Bởi khoản
2 Điều 261 Bộ luật dân sự năm 2015 thì
quy định việc yêu cầu sửa chữa tài sản là
quyền của người có quyền hưởng dụng.
Nhưng tại khoản 4 Điều 262 Bộ luật dân
sự năm 2015 lại quy định đó là nghĩa vụ
của bên có quyền hưởng dụng(1). Dường
như đang có sự mâu thuẫn giữa quy định
tại khoản 2 Điều 261 Bộ luật dân sự năm
2015 với quy định tại khoản 4 Điều 262 Bộ
luật dân sự năm 2015.
Hai là: Đối với những hỏng hóc nhỏ
thì nghĩa vụ sửa chữa thuộc về ai? Điều
này cũng chưa được Bộ luật dân sự năm
2015 đề cập. Theo lẽ thường trên thực tế
thì đối với việc sửa chữa những hỏng hóc
nhỏ hoặc việc bảo dưỡng đối với tài sản
sẽ thuộc nghĩa vụ của người có quyền
hưởng dụng.
Từ những phân tích nêu trên, thấy
rằng cần kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 2
Điều 261 Bộ luật dân sự năm 2015 như sau:
“Yêu cầu chủ sở hữu tài sản thực hiện nghĩa vụ
sửa chữa đối với tài sản theo quy định tại khoản
4 Điều 263 của Bộ luật này; trừ trường hợp đó
là việc bảo dưỡng tài sản theo định kỳ, những
hỏng hóc nhỏ hoặc do lỗi của người có quyền
hưởng dụng. Nếu thực hiện nghĩa vụ thay cho
chủ sở hữu tài sản thì có quyền yêu cầu chủ sở
hữu tài sản hoàn trả chi phí.”
Đồng thời, bỏ quy định tại khoản 4
Điều 262 Bộ luật dân sự năm 2015.
Thứ ba: Cho thuê quyền hưởng dụng
đối với tài sản.
(Xem tiếp trang 44)
1 Khoản 4 Điều 262 Bộ luật dân sự năm 2015 quy
định: “Bảo dưỡng, sửa chữa tài sản theo định kỳ để
bảo đảm cho việc sử dụng bình thường; khôi phục
tình trạng của tài sản và khắc phục các hậu quả xấu
đối với tài sản do việc không thực hiện tốt nghĩa vụ
của mình phù hợp với yêu cầu kỹ thuật hoặc theo tập
quán về bảo quản tài sản”.
MỘT SỐ KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC VỀ THỦ TỤC ĐO VẼ...
44 Khoa học Kiểm sát Số 01 - 2018
- Cần phải đưa quy định về chi phí
đo vẽ vào BLTTDS, coi đây là một trong
những chi phí tố tụng khác để có căn cứ
pháp lý cho việc thực hiện(1);
- Trước mắt, Tòa án nhân dân tối cao
cần ban hành văn bản hướng dẫn quy
định cụ thể về loại chi phí này trong đó
cần xác định nghĩa vụ nộp tạm ứng chi
phí, nghĩa vụ nộp chi phí, mức chi phí,
trình tự thủ tục thu chi... Cụ thể:
1 Xem Th.S. Lê Văn Sua, Bàn về nghĩa vụ chịu chi
phí xem xét, thẩm định tại chỗ; định giá, thẩm
định giá trong BLTTDS năm 2015,
moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.
aspx?ItemID=2218.
+ Người yêu cầu đo vẽ phải chịu toàn
bộ chi phí đo vẽ;
+ Các đương sự phải chịu toàn bộ
chi phí đo vẽ; việc đo vẽ cần thiết cho
việc giải quyết cho những yêu cầu hay
quyền lợi của đương sự nào thì những
đương sự đó phải chịu chi phí; mức chi
phí cụ thể tùy thuộc vào kết quả giải
quyết vụ án trên cơ sở quyết định của
Tòa án;
+ Chi phí cho những người tham gia
đo vẽ ngoài đại diện Uỷ ban nhân dân cấp
xã phải bao gồm cả thư ký, Thẩm phán,
cán bộ đo vẽ./.
QUYỀN CỦA NGƯỜI
HƯỞNG DỤNG...
(Tiếp theo trang 35)
Quyền hưởng dụng bản thân nó
cũng là một loại tài sản tồn tại dưới
dạng quyền thuộc quyền sở hữu của
người hưởng dụng(1). Do đó, người có
quyền hưởng dụng có thể định đoạt
quyền hưởng dụng thuộc sở hữu của
mình trong thời gian quyền hưởng
dụng có hiệu lực. Tuy nhiên quy định
tại khoản 3 Điều 261 Bộ luật dân sự năm
2015 lại quy định người hưởng dụng
chỉ có quyền cho thuê quyền hưởng
dụng mà không có các quyền khác như:
chuyển nhượng quyền hưởng dụng,
1 Xem: PGS.TS. Nguyễn Văn Cừ - PGS.TS. Trần Thị
Huệ, Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2015,
Nxb Công an nhân dân, năm 2017 (trang 429).
hoặc dùng quyền hưởng dụng để đảm
bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự trong
thời hạn quyền hưởng dụng có hiệu lực.
Việc chưa ghi nhận người hưởng dụng,
có các quyền này đã làm giảm đi giá trị
kinh tế của quyền hưởng dụng và người
hưởng dụng không thể khai thác được
triệt để những lợi ích mà đối tượng của
quyền hưởng dụng mang lại.
Theo quan điểm của tác giả, quy
định tại khoản 3 Điều 261 Bộ luật dân
sự năm 2015 cần sửa đổi, bổ sung theo
hướng mở rộng quyền năng của người
hưởng dụng đối với quyền hưởng dụng.
Người hưởng dụng có toàn quyền đối
với quyền hưởng dụng với tư cách là
một chủ sở hữu tài sản trong thời hạn
quyền hưởng dụng có hiệu lực./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quyen_cua_nguoi_huong_dung_theo_quy_dinh_cua_bo_luat_dan_su.pdf